CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
Khái niệm và ý nghĩa của quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
1.1 Một vài khái niệm cơ bản.
1.1.1 Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp với nhiều bộ phận tương tác lẫn nhau Sự phát triển của nền kinh tế kéo theo sự phát triển của các thành phần bên trong Cơ cấu kinh tế được định nghĩa là tổng thể các ngành, lĩnh vực và bộ phận kinh tế có mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định Nội dung cơ bản của cơ cấu kinh tế bao gồm các bộ phận hợp thành và các quan hệ ổn định theo tỷ lệ nhất định Khái niệm cơ cấu kinh tế rất đa dạng, bao gồm cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
Sự phát triển của nền kinh tế dẫn đến sự thay đổi trong phân công lao động xã hội, làm cho cơ cấu kinh tế cũ dần bị phá vỡ và thay thế bằng cơ cấu kinh tế mới Đây chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Website Viện Khoa học Thống kê, Tổng cục Thống kê (http://iss.gso.gov.vn) cung cấp thông tin về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là quá trình thay đổi tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế Một phần quan trọng trong quá trình này là cơ cấu hàng xuất khẩu và sự chuyển dịch của nó, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và thương mại quốc tế.
Ngày nay, xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối nền kinh tế các quốc gia, với nhiều nước theo đuổi chiến lược mở cửa và tập trung vào xuất khẩu Mối quan hệ giữa sản xuất và xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, trong đó cơ cấu xuất khẩu phản ánh trình độ sản xuất của quốc gia Một cơ cấu sản xuất hợp lý sẽ nâng cao hiệu quả xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy cải biến nền kinh tế, tối đa hóa tiềm năng sản xuất trong nước và khai thác cơ hội từ bên ngoài Do đó, cơ cấu kinh tế và tỷ trọng các nhóm hàng xuất khẩu luôn có mối liên hệ mật thiết.
Cơ cấu hàng xuất khẩu bao gồm tổng hợp các nhóm và mặt hàng xuất khẩu, thể hiện tỷ trọng và vị trí tương ứng trong tổng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời phản ánh mối liên hệ hữu cơ tương đối ổn định giữa các thành phần này.
Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu là quá trình thay đổi cấu trúc hàng hóa xuất khẩu để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Cơ cấu hàng xuất khẩu được xem xét và phân loại theo quan điểm của từng quốc gia, từng tổ chức và tuỳ từng mục đích nghiên cứu.
Cơ cấu hàng xuất khẩu được phân loại theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương, bao gồm danh mục mô tả hàng hóa và Hệ thống mã số Hài hòa, thường được gọi là Hệ thống điều hòa (Harmonized Commodity System).
Description and Coding System), Danh mục Phân ngành hoạt động kinh tế tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Industrial Classification of All
The article discusses the classification of economic activities through the International Standard Industrial Classification (ISIC) and the Broad Economic Categories (BEC) It specifically highlights the Standard International Trade Classification (SITC), Revision 3, which serves as a standardized framework for categorizing international trade goods.
Danh mục hàng hóa thương mại quốc tế tiêu chuẩn (SITC) 3, do Uỷ ban Thống kê Liên hợp quốc ban hành, là bảng phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu dựa trên công đoạn sản xuất Bản sửa đổi lần thứ ba bao gồm 10 phần, 67 chương, 261 nhóm và 3.118 phân nhóm Theo phân loại này, hàng xuất khẩu được chia thành ba nhóm chính.
(1) Hàng thô hoặc mới sơ chế.
(2) Hàng chế biến hoặc đã tinh chế.
(3) Hàng hoá không thuộc các nhóm trên
Theo phân loại này, cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu tập trung vào hai nhóm chính Tại các nước đang phát triển, tỷ trọng hàng hóa thuộc nhóm 1 vẫn chiếm ưu thế, do đó, các quốc gia này thường nỗ lực giảm tỷ trọng xuất khẩu của nhóm 1 và tăng dần tỷ trọng của nhóm hàng thứ 2.
Theo “Chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2001-2010”, hàng xuất khẩu được phân loại thành 4 nhóm dựa trên hàm lượng chế biến của sản phẩm.
(1) Khoáng sản: đây là nhóm hàng hoàn toàn dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.
3 Website Ủy ban thống kê Liên Hợp Quốc, UNSD, http:// unstats.un.org.
4 Bộ Thương mại, “Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010”, năm 2000.
(2) Nông - lâm - thuỷ sản: là nhóm hàng có sự kết hợp giữa nguồn lực tự nhiên và lao động nhưng hàm lượng công nghệ thấp.
(3) Hàng chế biến chính: là nhóm hàng bao gồm những sản phẩm có hàm lượng công nghệ ổn định nhưng hàm lượng lao động lớn và kỹ năng thấp.
Hàng chế biến cao là nhóm sản phẩm tiêu biểu cho thời kỳ phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, với hàm lượng nghiên cứu và phát triển (R&D) cao, đòi hỏi kỹ năng lao động phức tạp hơn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu đang diễn ra với xu hướng giảm tỷ trọng các mặt hàng thuộc hai nhóm đầu, đồng thời tăng tỷ trọng các mặt hàng thuộc hai nhóm sau Điều này thể hiện rõ ràng sự phát triển của sản xuất trong nền kinh tế.
Phân loại theo nhóm hàng : Trong
Niên giám thống kê Việt Nam, Tổng cục Thống kê phân loại cơ cấu hàng xuất khẩu theo cơ cấu ngành kinh tế 5 , đó là:
(1) Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản.
(1) Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
(2) Hàng nông - lâm - thuỷ sản.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu bắt đầu từ nhóm nông - lâm - thủy sản, tiến tới nhóm hàng công nghiệp nhẹ và cuối cùng là nhóm hàng công nghiệp nặng Cách tiếp cận này liên quan chặt chẽ đến cơ cấu kinh tế theo ngành, từ đó tạo điều kiện cho việc lập kế hoạch điều chỉnh phù hợp với từng ngành kinh tế.
Theo ý kiến của tác giả , cơ cấu hàng xuất khẩu được chia làm 3 nhóm hàng theo vị trí trong tổng kim ngạch xuất khẩu như sau:
Hàng chủ lực là những sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhờ vào việc có thị trường tiêu thụ ổn định ở nước ngoài và điều kiện sản xuất thuận lợi trong nước.
Vận dụng lý thuyết về Thương mại quốc tế để đánh giá lợi thế cạnh
Nhận thức rõ về bản chất và lợi ích của thương mại quốc tế thông qua các lý thuyết thương mại là điều cần thiết cho việc hoạch định chính sách xuất khẩu của mỗi quốc gia Do đó, phần này sẽ tập trung vào các tư tưởng cơ bản về lợi thế cạnh tranh, từ đó làm cơ sở để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Các học thuyết cổ điển về thương mại quốc tế như: Chủ nghĩa trọng thương (1500 – 1800), Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối – Adam Smith (1776),
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1817) chỉ ra rằng thương mại quốc tế phụ thuộc vào sự khác biệt về năng suất lao động giữa các quốc gia Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về lợi thế cạnh tranh, chúng ta cần xem xét các lý thuyết sau này, bao gồm lý thuyết về hàm lượng các nhân tố đầu vào của Eli Heckscher và Bertil Ohlin (1949 – 1977) cũng như lý thuyết vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon.
(1966) và Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia Michael Porter (1990).
2.1 Vận dụng lý thuyết về hàm lượng các yếu tố của Heckscher – Ohlin.
Lý thuyết H – O 6 được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố.
Một quốc gia sẽ tập trung xuất khẩu những sản phẩm mà quy trình sản xuất cần sử dụng nhiều yếu tố sản xuất dồi dào mà quốc gia đó sở hữu.
Dựa trên lý thuyết H – O, có thể hình dung rằng những nước giàu tài nguyên thiên nhiên sẽ là những nước xuất khẩu chúng trên thị trường thế giới.
Các quốc gia sở hữu nguồn nhân công dồi dào và chi phí lao động thấp thường tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm chế biến cần nhiều lao động.
6 Lý thuyết H-O còn có 3 định lý khác Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả không đề cập đến.
Lý thuyết H – O dựa trên một số giả thiết cơ bản, trong đó thế giới có hai quốc gia, hai yếu tố sản xuất là lao động và vốn, cùng hai mặt hàng Công nghệ sản xuất là giống nhau, với hiệu suất không đổi theo quy mô và năng suất cận biên giảm dần Hàng hóa khác nhau về hàm lượng các yếu tố sản xuất và không có sự hoán vị giữa chúng Thị trường cạnh tranh hoàn hảo, chuyên môn hóa không hoàn toàn, và các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong quốc gia Sở thích của người tiêu dùng là giống nhau, và thương mại diễn ra tự do với chi phí vận chuyển bằng 0.
Theo lý thuyết H – O, mỗi quốc gia có sự dồi dào tương đối về một trong hai nguồn lực là lao động hoặc vốn Việt Nam, với đặc điểm là một nước đang phát triển, thường có nguồn lao động dồi dào hơn, trong khi các nước phát triển lại tập trung vào nguồn vốn Để minh chứng cho sự phong phú về lao động của Việt Nam, chúng ta sẽ so sánh tỷ lệ L/K (lao động và vốn) của Việt Nam với một số quốc gia trong khu vực, đồng thời phân tích sự biến động của tỷ lệ này qua các năm.
Biểu đồ 1.1 So sánh tỷ lệ L/K của Việt Nam và một số nước trong khu vực.
(Số liệu trung bình năm, giai đoạn 2000 – 2003)
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Niên giám Thống kê các năm, NXB Thống kê
Biểu đồ cho thấy Việt Nam có nguồn lao động dồi dào hơn so với nhiều nước đang phát triển khác trong khu vực.
Nhưng cũng cũng theo như xu thế chung, xu hướng giảm sút trong tỷ lệ L/K là khá rõ nét.
Biểu đồ 1.2 Biến động của tỷ lệ L/K của Việt Nam.
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Niên giám Thống kê các năm, NXB Thống kê
Từ lý thuyết H – O, chúng ta có thể rút ra những kết luận quan trọng về quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Việt Nam sở hữu nguồn lao động dồi dào, vì vậy cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các sản phẩm có hàm lượng lao động cao như dệt may, giày dép và nông sản.
Lợi thế lao động của Việt Nam đang giảm sút, ảnh hưởng đến cơ cấu hàng xuất khẩu Để tạo ra cơ hội mới, cần hình thành những lợi thế mới, chuyển dịch từ hàng hóa chưa qua chế biến sang hàng hóa đã qua chế biến Nếu không chủ động tìm kiếm lợi thế so sánh mới, sự suy giảm lợi thế lao động sẽ tác động tiêu cực đến cơ cấu và kim ngạch xuất khẩu.
2.2 Vận dụng lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm – Raymond Vernon.
Lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm cho rằng sự thay đổi công nghệ thông qua các phát minh mới có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của các quốc gia.
Các phát minh có thể xuất hiện ở các nước phát triển, nhưng quy trình sản xuất không nhất thiết phải diễn ra tại đó Sự ra mắt của sản phẩm mới phụ thuộc vào nguồn nhân lực có tay nghề cao và vị trí địa lý gần gũi với thị trường tiêu thụ Do đó, sản phẩm thường được sản xuất với chi phí cao tại các quốc gia lớn.
Khi công nghệ sản xuất ngày càng chuẩn hóa và phát triển rộng rãi, thị trường tiêu thụ mở rộng, dẫn đến sản xuất quy mô lớn với chi phí thấp hơn Các quốc gia có vốn dồi dào có khả năng bắt chước công nghệ, từ đó chuyển giao lợi thế so sánh từ nước phát minh sang các quốc gia này.
Khi công nghệ đạt đến mức chuẩn hóa hoàn toàn, quy trình sản xuất trở nên đơn giản và có thể chia thành nhiều giai đoạn Điều này tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các quốc gia đang phát triển, nơi sở hữu nguồn lao động phong phú.
Tóm lại, lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm cho rằng thương mại quốc tế sẽ phụ thuộc vào năng lực công nghệ của mỗi quốc gia.
Năng lực công nghệ của một quốc gia không chỉ thể hiện qua khả năng phát minh và tạo ra sản phẩm mới, mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc tiếp thu và làm chủ công nghệ đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển kinh tế.
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ 1996 ĐẾN NAY
Khái quát về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ 1996 đến nay
1.1 Bối cảnh chung nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Ở Việt Nam, giai đoạn từ 1996 đến nay bao gồm 5 năm cuối của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991-2000 và những năm tiếp theo của tiến trình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010.Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới đã có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế cũng như hoạt động xuất khẩu của Việt Nam Đầu tiên là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, ảnh hưởng trực tiếp đến các đối tác nhập khẩu chính và những nhà đầu tư lớn của Việt Nam trong khu vực Những năm đầu thế kỷ mới, thị trường thế giới đã có nhiều diễn biến không thuận lợi với một loạt các thách thức như chiến tranh, khủng bố, thiên tai, đại dịch, giá cả và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới Ngoài ra, việc Trung Quốc và Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO khiến cho hoạt động cạnh tranh của chúng ta trên thị trường thế giới ngày càng trở nên khốc liệt. Ở Việt Nam, nhờ có những chính sách phù hợp cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ vững được đà tăng trưởng, GDP liên tục tăng qua các năm.
Biểu đồ 2.1 Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 1996-2008. Đơn vị: %
Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê
Tốc độ tăng trưởng GDP đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, giảm tỷ trọng nông – lâm – ngư nghiệp và tăng cường các ngành công nghiệp, dịch vụ Mặc dù năng lực cạnh tranh quốc gia đã có những cải thiện, nhưng vẫn chưa rõ nét, ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Biểu đồ 2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam 1996-2005.
Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê
Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này đã đạt được những tiến bộ nhất định, tuy nhiên vẫn thiếu sự chuyển biến rõ nét về chất lượng Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu và quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
1.2 Quy mô, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu.
10 Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam: Khoảng cách đến nước thấp nhất là 11 (năm 1999), đến năm
Trong giai đoạn này, xuất khẩu đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao, vượt chỉ tiêu đề ra, mặc dù không đồng đều Cụ thể, trong hai năm 2001 và 2002, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chỉ đạt 7,4%/năm, nhưng ba năm tiếp theo đã có sự bứt phá mạnh mẽ với mức tăng trưởng bình quân 24,7%/năm So với tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu có tốc độ cao hơn nhiều, cho thấy tỷ lệ giữa kim ngạch xuất khẩu và GDP rất lớn Như vậy, xuất khẩu được xem là định hướng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Biểu đồ 2.3 Kim ngạch xuất, nhập khẩu giai đoạn 1998-2007. Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê
Nhập siêu đang là một vấn đề nổi bật trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao Điều này cho thấy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc đáng kể vào nguồn hàng nhập khẩu từ nước ngoài.
1.3 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
11 Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2007-2008.
1.3.1 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo SITC
Trong giai đoạn 1996-2003, tỷ lệ chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam đã tăng từ 32,8% lên 53,4%, trong khi tỷ lệ sản phẩm thô và sơ chế giảm từ 67,2% xuống còn 46,6% Mặc dù có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ sản phẩm đã qua chế biến, nhưng sự ổn định của tỷ lệ này chưa được duy trì, với giai đoạn 1997-2001 không có thay đổi rõ rệt và đặc biệt là năm 2000, tỷ lệ sản phẩm đã qua chế biến giảm 12%.
Trong nhóm sản phẩm thô và sơ chế, xuất khẩu chủ yếu tập trung vào lương thực thực phẩm (SITC 0) và nhiên liệu (SITC 3), trong khi các nhóm hàng khác có tỷ trọng thấp hơn nhiều.
Trong giai đoạn 1998-2000, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu giữa hai nhóm sản phẩm không rõ ràng, tuy nhiên, nhóm hàng nhiên liệu lại có xu hướng tăng trưởng đáng kể về kim ngạch xuất khẩu.
Trong nhóm sản phẩm đã qua chế biến, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam cho thấy tỷ trọng thấp đối với hàng công nghiệp và máy móc, thiết bị Nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất là sản phẩm thủ công nghiệp, tuy nhiên, nhóm này không phản ánh xu hướng chuyển dịch tích cực trong cơ cấu xuất khẩu.
Theo chỉ tiêu RCA 13, chỉ có 3 trong 9 nhóm mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có lợi thế so sánh, bao gồm lương thực thực phẩm (SITC 0), nhiên liệu (SITC 3) và thủ công nghiệp Những mặt hàng này tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên và giá nhân công thấp Tuy nhiên, đây cũng là những nhóm mặt hàng gặp nhiều bất cập về cơ cấu xuất khẩu.
12 Tổng hợp từ Báo cáo Bộ Công thương các năm.
Chỉ số RCA là một chỉ số quan trọng để đánh giá lợi thế cạnh tranh của mặt hàng; nếu RCA < 1, mặt hàng không có lợi thế so sánh, trong khi 1 < RCA < 2,5 cho thấy mặt hàng có lợi thế so sánh Đặc biệt, khi RCA > 2,5, mặt hàng được coi là có lợi thế cạnh tranh Hiện nay, nhóm hàng lương thực thực phẩm và nhiên liệu đang ghi nhận sự giảm dần trong hệ số RCA, trong khi nhóm hàng thủ công nghiệp lại có lợi thế so sánh tăng nhẹ trong giai đoạn này.
Bảng 2.1 Hệ số RCA các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam theo SITC giai đoạn 1999-2003.
Việt Nam không có lợi thế so sánh trong các nhóm hàng công nghiệp (SITC 6 và SITC 7), điều này phản ánh những thách thức trong việc cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu Việc này đặt ra khó khăn cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo hướng bền vững.
Bên cạnh việc chuyển cơ cấu mặt hàng như đã phân tích ở trên, giai đoạn 1996-2008, chúng ta cũng đã xây đựng được một số mặt hàng chủ lực.
Năm 1996, Việt Nam chỉ có 9 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 100 triệu USD, trong đó dầu thô và dệt may là hai mặt hàng duy nhất có kim ngạch vượt 1 tỷ USD Đến năm 2005, số lượng mặt hàng xuất khẩu đạt trên 100 triệu USD đã tăng lên đáng kể.
Trong tổng số 17 mặt hàng, có 7 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD Nổi bật trong số này là một số sản phẩm có tốc độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt là mặt hàng điện.
Hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, bao gồm nông sản, thủy sản, và sản phẩm gỗ, đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây Theo Theo Vũ Thắng Bình trong hội thảo khoa học quốc gia về thương mại Việt Nam, cơ cấu và lợi thế so sánh của các mặt hàng này là yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Phân tích việc vận dụng lợi thế cạnh tranh vào chuyển dịch cơ cấu trong từng nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam từ 1996 đến nay
trong từng nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam từ 1996 đến nay.
Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong từng nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam trong một giai đoạn dài từ 1996 đến nay là một quá trình
15 Tổng hợp báo cáo Bộ Công Thương các năm, www.moit.gov.vn.
Trong 10 năm qua, Việt Nam đã áp dụng lợi thế cạnh tranh một cách tỉ mỉ và kỹ lưỡng để chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu Phân tích thực trạng này cho thấy sự thay đổi đáng kể trong chiến lược xuất khẩu của đất nước.
2.1 Nhóm hàng khoáng sản và nguyên liệu.
Trong giai đoạn này, nhóm hàng nguyên nhiên liệu đóng góp tỷ trọng lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, với tỷ lệ giảm xuống 19,9% vào năm 2003, trước khi tăng trở lại lên 27,4% vào năm 2005.
Trong nhóm hàng này, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, sau đó là than đá và hầu như không có mặt hàng nguyên liệu nào khác.
Trong những năm qua, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam đã đạt tốc độ bình quân cao khoảng 22,8% mỗi năm Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dầu thô đang có xu hướng giảm Mặc dù khối lượng xuất khẩu tăng đều từ năm 1996 đến 2004, kim ngạch xuất khẩu vẫn có những biến động nhỏ vào các năm 1998 và 2001 Gần đây, dù khối lượng xuất khẩu giảm, kim ngạch vẫn tăng nhờ vào sự tăng giá trên thị trường Điều này cho thấy kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào biến động giá dầu thô toàn cầu.
Thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam chủ yếu tập trung vào ba quốc gia: Australia, Nhật Bản và Singapore, chiếm tới 64,83% tổng kim ngạch xuất khẩu Đặc biệt, dầu thô Việt Nam không phải chịu thuế tại Nhật Bản, Đài Loan và Australia Mặc dù các thị trường xuất khẩu chủ yếu nằm ở châu Á và có mức độ tập trung cao, Việt Nam vẫn chỉ chiếm khoảng 0.6% nhu cầu dầu thô toàn cầu, cho thấy vị thế tương đối nhỏ trên thị trường quốc tế.
Việt Nam sở hữu nhiều giếng dầu ngoài khơi, trong đó có nhiều giếng lớn ngang tầm với các quốc gia Trung Đông Theo ước tính, trữ lượng dầu thô tại vùng biển Đông đạt khoảng 0,4 tỷ tấn, kèm theo 0,7 tỷ tấn khí đồng hành.
Sự phát triển sản xuất dầu thô tại Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cho thấy hoạt động khai thác dầu thô là sự kết hợp giữa công nghệ và vốn nước ngoài với tài nguyên thiên nhiên trong nước Tuy nhiên, hoạt động này chưa phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu và chưa phát huy được lợi thế của đất nước Sự kiện nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động là tín hiệu tích cực, giúp giảm khối lượng xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu dầu đã qua chế biến, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai.
Trong những năm gần đây, than đá đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam Sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu đến từ việc tăng sản lượng khai thác Tuy nhiên, điều này có thể gây ảnh hưởng lớn đến tài nguyên thiên nhiên của đất nước và khó có thể duy trì tốc độ tăng trưởng này trong tương lai.
Chất lượng than của Việt Nam được xếp vào hàng tốt nhất thế giới, với nhiệt lượng cao từ 7350-8200 kcal/kg, tỷ lệ cacbon ổn định từ 80-90%, cùng độ ẩm và tro thấp Những đặc điểm này giúp than Việt Nam cạnh tranh hiệu quả với các nước xuất khẩu khác, đặc biệt phù hợp cho ngành sản xuất nhựa, xi măng, công nghệ luyện kim và đóng tàu.
Trong giai đoạn từ 1996 đến 2000, tỷ trọng khai thác than lộ thiên chiếm 67,3% sản lượng toàn ngành, nhưng hiện nay đã giảm xuống còn khoảng 60% Ngược lại, tỷ trọng khai thác than hầm lò đang có xu hướng tăng lên Đáng chú ý, hầu hết sản lượng khai thác và sản xuất than hiện nay đều do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện.
17 Website Tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam, www.vinacomin.vn.
Mặc dù Việt Nam đã hợp tác với nhiều công ty nước ngoài để chuyển giao công nghệ, nhưng ngành khai thác than vẫn còn lạc hậu, dẫn đến việc xuất khẩu than chủ yếu dưới dạng thô Điều này không chỉ gây lãng phí trong quá trình khai thác mà còn ảnh hưởng đến an ninh năng lượng và quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu bền vững của đất nước.
Trong bối cảnh xuất khẩu, hai mặt hàng chính trong nhóm này chủ yếu là hàng thô, chưa tối ưu hóa hiệu quả xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng của những mặt hàng này chủ yếu phụ thuộc vào biến động của thị trường toàn cầu, đặc biệt là sự gia tăng giá dầu thô và nhu cầu tiêu thụ than đá ngày càng cao.
Nhóm hàng nguyên nhiên liệu vẫn chưa có sự dịch chuyển rõ ràng, thiếu tăng trưởng bền vững và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
2.2 Nhóm hàng nông – lâm – thủy sản.
Từ năm 2001 đến 2005, tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng nông – lâm – thủy sản giảm từ 24,3% xuống 21,1% So với mục tiêu giảm tỷ trọng xuống 22% vào năm 2005, sự thay đổi này cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam là phù hợp.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong nhóm này là thủy sản, gạo, cà phê, rau quả, chè (chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch của nhóm) 18
Biểu đồ 2.5 Cơ cấu xuất khẩu nhóm hàng nông – lâm – thủy sản
18 Cổng thông tin xuất khẩu Việt Nam, www.ngoaithuong.vn.
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, với năng suất cao nhưng chất lượng gạo còn hạn chế, chủ yếu bán ở các thị trường dễ tính như Philippines, Indonesia, Malaysia và một số nước châu Phi Mặc dù đã có sự cạnh tranh tốt khi thắng thầu cung cấp gạo cho Philippines và Iraq, nhưng sản phẩm vẫn gặp khó khăn do chất lượng không đồng đều, tạp chất nhiều và tỷ lệ gạo đặc sản thấp so với Thái Lan Nguyên nhân chính bao gồm việc người dân ưu tiên giống gạo năng suất cao mà không chú trọng đến chất lượng, sản xuất manh mún, phân tán và tổn thất sau thu hoạch cao do công nghệ lạc hậu.
19 Số liệu từ Website Bộ Công thương www.moit.gov.vn.
Cà phê là mặt hàng xuất khẩu quan trọng thứ hai trong số các nông sản.
Không giống như gạo, hầu hết sản lượng cà phê sản xuất được đều dành cho xuất khẩu (khoảng 95%).
Việt Nam có lợi thế trong sản xuất cà phê nhờ thời tiết và môi trường thuận lợi, dẫn đến năng suất cây trồng cao, giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh Khả năng mở rộng diện tích trồng cà phê chè (Arabica) cũng là một lợi thế quan trọng, tạo điều kiện để tăng khối lượng và kim ngạch xuất khẩu trong tương lai Bên cạnh đó, giá nhân công thấp giúp cà phê Việt Nam có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế Tuy nhiên, chất lượng cà phê còn hạn chế do công nghệ chế biến và kỹ thuật sau thu hoạch kém phát triển Năm 1999, giá xuất khẩu cà phê Robusta của Việt Nam thấp hơn giá thị trường thế giới 250 USD/tấn, tương đương gần 20%, và hiện tại Việt Nam gần như là nhà sản xuất cà phê Robusta duy nhất với giá thấp hơn cà phê Arabica Theo đánh giá của WB, chỉ 2% sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam đạt loại 1, và cà phê Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu lớn, gây lãng phí nguồn lực sẵn có.
Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu từ 1996 đến nay
3.1 Những thành tựu đạt được.
Trong hơn 10 năm qua, việc áp dụng lợi thế cạnh tranh vào quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu đã diễn ra tích cực và đạt được nhiều kết quả đáng kể.
Thực hiện thành công chủ trương của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nguồn lực trong nước.
Trong thời gian qua, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam đã chuyển dịch hợp lý theo chủ trương của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm dầu thô, dệt may, thủy sản, giày dép, hàng điện tử, linh kiện máy tính và sản phẩm gỗ Nhờ vào sự chuyển dịch này, chúng ta đã đạt được mục tiêu cải biến cơ cấu xuất khẩu, tăng cường các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu và cải thiện năng lực cạnh tranh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc tận dụng lợi thế nguồn lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu đã tác động mạnh mẽ đến phân công lao động trong nước, giúp tối ưu hóa sự hợp lý trong tổ chức lao động, đồng thời góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội văn minh và hiện đại.
Các tiến bộ trong cải biến cơ cấu đã giúp tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người từ 99,2 USD vào năm 1996 lên 360 USD vào năm 2005 Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tình trạng chênh lệch giàu nghèo và tạo ra hàng triệu việc làm với thu nhập ổn định.
Lợi thế từ các thành phần kinh tế trong sản xuất hàng xuất khẩu đã mang lại cho chúng ta một nguồn hàng phong phú và dồi dào, giúp chúng ta chủ động hơn trước những biến động bất thường của nhu cầu thị trường toàn cầu.
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng tối ưu hóa lợi thế so sánh về đất đai và tài nguyên, nhằm nâng cao hiệu quả khai thác.
Mặc dù tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng nông sản và khoáng sản đã giảm, nhưng chúng vẫn chiếm một phần lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu Lợi thế này tạo điều kiện cho Việt Nam dễ dàng thâm nhập và cạnh tranh hiệu quả với các quốc gia khác trên thị trường quốc tế.
25 Niên giám thống kê các năm 1996 và 2005, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê 1997 và 2006.
Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có tính đột phá, gây lãng phí những lợi thế sẵn có.
Mặc dù tỷ trọng hàng chế biến và chế tạo trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam đang tăng, nhưng xuất khẩu sản phẩm thô vẫn chiếm ưu thế Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu dựa vào lợi thế tự nhiên, nhưng chi phí sản xuất thường cao và có xu hướng gia tăng do những lợi thế so sánh ngày càng bị xói mòn, dẫn đến đóng góp cho tăng trưởng kinh tế không đáng kể.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, ngành chưa có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Cơ cấu hàng xuất khẩu cần phải dựa vào lợi thế của từng vùng kinh tế, nhưng trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, điều này chưa đủ Cần có những dự báo khoa học và sự kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ để tối ưu hóa hiệu quả xuất khẩu.
Các ngành công nghiệp cơ bản và phụ trợ chưa được hình thành một cách chắc chắn.
Nhiều ngành công nghiệp cơ bản như luyện kim, hóa dầu và chế tạo máy chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nền kinh tế và xuất khẩu, dẫn đến việc các sản phẩm xuất khẩu có giá trị chế biến cao phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu và linh kiện nhập khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu còn manh mún, quy mô nhỏ, phụ thuộc quá nhiều vào tài nguyên thiên nhiên.
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm chưa qua chế biến hoặc chỉ mới được sơ chế Điều này phản ánh sự chuyển dịch trong cơ cấu hàng xuất khẩu, nhưng vẫn chưa đạt hiệu quả kinh tế cao.
Những dự báo về biến động của thị trường thế giới chưa được
Sản xuất hàng xuất khẩu chưa kịp thời nắm bắt tín hiệu từ thị trường quốc tế đã dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm không tiêu thụ được Đồng thời, đầu tư cho khâu tiêu thụ sản phẩm cũng còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh.
Những tồn tại trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ quan và khách quan như sau :
Nhận thức về chương trình đẩy mạnh xuất khẩu và cải biến cơ cấu xuất khẩu chưa được triển khai sâu rộng tại các ngành và địa phương, dẫn đến sự phụ thuộc vào chỉ đạo từ Trung ương.
Sự phát triển xuất khẩu của ngành sản xuất hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn do xuất phát từ nền tảng sản xuất nhỏ lẻ, dẫn đến quy mô sản xuất manh mún Điều này không chỉ hạn chế khả năng tạo ra số lượng hàng hóa xuất khẩu lớn mà còn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và khả năng thâm nhập thị trường.
Hệ thống chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu hiện chưa rõ ràng và thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các chính sách khác Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hiệu quả, cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể, chế tài thưởng phạt rõ ràng, cùng với sự kết hợp tốt giữa các chính sách như đầu tư nước ngoài, phát triển khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực.
ĐỊNH HƯỚNG, GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Xây dựng mô hình định lượng và giải mô hình
1.1 Các yếu tố quyết định.
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, nhưng vẫn chưa rõ nét, tạo ra thách thức lớn cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020 Để tránh tụt hậu về kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam cần áp dụng các biện pháp mạnh mẽ nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu Việc đề ra chính sách phù hợp là cấp bách, và nghiên cứu định lượng dựa trên số liệu thực tế sẽ giúp củng cố giả thuyết kinh tế, từ đó đưa ra giải pháp hiệu quả cho vấn đề này.
Thực tiễn chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Thái Lan, Indonesia và Malaysia cho thấy thành công của các quốc gia này liên quan chặt chẽ đến việc gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến trong suốt 20 năm qua Vì vậy, biến phụ thuộc trong mô hình được xây dựng nhằm phản ánh sự dịch chuyển cơ cấu hàng xuất khẩu là tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến.
Kinh tế lượng đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế, dựa trên dữ liệu thực tế Nó giúp củng cố các giả thuyết kinh tế và hỗ trợ ra quyết định chính xác hơn trong bối cảnh kinh tế vĩ mô và vi mô.
27 Bùi Anh Tuấn và Phạm Thái Hưng, “Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu so với các nước NIE thế hệ II,
Việt Nam đã làm được gì đáng kể?”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 293, Tháng 10/2002.
Bước đầu tiên trong việc xây dựng mô hình kinh tế lượng là xác định các biến độc lập có khả năng tác động đến kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến (Y).
Giả sử hàm có dạng:
Y: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến
X 1 , X 2 , Xk: Là các biến độc lập hay các biến giải thích.
Dựa trên những kiến thức cơ bản về kinh tế học, tác giả có đưa ra một số biến có thể tham gia vào giải thích cho mô hình:
Trình độ phát triển kinh tế và tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng thể nền kinh tế quốc dân đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cơ cấu hàng xuất khẩu Khi một quốc gia có ngành công nghiệp phát triển mạnh, sản phẩm công nghiệp được sản xuất với số lượng lớn và khả năng cạnh tranh cao sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Các yếu tố kinh tế vĩ mô như tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng và tín dụng xuất khẩu ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu Trong đó, sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia.
Nguồn nhân lực và yếu tố đầu vào, bao gồm trình độ lao động và giá cả, đóng vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh của hàng hóa, ảnh hưởng đến giá cả và chất lượng, từ đó quyết định khả năng xuất khẩu Đầu tư và tài chính cũng có ý nghĩa lớn trong mọi lĩnh vực, không chỉ riêng kinh tế; tuy nhiên, để phát huy tác động tích cực đến sản xuất, nguồn vốn đầu tư cần được sử dụng hiệu quả và khoa học.
Khác biệt hóa và thâm nhập thị trường mới là khả năng nhạy bén của các quốc gia trong việc mở rộng thị trường Việc tìm kiếm những thị trường mới phù hợp với lợi thế cạnh tranh sẽ thúc đẩy sản xuất và gia tăng xuất khẩu hiệu quả.
1.2 Các nguồn dữ liệu liên quan.
Sau khi loại bỏ các biến độc lập không phù hợp với lý thuyết kinh tế, dữ liệu cuối cùng được sử dụng để tính toán bao gồm kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến của Việt Nam, GDP trung bình của các nước phát triển (thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam), số lượng lao động trong ngành, cũng như nguồn vốn Nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành này.
Biểu đồ 3.1 Biểu đồ tổng hợp sự thay đổi của các biến qua các năm từ
Lao động Đầu tư NS FDI
Nguồn: Tính toán của tác giả 28
Chúng ta sẽ xem xét mô hình toán có dạng dưới đây:
Y = a GDPβ1 LDβ2 FDIβ3 NSβ4 eu (2)
28 Dựa trên số liệu của Wesite Quỹ Tiền tệ quốc tế, IMF, www.imf.org.
Website Ngân hàng phát triển Châu Á, ADB, www.adb.org. Đơn vị: %
Y: Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá. e = 2,781 u : Sai số ngẫu nhiên.
Theo đó, tác giả cũng đưa ra những kết quả kỳ vọng của mô hình về các nhân tố được lựa chọn như sau:
Bảng 3.1 Kết quả kỳ vọng mô hình kinh tế lượng.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
1.3 Giải mô hình và kết luận
Tiến hành Ln hai vế biểu thức (2) ta có:
Ln Y = Ln a + β1 Ln GDP + β2 Ln LD + β3Ln FDI + β4LnNS + u (3)
Dựa trên dữ liệu đã cung cấp và sự hỗ trợ của phần mềm Eviews 5.1, các tham số của mô hình (3) đã được ước lượng thành công, như được thể hiện trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2 Kết quả chạy mô hình EVIEWS.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Qua phân tích, tác giả nhận thấy rằng mô hình (4) với 4 biến độc lập có mức ý nghĩa kiểm định (t) thấp, cho thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến có sự phụ thuộc chặt chẽ vào các biến đã được lựa chọn.
Hệ số R² đạt 0.910902 cho thấy 91,1% biến thiên của tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến có thể được giải thích bởi sự phụ thuộc tuyến tính vào 4 yếu tố chính: Ln(GDP) và Ln(LD).
Ln(NS) và Ln(FDI) còn lại chỉ có 8,9% biến thiên này phụ thuộc vào các yếu tố khác.
Mô hình nghiên cứu cho thấy rằng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến chỉ có mối quan hệ yếu với tỷ lệ ngân sách Nhà nước đầu tư vào ngành này Ngược lại, lợi nhuận LN(Y) chủ yếu phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), GDP của các nước thị trường chính và lực lượng lao động Đặc biệt, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng nhất, với hệ số tương quan chuẩn hoá (beta) của Ln(FDI) đạt 8.739704, cao hơn nhiều so với 0.723618 của Ln(GDP).
Mô hình dự báo rằng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến sẽ tăng 8,74% khi FDI tăng 1%, tăng 2,34% khi lao động tăng 1%, và tăng 0,72% khi GDP của các nước phát triển tăng 1%.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến có mối tương quan thuận với tốc độ tăng quy mô lao động, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và GDP của các nước phát triển, nhưng không có mối quan hệ rõ ràng với tỷ lệ đầu tư từ ngân sách Nhà nước Kết quả này phù hợp với kỳ vọng của tác giả khi lựa chọn các biến giải thích cho mô hình.
Dự báo về yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam
2.1 Định hướng phát triển cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam đến năm
- Nhóm hàng nguyên nhiên liệu.
Việt Nam hiện đang xuất khẩu nhiều nguyên liệu thô và nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu đã qua chế biến, dẫn đến vấn đề an ninh năng lượng được đặt ra Mặc dù năng lượng tái tạo là lĩnh vực có tiềm năng phát triển, nhưng tiến độ triển khai vẫn chậm Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong những năm tới, Việt Nam sẽ giảm xuất khẩu nguyên liệu thô để đáp ứng nhu cầu trong nước, điều này có thể làm giảm nguồn thu ngoại tệ nhưng cũng sẽ giảm kim ngạch nhập khẩu.
Than đá và dầu thô là hai nhiên liệu thiết yếu cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong thời gian tới, khả năng tìm kiếm nguyên liệu thay thế cho dầu thô và than đá là rất hạn chế, trong khi nhu cầu tiêu thụ trong nước và toàn cầu vẫn đang tăng cao Do đó, chúng ta sẽ chỉ xuất khẩu các mặt hàng này sau khi đã đáp ứng đủ nhu cầu trong nước.
Nhóm hàng nông – lâm - thuỷ sản sẽ trải qua sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành nông nghiệp, với mục tiêu giảm tỷ trọng của ngành này trong nền kinh tế quốc dân xuống còn 16%, so với 21% trong năm trước Điều này phản ánh định hướng phát triển bền vững và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
Đến năm 2005, tỷ trọng ngành nông nghiệp đã có sự chuyển biến rõ rệt: trồng trọt giảm xuống 70% so với 79% năm 2000, trong khi chăn nuôi tăng lên 30% từ mức 15% năm 2000, và lâm nghiệp chỉ còn 3,5% Định hướng chung là đẩy mạnh sản lượng lương thực thông qua các ứng dụng tiên tiến, khai thác tối đa lợi thế của ngành nông nghiệp nhiệt đới.
- Nhóm mặt hàng công nghiệp.
Những ngành công nghiệp chủ chốt được định hướng ưu tiên bao gồm:
Nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh là những lĩnh vực khai thác hiệu quả năng lực sản xuất, giá cả và thị trường Để đạt được mục tiêu này, cần chuyển dịch theo hướng gia tăng giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm tỷ lệ gia công, nâng cao khâu thiết kế, cải thiện trình độ lao động và tăng cường chuyển giao công nghệ cũng như đầu tư vào máy móc trang thiết bị hiện đại.
Nhóm ngành sản xuất tư liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các ngành công nghiệp khác, nâng cao tính độc lập của nền kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cũng như giá thành sản phẩm công nghiệp Định hướng chính của nhóm này là hoàn thành các dự án nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất xuất khẩu.
Nhóm ngành công nghiệp tiềm năng bao gồm những lĩnh vực hiện có năng lực cạnh tranh thấp nhưng hứa hẹn sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai Những ngành này ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm thay thế nhập khẩu và mở rộng ra thị trường quốc tế Định hướng phát triển của nhóm này là thu hút vốn đầu tư, tăng cường chuyển giao công nghệ và phát triển sản phẩm dựa trên công nghệ mới.
2.2 Dự báo xu hướng tiêu dùng của thị trường thế giới.
Người tiêu dùng toàn cầu đang ngày càng chú trọng đến nhãn hiệu sản phẩm, tính tiện lợi, sức khỏe cá nhân và hàng hóa thân thiện với môi trường Đối với một số sản phẩm cụ thể, nhu cầu dự kiến sẽ có sự gia tăng rõ rệt trong thời gian tới.
Theo dự đoán của IEA, tiêu thụ dầu thô toàn cầu sẽ tăng trung bình 1,3% mỗi năm Tuy nhiên, sản lượng dầu thế giới sẽ không vượt quá 100 triệu thùng/ngày do lượng dầu dự trữ hiện tại Điều này dẫn đến tình trạng khan hiếm trên thị trường dầu thô, giữ giá dầu ở mức cao.
Theo dự báo, nhu cầu tiêu thụ than toàn cầu sẽ tăng trưởng trung bình 2% mỗi năm, trong đó Trung Quốc và Ấn Độ đóng góp khoảng 60% vào sự gia tăng này.
- Nhóm hàng nông – lâm - thuỷ sản:
Theo dự báo của FAO, nhu cầu thuỷ sản toàn cầu sẽ tăng trưởng trung bình 2,1% mỗi năm, trong khi giá xuất khẩu mặt hàng này dự kiến sẽ tăng trung bình 3,0% mỗi năm từ nay đến năm 2010.
Gạo: Giao dịch gạo toàn cầu dự báo đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
Tính đến năm 2010, lượng gạo nhập khẩu toàn cầu đạt 31,4 triệu tấn, với tỷ lệ tăng trưởng 2,2% mỗi năm Châu Á tiếp tục là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất, chiếm 46% tổng kim ngạch nhập khẩu gạo toàn cầu Đồng thời, khu vực Trung Đông và châu Phi cũng ghi nhận sự gia tăng trong hoạt động nhập khẩu gạo.
Dự báo nhập khẩu cà phê toàn cầu sẽ tăng trưởng trung bình 0,2% mỗi năm, với các nước phát triển vẫn chiếm ưu thế trong việc nhập khẩu Tuy nhiên, khu vực Bắc Mỹ dự kiến sẽ chứng kiến sự giảm nhẹ trong nhập khẩu, chỉ đạt 154 triệu tấn, trong khi châu Âu cũng ghi nhận sự sụt giảm xuống còn 2,96 triệu tấn.
Dệt may và giày dép: Thị trường dệt may thế giới sẽ tăng bình quân
13%/năm, chủ yếu là nhờ sản xuất và nhu cầu gia tăng tại các nước châu Á.
Dự báo sản xuất giày dép toàn cầu sẽ tăng trung bình 15% mỗi năm Trung Quốc và các quốc gia châu Á vẫn giữ vị trí hàng đầu trong xuất khẩu giày dép, nhưng các nước Mỹ Latinh đang ngày càng có vai trò quan trọng hơn trên thị trường giày dép thế giới.
Dựa trên sự biến động của từng mặt hàng và nhóm hàng, cơ cấu hàng xuất khẩu từ nay đến 2015 được xác định như sau:
Biểu đồ 3.2 Dự báo cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 2009-2015.
Nguồn: Tổng hợp tính toán của tác giả dựa trên các dự báo
Trong vòng 10 năm tới, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ có sự thay đổi rõ rệt, với nhóm hàng nguyên liệu và khoáng sản dự kiến sẽ giảm mạnh, chỉ còn khoảng 7% vào năm 2015, do nhu cầu trong nước gia tăng.
Vận dụng kinh nghiệm của một số nước trong khu vực vào trường hợp của Việt Nam
Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan hiện nay đều là những quốc gia có trình độ kinh tế phát triển cao.
Về vị trí địa lý, khí hậu và văn hoá, cả ba nước trên đều có những điểm tương đồng cơ bản với Việt Nam
Trước khi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Nhật Bản và Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh Hiện tại, Nhật Bản đứng thứ hai thế giới về hàng hóa có hàm lượng vốn và công nghệ cao, trong khi Trung Quốc và Việt Nam sở hữu nguồn lao động dồi dào và tài nguyên thiên nhiên phong phú Cả hai quốc gia này đang áp dụng chính sách mở cửa và tiến hành đổi mới để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa Mặc dù Thái Lan và Việt Nam có trình độ dân trí tương đương, nhưng giá trị tổng sản phẩm theo đầu người của Thái Lan gấp 5 lần Việt Nam Do đó, những bài học từ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hàng xuất khẩu của Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan sẽ là nguồn tham khảo quý giá cho Việt Nam.
3.2 Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan.
3.2.1 Nhật Bản Đầu thời kỳ tăng trưởng của Nhật Bản là sự phát triển của các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động và những ngành công nghiệp nặng kết hợp cả tư bản và lao động Khai thác lợi thế về lao động dồi dào, rẻ và có tay nghề cũng như các biện pháp bảo hộ thị trường của Chính phủ để sản xuất thay thế nhập khẩu, cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài tại thị trường Nhật Bản, lấy thoả mãn nhu cầu nội địa làm mục tiêu phát triển trước hết Sau đó, khi đã trưởng thành và tự lập được, có năng lực cạnh tranh tốt hơn, thì tiến tới xuất khẩu ra nước ngoài để kiếm một thị trường rộng lớn hơn để phát triển Nhân tố công nghệ là một ưu thế rất quan trọng và đã được khai thác rất hiệu quả Nói tóm lại, thành công trong chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Nhật Bản xuất phát từ: sự phát triển của công nghiệp nặng – hoá chất trước và sau chiến tranh; chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước; nhập khẩu công nghệ và nâng cao năng lực quản lý chất lượng.
Cơ cấu xuất khẩu của Trung Quốc đã trải qua hai thay đổi lớn kể từ khi cải cách kinh tế bắt đầu, với xuất khẩu dầu mỏ bị hàng dệt may vượt qua vào năm 1986, và sau đó là xuất khẩu máy móc và sản phẩm điện tử vượt qua sản phẩm dệt vào năm 1995 Sự chuyển đổi này cho thấy sự chuyển từ xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhiều lao động truyền thống sang các sản phẩm công nghệ cao hơn Thành công của Trung Quốc trong lĩnh vực xuất khẩu có thể được lý giải bởi sự phát triển hợp lý của ngành sử dụng lao động có sức cạnh tranh, đầu tư vào các ngành kỹ thuật mới, và việc điều chỉnh, nâng cấp cơ cấu ngành để tăng hàm lượng kỹ thuật và giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu của Thái Lan rất đa dạng, với sự gia tăng số lượng chủng loại và lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế Hệ thống đầu tư thương mại mở cửa cùng với tài nguyên thiên nhiên phong phú là những yếu tố then chốt giúp Thái Lan thành công trong xuất khẩu Các chính sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm duy trì tỷ giá cạnh tranh và ổn định, ổn định giá cả, phát triển cơ sở hạ tầng và công nghiệp tập trung, cũng như chính sách thuế quan hiệu quả, đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của đất nước này.
3.3 Vận dụng trong trường hợp của Việt Nam.
Mặc dù Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế khác nhau, nhưng những phân tích trên đã chỉ ra rằng Việt Nam có thể học hỏi từ kinh nghiệm phát triển của các quốc gia này.
Thứ nhất, tạo dựng và liên tục hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm thực hiện thành công chiến lược chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Thứ hai, từng phân ngành kinh tế phải có chiến lược chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu cần được thực hiện một cách có kế hoạch và tập trung, từ những ngành hàng có hàm lượng lao động cao sang những ngành hàng có hàm lượng vốn và khoa học công nghệ cao.
Thứ tư, chú trọng tới những ngành sản xuất mang tính cơ sở tiền đề cho xuất khẩu.
Vào thứ năm, việc Nhà nước cần cung cấp sự hỗ trợ và khuyến khích hợp lý cho các ngành công nghiệp mới chuyển dịch sang xuất khẩu là rất quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Vào thứ sáu, cần áp dụng các công cụ quản lý và điều tiết một cách hợp lý nhằm bảo vệ các ngành sản xuất non trẻ, đồng thời đảm bảo tuân thủ các quy định quốc tế.
Những biện pháp và chính sách nhằm vận dụng hiệu quả lợi thế cạnh
Kết quả từ mô hình định lượng cho thấy lao động, đầu tư ngân sách Nhà nước, vốn FDI và sự phát triển của các thị trường chính đều ảnh hưởng đến cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam Các dự báo và định hướng đã được nêu ra trong quá trình phân tích mô hình Tuy nhiên, những lợi thế này chỉ có thể phát huy hiệu quả khi được hỗ trợ bởi các chính sách hợp lý Dựa trên xu hướng tiêu dùng toàn cầu và kinh nghiệm từ các nước thành công trong khu vực, chúng ta có thể đề xuất một số nhóm giải pháp thích hợp.
Nhóm giải pháp liên quan đến vốn đầu tư.
Nhóm giải pháp phát triển nguồn nhân lực.
Nhóm giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu.
4.1 Nhóm giải pháp liên quan đến vốn đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư bao gồm ngân sách Nhà nước và vốn FDI, cần ưu tiên cho các lĩnh vực như: (1) ngành xuất khẩu mới với hàm lượng kỹ thuật cao, (2) sản xuất và chế biến nông – lâm – thủy sản, và (3) cơ sở hạ tầng cùng dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu.
4.1.1.Phân bổ hiệu quả nguồn vốn ngân sách Nhà nước cho xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến Để thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, nguồn vốn ngân sách Nhà nước cần: Đầu tư cơ sở hạ tầng : Xây dựng các hệ thống điện, đặc biệt là hệ thống giao thông, các công trình thủy lợi, khai hoang, mở rộng và cải tạo diện tích đất nông nghiệp Đây là lĩnh vực mà các chủ đầu tư khác không muốn và khả năng cũng không thể đầu tư được, vì vốn lớn, thu hồi vốn lại rất chậm. Đầu tư để xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất có mục tiêu sản xuất hướng về xuất khẩu, đầu tư các ngành chuyên canh, nhằm tạo ra năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt dành cho xuất khẩu. Đầu tư cho việc đào tạo cán bộ quản lý, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng các trung tâm thông tin phục vụ cho xuất khẩu.
4.1.2 Tăng cường việc thu hút và nâng cao hiệu quả nguồn vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Chính sách thu hút và sử dụng hiệu quả vốn FDI bao gồm cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát triển khoa học công nghệ và các giải pháp tài chính hỗ trợ.
Về cải cách thủ tục hành chính:
Cần cải thiện tính minh bạch, thông thoáng và đơn giản hóa các thủ tục về đất đai và hành chính Đồng thời, cần tăng cường tuyên truyền và phổ biến Luật đầu tư đến các nhà đầu tư tiềm năng để thu hút vốn đầu tư hiệu quả hơn.
Về giải pháp phát triển khoa học công nghệ:
- Hoàn thiện môi trường pháp lý cho phát triển khoa học, công nghệ.
Cần tăng cường các dịch vụ hỗ trợ sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, đồng thời thiết lập hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý Nhà nước về phát triển thị trường công nghệ từ Trung ương đến địa phương Việc này sẽ tạo ra một thị trường công nghệ, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp trao đổi, mua bán và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, từ đó nâng cao sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
Đổi mới phương thức quản lý khoa học và công nghệ là cần thiết để phù hợp với cơ chế thị trường, bao gồm việc chuyển đổi các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thành hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp.
Để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này Việc phát triển các dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ chuyển giao công nghệ, cùng với các dịch vụ tư vấn và môi giới mua bán công nghệ, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ trong nước.
Các chính sách phát triển công nghệ và nghiên cứu triển khai đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các ngành công nghệ cao Do đó, việc hỗ trợ và thúc đẩy nghiên cứu và triển khai cần được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ trong thời gian tới.
Các giải pháp tài chính hỗ trợ.
Nhà nước bảo lãnh tín dụng xuất khẩu không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mà còn giúp nâng cao giá bán hàng hóa.
(2) Tạo điều kiện và thủ tục thông thoáng để các doanh nghiệp mới chuyển đổi cơ cấu thông qua bảo hiểm tín dụng.
Trợ cấp xuất khẩu nhằm chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, tăng thu nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hoá Các hoạt động trợ cấp bao gồm trợ cấp trực tiếp như cấp vốn, cho vay ưu đãi, miễn thuế và phí, cùng với trợ cấp gián tiếp thông qua giới thiệu, triển lãm, quảng cáo và đào tạo.
- Áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt.
Chính phủ cần linh hoạt điều chỉnh tỷ giá để tối ưu hóa việc nhập khẩu nguyên liệu và máy móc phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu Việc này không chỉ hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ hiện đại mà còn khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng thuộc cơ cấu mới, từ đó nâng cao giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Việt Nam đang thiết lập mạng lưới xúc tiến xuất khẩu nhằm nâng cao năng lực hỗ trợ thương mại từ các cơ quan đại diện thương mại và trung tâm thương mại ở nước ngoài, đặc biệt đối với các mặt hàng mới.
Nhà nước cần thực hiện chính sách hỗ trợ xuất nghiệp nhằm khuyến khích doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội xuất khẩu, đồng thời đảm bảo không ảnh hưởng đến tín dụng thương mại và hạn chế rủi ro cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
4.2 Nhóm giải pháp phát triển nguồn nhân lực.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục đào tạo nguồn nhân lực 29
Xây dựng và ban hành danh mục ngành nghề đào tạo tập trung vào các lĩnh vực có trình độ cao, đổi mới và chuẩn hóa nội dung, chương trình đào tạo linh hoạt Mục tiêu là nâng cao kỹ năng thực hành, khả năng tự tạo việc làm và thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ cũng như thực tế sản xuất kinh doanh Đồng thời, cần gắn kết chặt chẽ với nhu cầu việc làm trong xã hội và liên thông với các trình độ đào tạo khác.