1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh

98 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hành Vi Trên Báo Cáo Tài Chính Tại Các Công Ty Cổ Phần Niêm Yết Trên Sàn Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Trần Thị Mỹ Tú
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Kim Cúc
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp.Hcm
Chuyên ngành Kế toán
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2014
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 355,69 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu (10)
    • 1.1 Lý do chọn đề tài (10)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài (11)
    • 1.3 Các nghiên cứu có liên quan (11)
    • 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài (14)
    • 1.5 Phương pháp nghiên cứu (14)
    • 1.6 Ý nghĩa của đề tài (15)
    • 1.7 Kết cấu đề tài (0)
  • Chương 2: Tổng quan về thông tin lợi nhuận và hành vi quản trị lợi nhuận (16)
    • 2.1 Các vấn đề cơ bản về thông tin lợi nhuận (16)
      • 2.1.1 Khái niệm về lợi nhuận và các yếu tố xác định lợi nhuận (16)
      • 2.1.2 Nguồn hình thành của lợi nhuận (18)
      • 2.1.3 Vai trò của lợi nhuận (18)
      • 2.1.4 Định nghĩa về hành vi quản trị lợi nhuận (20)
    • 2.2 Các vấn đề cơ bản về hành vi quản trị lợi nhuận (25)
      • 2.2.1 Động lực của hành vi quản trị lợi nhuận (25)
      • 2.2.2 sở Cơ c ủ a hành vi qu ả n tr ị l ợ i nhu ậ n – cơ sở d ồ n tích (0)
      • 2.2.3 k ỹ thu Các ậ t qu ả n tr ị l ợ i nhu ậ n (0)
      • 2.2.4 ậ u qu H ả c ủ a hành vi qu ả n tr ị l ợ i nhu ậ n (0)
  • Chương 3: Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận - Khảo sát thực nghiệm tại các công ty niêm yết TP HCM 29 (38)
    • 3.1 Giới thiệu các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP HCM (38)
      • 3.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch chứng khoán TPHCM (38)
      • 3.1.2 Phân ngành các công ty niêm y ế t trên S ở giao d ị ch ch ứ ng khoán (39)
    • 3.2 ả o sát Kh th ự c nghi ệ m các nhân t ố ảnh hưởng đế n hành vi qu ả n tr ị l ợ i nhu ậ n (0)
      • 3.2.1 M ụ c tiêu kh ả o sát (41)
      • 3.2.2 Gi ả thuy ế t nghiên c ứ u (41)
      • 3.2.3 Phương pháp nghiên cứ u và thu th ậ p s ố li ệ u (50)
        • 3.2.3.1 Phương pháp nghiên cứ u (50)
        • 3.2.3.2 Ch ọ n m ẫ u (52)
        • 3.2.3.3 Quy trình nghiên c ứ u (52)
        • 3.2.3.4 Bi ế n ph ụ thu ộ c (53)
        • 3.2.3.5 Biến độc lập (0)
  • Chương 4: Kết quả nghiên cứu (61)
    • 4.1 Th ố ng kê mô t ả (61)
    • 4.2 Phân tích tương quan giữ a các bi ế n (63)
    • 4.3 Phân tích h ồ i quy tuy ến tính đa biế n (66)
  • Chương 5: Các giải pháp nhằm hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận (71)
    • 5.1 Gi ả i pháp h ạ n ch ế hành vi qu ả n tr ị l ợ i nhu ậ n (71)
      • 5.1.1 Đố i v ớ i công ty niêm y ế t (71)
      • 5.1.2 Đố i v ớ i ki ể m toán viên (76)
      • 5.1.3 Đố i v ới nhà đầu tư (79)
      • 5.1.4 Đố i v ớ i B ộ tài chính (81)
      • 5.1.5 Đố i v ớ i các t ổ ch ứ c bên ngoài (83)
      • 5.1.6 Đố i v ớ i Ủ y ban ch ứng khoán Nhà nướ c (83)
    • 5.2 Gi ả i pháp nh ằ m nâng cao ch ất lượ ng thông tin tài chính (84)

Nội dung

Tổng quan về đề tài nghiên cứu

Lý do chọn đề tài

Thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và thu hút sự chú ý của xã hội Các công ty kinh doanh đều hướng tới mục tiêu niêm yết trên sàn chứng khoán để thu hút nguồn đầu tư trong và ngoài nước Để gia nhập thị trường này, các công ty cần có bộ báo cáo tài chính đầy đủ và thông tin tài chính có thể so sánh được.

Thông tin kế toán ngày càng trở nên quan trọng trong việc hỗ trợ quyết định của các bên liên quan Báo cáo tài chính được lập theo các chuẩn mực và chính sách kế toán, nhưng vẫn có không gian cho doanh nghiệp điều chỉnh nhằm đạt được các mục tiêu riêng Đặc biệt, các công ty niêm yết thường có xu hướng làm nổi bật kết quả kinh doanh trong các giai đoạn quan trọng để thu hút sự chú ý của nhà đầu tư Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng mà nhiều nhà đầu tư quan tâm, bên cạnh quy mô và chiến lược của công ty Do đó, các nhà quản trị luôn tìm cách quản trị lợi nhuận để thu hút sự quan tâm từ thị trường.

Trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết là rất cần thiết Điều này bao gồm việc xác định các phương pháp quản trị lợi nhuận và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này Do đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính ở công ty niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán.”

Dự án "10 khoán TP HCM" nhằm nghiên cứu thực tiễn tại các công ty, từ đó rút ra những kết luận tổng quát và đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu hành vi quản trị lợi nhuận.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Đề tài này nhằm phân tích các yếu tố tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty cổ phần niêm yết, với trọng tâm là đánh giá mức độ ảnh hưởng của những yếu tố này đến biến dồn tích lợi nhuận.

Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục tình trạng quản trị lợi b Mục tiêu cụ thể:

- Xác định một số nhân tố ảnh hưởng đến quyết định quản trị lợi nhuận

- Xây dựng và kiểm định mô hình lý thuyết về mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng quản trịlợi nhuận

- Đề xuất một số giải pháp giúp hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận trong quá trình quản lý các doanh nghiệp Việt Nam

Các nghiên cứu có liên quan

 Huỳnh Thị Vân (2012)- Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty cổ phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bài nghiên cứu áp dụng phương pháp định tính, phân tích số liệu từ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trong giai đoạn 2008-2010 trên hai sàn chứng khoán TP Hồ Chí Minh và Hà Nội Nghiên cứu dựa trên hai mô hình được chọn lựa để đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này.

Theo nghiên cứu của DeAngelo (1986) và mô hình Friedlan (1994), có ba yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết, bao gồm năm đầu niêm yết trên sàn chứng khoán, ưu đãi thuế và quy mô doanh nghiệp Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các tổ chức niêm yết đều có xu hướng điều chỉnh tăng lợi nhuận trong năm đầu niêm yết, và sự điều chỉnh này có mối quan hệ thuận chiều với điều kiện ưu đãi thuế mà doanh nghiệp nhận được Tác giả cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tính trung thực trong báo cáo lợi nhuận và việc công bố thông tin.

 Nguyễn Thị Minh Trang (2011- Tạp chí nghiên cứu khoa học)- Kỹ thuật điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị.

Bài báo đã tổng hợp các kỹ thuật mà các nhà quản trị có thể áp dụng để điều chỉnh lợi nhuận, bao gồm lựa chọn phương pháp kế toán và thời điểm mua hoặc bán tài sản Ngoài ra, bài viết cũng nêu rõ tầm quan trọng của tính trung thực trong thông tin kế toán và yêu cầu công bố, nhằm tạo điều kiện cho các bên liên quan kiểm tra chất lượng nguồn thông tin và đưa ra quyết định chính xác.

 Nguyễn Trí Tri (2013) – Những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chi phối thu nhập trên báo cáo tài chính

Bài nghiên cứu đã tổng hợp các kết quả quan trọng về các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chi phối thu nhập trong doanh nghiệp tại Việt Nam, từ đó đề xuất các chính sách nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu hiện tượng này Các yếu tố tác động bao gồm lương và thưởng cho nhà quản lý, giá cổ phần, hợp đồng vay vốn, chất lượng kiểm toán BCTC, sự độc lập của HĐQT và ủy ban kiểm toán, cùng với môi trường pháp lý Hành vi chi phối thu nhập được phân thành hai loại chính: chi phối chính sách kế toán và chi phối các hoạt động kinh tế.

 Corporate Governance, firm size, and Earning management: Evidence inIndonesia Stock Exchange (2013) – Dwi Lusi Tyasing Swastika.

Nghiên cứu khảo sát mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận, bao gồm số lượng và tính độc lập của thành viên hội đồng quản trị, quy mô công ty, và chất lượng công ty kiểm toán Tác giả áp dụng mô hình Deshow (1995) với các biến dồn tích để phân tích hành vi quản trị lợi nhuận Kết quả cho thấy rằng các yếu tố liên quan đến hội đồng quản trị có mối quan hệ đồng biến với hành vi quản trị lợi nhuận, trong khi chất lượng kiểm toán và quy mô công ty lại có ảnh hưởng nghịch biến đến hành vi này.

 Impact of firm size and capital structure on earning management: Evidence from Pakistan (2011) – Iram Naz et al.

Bài báo này phân tích ảnh hưởng của quy mô công ty và cấu trúc vốn đến hành vi quản trị lợi nhuận, dựa trên dữ liệu của 75 công ty trong giai đoạn 2006-2010 Tổng tài sản được sử dụng để đại diện cho quy mô công ty, trong khi tỷ lệ đòn bẩy tài chính đo lường cấu trúc vốn Hành vi quản trị lợi nhuận được thể hiện qua biến kế toán dồn tích Nghiên cứu áp dụng mô hình Jones với biến kế toán dồn tích là biến phụ thuộc, và quy mô công ty cùng cấu trúc vốn là các biến độc lập Kết quả cho thấy cấu trúc vốn có tác động nghịch biến đến hành vi quản trị lợi nhuận, cho thấy rằng công ty có tỷ lệ đòn bẩy cao sẽ có các chủ nợ đóng vai trò giám sát quản lý hành vi này, trong khi quy mô công ty không có ảnh hưởng đáng kể.

 Effect of financial leverage and investment diversification on income- increasing earnings management (2013) – Nasrollah Takhtaei et al.

Lợi nhuận kế toán là một công cụ quan trọng trong việc hỗ trợ quyết định tài chính cho nhà đầu tư và nhà quản trị Giám đốc thường dựa vào nhiều yếu tố như yêu cầu báo cáo kiểm toán, điều kiện hợp đồng vay nợ, và thông tin bất cân xứng để thực hiện quản trị lợi nhuận Để đạt được mục tiêu này, các giám đốc có thể áp dụng linh hoạt các chuẩn mực kế toán Nghiên cứu này nhằm khảo sát ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính và đa dạng hóa đầu tư đến hành vi quản trị lợi nhuận, với dữ liệu thu thập từ các công ty trong giai đoạn 2002.

Nghiên cứu năm 2008 đã áp dụng kế toán dồn tích để đo lường quản trị lợi nhuận, sử dụng mô hình hồi quy đa biến để kiểm tra các giả thuyết Kết quả chỉ ra rằng xu hướng quản trị lợi nhuận gia tăng tương ứng với sự gia tăng đòn bẩy tài chính và đa dạng hóa đầu tư.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đề tài nghiên cứu này tập trung vào hành vi quản trị lợi nhuận của nhà quản lý, với đối tượng phân tích chính là bộ báo cáo tài chính đã được kiểm toán và công bố Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét các yếu tố như quy mô công ty, đặc điểm của Ban quản trị, và thông tin từ công ty kiểm toán nhằm kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.

Nghiên cứu này tập trung vào các công ty niêm yết tại Sàn giao dịch chứng khoán TP HCM, loại trừ các công ty chưa niêm yết do mức độ quản trị lợi nhuận không quan trọng Các công ty niêm yết thu hút sự chú ý của xã hội, vì vậy, bất kỳ sự chênh lệch nào do hành vi quản trị lợi nhuận sẽ có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của nhiều nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài thu thập số liệu nghiên cứu dựa trên bộ báo cáo tài chính đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp thống kê mô tả và kiểm định giả thuyết để phân tích sự tương quan giữa các biến Phần mềm SPSS được sử dụng để thực hiện các phân tích này, đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc xử lý dữ liệu.

Nghiên cứu áp dụng phương pháp phân tích, so sánh và đối chiếu thông tin cùng số liệu nhằm tìm hiểu và rút ra những vấn đề lý luận, kinh nghiệm Qua đó, nghiên cứu xác lập các phương hướng và giải pháp nhằm hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận.

Ý nghĩa của đề tài

Nghiên cứu này đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty cổ phần niêm yết Dựa trên những phát hiện đó, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu việc quản trị lợi nhuận, từ đó hỗ trợ các bên liên quan trong việc đưa ra quyết định chính xác hơn khi đánh giá tình hình lợi nhuận của các công ty.

1.7 Kết cấu của đề tài:

Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu

Chương 2: Tổng quan về thông tin lợi nhuận và hành vi quản trị lợi nhuận

Chương 3: Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết TP HCM

Chương 4: Phân tích kết quả nghiên cứu

Chương 5: Các giải pháp nhằm hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận

Kết cấu đề tài

TỔNG QUAN VỀ THÔNG TIN LỢI NHUẬN VÀ

HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN

Tổng quan về thông tin lợi nhuận và hành vi quản trị lợi nhuận

Các vấn đề cơ bản về thông tin lợi nhuận

2.1.1Khái niệm về lợi nhuận và các yếu tố xác định lợi nhuận a Theo góc độ kế toán của Chuẩn mực kế toán hiện hành – Chuẩn mực chung VAS 01

Lợi nhuận là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, được xác định bởi các yếu tố như Doanh thu, thu nhập khác và Chi phí Những chỉ tiêu này không chỉ phản ánh tình hình tài chính mà còn cung cấp cái nhìn tổng quan về sức khỏe kinh doanh của doanh nghiệp.

Các yếu tố Doanh thu, thu nhập khác và Chi phí được định nghĩa như sau:

Doanh thu và thu nhập khác là tổng giá trị các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán Các khoản này phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường và các hoạt động khác, đóng góp vào việc tăng vốn chủ sở hữu, không bao gồm vốn góp từ cổ đông hoặc chủ sở hữu.

Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán, bao gồm các khoản tiền chi ra, khấu trừ tài sản, hoặc phát sinh nợ làm giảm vốn chủ sở hữu Chi phí không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu, theo quy định của thông lệ quốc tế IAS.

Theo Quy định chung về việc lập và trình bày BCTC, đưa ra các yếu tố liên quan trực tiếp đến việc đánh giá kết quả hoạt động:

Thu nhập là các lợi ích kinh tế gia tăng, thể hiện qua việc tăng luồng thu hoặc tài sản, hoặc giảm nợ, dẫn đến sự gia tăng vốn chủ sở hữu Điều này không bao gồm các khoản đóng góp thêm từ chủ sở hữu Thu nhập bao gồm doanh thu và các khoản thu khác.

Chi phí là yếu tố làm giảm lợi ích kinh tế, thể hiện qua việc giảm luồng chi hoặc giảm giá trị tài sản, hoặc có thể dẫn đến việc phát sinh nợ, từ đó làm giảm vốn chủ sở hữu Điều này không bao gồm các khoản giảm do phân chia cho các chủ sở hữu.

Theo IAS 18, doanh thu được hạch toán từ việc bán hàng, cung cấp dịch vụ, cho phép người khác sử dụng tài sản của doanh nghiệp, cũng như từ lãi, tiền bản quyền và cổ tức.

Doanh thu là tổng hợp các lợi ích kinh tế thu được trong một kỳ nhất định, phát sinh từ hoạt động kinh doanh thông thường Nó góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu mà không bao gồm phần đóng góp từ các cổ đông.

Tóm lại, nghiên cứu này định hướng khái niệm lợi nhuận theo tiêu chuẩn quốc tế, giúp khái quát hóa và tiếp cận thông tin từ các nguồn toàn cầu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu các nghiên cứu của các nhà kinh tế trên thế giới.

2.1.2 Nguồn hình thành của lợi nhuận:

Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất đa dạng, dẫn đến lợi nhuận thu được từ nhiều nguồn khác nhau.

Hoạt động kinh doanh bao gồm việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ từ các ngành sản xuất chính và phụ Lợi nhuận thu được từ những hoạt động này được gọi là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Hoạt động tài chính bao gồm việc đầu tư ngắn hạn và dài hạn nhằm mục tiêu sinh lời, như đầu tư chứng khoán và vào các công ty liên kết Lợi nhuận từ những hoạt động này được gọi là lợi nhuận từ hoạt động tài chính.

Doanh nghiệp thường hoạch định các hoạt động kinh doanh với kế hoạch và sự chuẩn bị kỹ lưỡng Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, có nhiều tình huống bất ngờ xảy ra như thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, và xử lý tài sản thừa thiếu không rõ nguyên nhân Những hoạt động này có thể mang lại cho doanh nghiệp một khoản thu nhập, và sau khi trừ đi chi phí liên quan, khoản thu nhập này được gọi là lợi nhuận từ hoạt động khác.

2.1.3 Vai trò của lợi nhuận

Theo Ronen và Yaari (2008), lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của việc quản lý số liệu kế toán Phần này sẽ giải thích tầm quan trọng của lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh.

1.1.3.1 Vai trò kép của kế toán:

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng báo cáo lợi nhuận có mối liên hệ chặt chẽ với giá cổ phiếu hơn là dòng tiền hay doanh thu Vai trò quản lý của kế toán xuất phát từ sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý trong các công ty công, nơi các nhà quản lý phải đại diện cho lợi ích của cổ đông Tuy nhiên, do các nhà quản lý hoạt động như những cá nhân độc lập, nên mục tiêu của họ có thể không trùng khớp với lợi ích của cổ đông Để giải quyết vấn đề này, cổ đông cần yêu cầu thông tin để giám sát các nhà quản lý và thiết lập các ưu đãi liên kết với lợi ích của họ Theo Watt và Zimmerman (1978), một chức năng quan trọng của báo cáo tài chính là hạn chế hành động của quản lý, đảm bảo họ hành động vì lợi ích của cổ đông.

Vai trò kép của kế toán nhấn mạnh tầm quan trọng của lợi nhuận trong việc tập trung vào cổ đông, trong khi các bên liên quan khác như nhà cung cấp và nhân viên thường bị bỏ qua Mức lợi nhuận ảnh hưởng đến giá cả, và khi lợi nhuận giảm, điều này có thể dẫn đến nghi ngờ về động lực quản lý lợi nhuận từ góc độ lợi ích – chi phí Nếu lợi nhuận không đủ lớn, các lợi ích có thể không đủ để bù đắp cho chi phí cao liên quan đến việc tạo ra và quản lý lợi nhuận.

2.1.3.2 Vai trò của lợi nhuận:

Các vấn đề cơ bản về hành vi quản trị lợi nhuận

2.2.1 Động lực của hành vi quản trị lợi nhuận:

Hành vi quản trị lợi nhuận không được xem là hoạt động rủi ro cao, nhưng các giám đốc vẫn phải cân nhắc đến ảnh hưởng đến danh tiếng của họ Các công ty thường chỉ thực hiện quản trị lợi nhuận khi lợi ích thu được vượt xa rủi ro và chi phí liên quan.

Theo nghiên cứu của S Verbruggen, J Christaens và K Milis (2008), có năm động cơ chính thúc đẩy hành vi quản trị lợi nhuận, bao gồm: ảnh hưởng từ thị trường chứng khoán, việc tiết lộ hoặc che giấu thông tin, chi phí pháp lý, mong muốn tạo dựng hình ảnh tích cực cho giám đốc điều hành, và các động cơ nội tại Trong đó, động cơ liên quan đến thị trường chứng khoán là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp.

Hành vi quản trị lợi nhuận có liên quan chặt chẽ đến thị trường chứng khoán, nơi sự tương tác giữa các số liệu kế toán và giá cổ phiếu thúc đẩy các công ty niêm yết Tuy nhiên, phần lớn nghiên cứu về quản trị lợi nhuận hiện nay chủ yếu dựa trên dữ liệu từ Mỹ, nơi có thị trường chứng khoán hiệu quả và sở hữu rộng rãi Trong các quốc gia khác, nơi có nhiều công ty tư nhân và ít niêm yết, các động cơ quản trị lợi nhuận có thể khác biệt, chẳng hạn như để tránh thuế Đầu tư vào cổ phiếu thường đi kèm với rủi ro, vì vậy các nhà đầu tư thường dựa vào dự báo của các nhà phân tích để xây dựng danh mục đầu tư Nghiên cứu cho thấy rằng, để đáp ứng hoặc vượt qua mong đợi, nhà quản lý thường thực hiện các biện pháp quản trị lợi nhuận, và mức độ đồng thuận từ các nhà phân tích càng cao, động lực để đạt được dự báo càng mạnh Nếu lợi nhuận thấp hơn dự báo, nhà quản lý có xu hướng tăng cường quản trị lợi nhuận, trong khi nếu lợi nhuận vượt mức dự báo, họ có thể lựa chọn giữa việc giảm lợi nhuận để tiết kiệm cho các hoạt động khác hoặc không thực hiện quản trị lợi nhuận.

Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng hành vi quản trị lợi nhuận diễn ra trong những tình huống cụ thể trên thị trường chứng khoán, như khi phát hành cổ phiếu ra công chúng (Ducharme et al., 2001) và phát hành thêm cổ phiếu (Shivakumar, 2000) Ngoài ra, việc mua lại cổ phiếu cũng là một phương thức quản trị lợi nhuận Vafeas et al (2003) đã phát hiện rằng các nhà quản lý có thể làm giảm lợi nhuận thông qua các khoản trích trước khi thực hiện mua lại cổ phiếu Bens et al (2003) cho rằng các giám đốc điều hành sử dụng mua lại cổ phiếu như một công cụ để quản trị lợi nhuận khi lợi nhuận không đạt yêu cầu để đảm bảo sự tăng trưởng mong muốn trên mỗi cổ phiếu.

Rosner (2003) đã nghiên cứu việc các công ty có thực hiện quản trị lợi nhuận và điều chỉnh tài khoản hàng năm để giấu diếm tình hình tài chính hay không Mặc dù không có tác động ngay lập tức lên giá cổ phiếu hay mức lương CEO, Rosner cho thấy rằng quản trị lợi nhuận có thể chỉ đơn giản là một cách để che giấu thông tin Điều này khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định mục tiêu kế toán của mình Shane và Stock (2006) đã phát hiện rằng các nhà phân tích thường không nhận ra sự thay đổi trong lợi nhuận như một chiến lược tối ưu về thuế Khi thị trường không nhận diện được hình thức quản trị lợi nhuận, các doanh nghiệp có thể bị trừng phạt vì kế hoạch thuế của họ.

Tucker và Zarowin (2006) đã làm rõ các cuộc thảo luận về động cơ của các nhà quản lý trong việc quản trị lợi nhuận, liệu họ có thực hiện điều này vì lợi ích cá nhân hay nhằm cải thiện thông tin Nghiên cứu thực nghiệm của họ cho thấy rằng một trong những ảnh hưởng quan trọng của các nhà quản lý khi sử dụng báo cáo tài chính là để cung cấp thêm thông tin về thu nhập tương lai của các công ty và lưu chuyển tiền tệ, từ đó giúp nâng cao tính minh bạch và độ tin cậy trong báo cáo tài chính.

Công ty không chỉ điều chỉnh báo cáo tài chính để ảnh hưởng đến quyết định của cổ đông mà còn quản trị lợi nhuận để đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan khác Quy định và pháp luật thuế của Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích hành vi quản trị lợi nhuận, nhằm giúp công ty tối ưu hóa lợi nhuận và tránh sự can thiệp của chính phủ Nghiên cứu của Haw et al (2005) chỉ ra rằng quản trị lợi nhuận tại Trung Quốc gia tăng như một phản ứng đối với yêu cầu lợi nhuận tối thiểu 10% trên vốn chủ sở hữu từ chính phủ Tương tự, nghiên cứu của Johnston và Rock (2005) cho thấy các doanh nghiệp bị đe dọa bởi luật Superfund có xu hướng quản trị để giảm lợi nhuận Hơn nữa, khi số liệu kế toán được sử dụng làm căn cứ tính thuế, các biện pháp quản trị lợi nhuận càng trở nên phổ biến hơn để giảm thiểu số tiền thuế phải nộp (Monem, 2003).

Có 2 bài nghiên cứu đưa ra bằng chứng về hành vi quản trị lợi nhuận khi có sự thay đổi của CEO (Godfrey et al., 2003) hoặc khi các CEO về nghỉ hưu (Reitenga and Tearny, 2003) Một giám đốc điều hành mới có thể thực hiện nhằm giảm lợi nhuận trong năm của sự thay đổi và quản trị lợi nhuận tăng lên trong những năm tiếp theo Những CEO nghỉ hưu thì cố gắng quản trị làm tăng lợi nhuận giúp tạo danh tiếng cho họ. e Những động cơ trong nội bộ

Cuối cùng, chúng ta xem xét các động cơ quản trị lợi nhuận trong nội bộ công ty mà không tác động đến bên ngoài như cổ đông, chính phủ hay công đoàn Quản trị lợi nhuận đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh báo cáo tài chính và cấu trúc lại các giao dịch để đáp ứng các tiêu chuẩn hoạt động.

Leone và Rock (2002) đã nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông đối với quản trị lợi nhuận trong các đơn vị kinh doanh của một công ty đa quốc gia lớn ở Bắc Mỹ Nghiên cứu cho thấy ngân sách thay đổi phản ứng với biến động của năm trước, với sự thay đổi lớn hơn phương sai Họ thử nghiệm trong môi trường lợi nhuận tạm thời và vĩnh viễn, đưa ra giả thuyết rằng dưới ảnh hưởng của tỷ lệ vốn cổ phần, nhà quản lý có xu hướng sử dụng phương pháp dồn tích để giảm lợi nhuận khi động cơ quản trị lợi nhuận tạm thời được hỗ trợ bởi bằng chứng thực nghiệm.

Murphy (2001) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa bản chất của các tiêu chuẩn năng suất trong hợp đồng quản trị lợi nhuận Ông nhận định rằng các công ty áp dụng tiêu chuẩn bên ngoài, chẳng hạn như tiêu chuẩn của nhóm đồng đẳng hoặc chi phí vốn, có xu hướng ít quản trị lợi nhuận hơn so với những công ty dựa vào tiêu chuẩn nội bộ như mục tiêu ngân sách hay các tiêu chuẩn chủ quan.

2.2.2 Cơ sở của hành vi quản trị lợi nhuận–cơ sở dồn tích: a Kế toán theo cơ sở tiền: Đây là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở thực thu – thực chi tiền Theo phương pháp này, doanh thu và chi phí được ghi nhận khi thực nhận tiền và thực chi tiền.

Kế toán theo cơ sở tiền chỉ ghi nhận giao dịch khi có sự phát sinh tiền Khi xác định lợi nhuận theo cơ sở tiền, lợi nhuận và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh trong cùng một kỳ sẽ tương đương Hiện nay, phương pháp kế toán này chủ yếu được áp dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, đặc biệt là theo phương pháp trực tiếp.

Kế toán theo cơ sở tiền có ưu điểm nổi bật là tính khách quan cao trong việc trình bày thông tin tài chính Các hoạt động thu chi tiền là "hữu hình", với số tiền và ngày giao dịch được xác định rõ ràng, không bị ảnh hưởng bởi ý muốn chủ quan của nhà quản lý doanh nghiệp Ngược lại, kế toán theo cơ sở dồn tích cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Kế toán theo cơ sở dồn tích là phương pháp kế toán dựa trên nguyên tắc dự thu – dự chi, trái ngược với kế toán theo cơ sở tiền Đây là một trong những nguyên tắc kế toán cơ bản trong doanh nghiệp Theo Chuẩn mực kế toán (VAS 01), mọi nghiệp vụ kinh tế và tài chính liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí đều phải được ghi sổ vào thời điểm phát sinh, không phụ thuộc vào thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận - Khảo sát thực nghiệm tại các công ty niêm yết TP HCM 29

Giới thiệu các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP HCM

3.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch chứng khoán Thành phố HCM

Vào đầu những năm 90, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu phát triển thị trường chứng khoán Ngày 11/07/1998, Nghị định 48/CP chính thức ra đời, đánh dấu sự khai sinh của Thị trường chứng khoán Việt Nam Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM Đến ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên với 2 mã cổ phiếu niêm yết đã được tổ chức, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam.

Ngày 11/05/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 599/QĐ chuyển Trung tâm thành Sở giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE), hoạt động theo mô hình Công ty TNHH Một Thành viên với 100% vốn thuộc Bộ Tài chính Sự chuyển đổi này đã nâng cao vị thế của HOSE trong mối quan hệ quốc tế và tăng cường ảnh hưởng của thị trường chứng khoán Việt Nam Năm 2011, HOSE đã xây dựng chỉ số VN30, bao gồm 30 cổ phiếu hàng đầu, chiếm 80% giá trị vốn hóa thị trường và 60% giá trị giao dịch Để đáp ứng nhu cầu thị trường, HOSE cũng đã triển khai lệnh MP và đang nghiên cứu phát triển sản phẩm EFT (Exchange Trade Fund) để đưa vào giao dịch.

3.1.2 Phân ngành các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP HCM:

Việc phân loại các công ty niêm yết tại HOSE dựa trên tiêu chí phân ngành kinh tế Việt Nam 2007 (VSIC 2007), được xây dựng bởi Tổng cục thống kê Hệ thống này dựa trên phân ngành chuẩn quốc tế (ISIC Rev.4) và khung phân ngành ASEAN (ACIC), với chi tiết đến 4 và 3 chữ số Để đáp ứng thực tiễn và nhu cầu thống kê, hệ thống ngành kinh tế Việt Nam được chi tiết đến 5 chữ số Quy định về nội dung các ngành kinh tế đã được Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư phê duyệt tại Quyết định số 337/QĐ-BKH ngày 10 tháng 4 năm 2007.

Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM thực hiện phân ngành cho các công ty niêm yết dựa trên hoạt động kinh doanh chính của từng công ty Tiêu chí doanh thu được Sở GDCK Tp.HCM xem xét kỹ lưỡng để đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động kinh doanh của các công ty này.

Hoạt động kinh doanh chính của công ty niêm yết được xác định là hoạt động mang lại doanh thu lớn nhất trong tổng doanh thu của công ty Thông tin này được thu thập từ phiếu thu thập thông tin doanh nghiệp, bản cáo bạch và báo cáo tài chính hàng năm Đối với các công ty mới niêm yết, Sở GDCK Tp.HCM sẽ thu thập thông tin trong ba năm trước đó để phân ngành Quy trình phân ngành cũng tuân thủ các quy định chung cho các quốc gia sử dụng ISIC Rev.4 và các quy ước phân ngành theo VSIC 2007 cho một số hoạt động kinh tế cụ thể tại Việt Nam.

2013 số lượng 300 công ty niêm yết trên sàn HOSE được chia thành 15 mã ngành cấp 1, đánh thứ tự alphabet từ A đến R.

Bảng 3.1- Khảo sát số lượng công ty trong ngành năm 2013 sàn HOSE

Mã ngành Số lượng Tỷ lệ

A - Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 7 2.33%

C - Công nghiệp chế biến, chế tạo 97 32.33%

D - Sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí 15 5.00%

E - Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 2 0.67%

G - Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác 42 14.00%

ả o sát Kh th ự c nghi ệ m các nhân t ố ảnh hưởng đế n hành vi qu ả n tr ị l ợ i nhu ậ n

I - Dịch vụ lưu trú và ăn uống 3 1.00%

J - Thông tin và truyền thông 4 1.33%

K - Tài chính ngân hàng và bảo hiểm 17 5.67%

L - Hoạt động kinh doanh bất động sản 38 12.67%

M - Hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ 2 0.67%

N - Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 1 0.33%

R - Dịch vụ vui chơi và giải trí 2 0.67%

3.2 Khảo sát thực nghiệm các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP HCM:

Để đánh giá thực trạng quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết, nghiên cứu này tập trung vào thông tin từ các công ty trong giai đoạn tài chính 2010 – 2013 Dựa trên dữ liệu phân tích, nghiên cứu sẽ đưa ra nhận xét và kết luận về hành vi quản trị lợi nhuận Cơ sở dữ liệu này sẽ được sử dụng để kiểm tra các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đã được xây dựng.

Trong phần này, các giả thuyết được kiểm nghiệm dựa trên lý thuyết hiện có nhằm tạo cơ sở vững chắc cho các biến được xem xét Đặc biệt, việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận với mục tiêu chủ quan là rất quan trọng Một trong những yếu tố chính là tính độc lập của Hội đồng quản trị (HĐQT).

Hội đồng quản trị (HĐQT) có ba nhiệm vụ chính trong một công ty: định hướng chiến lược, cung cấp lời khuyên và kết nối, cũng như thực hiện chức năng giám sát quản lý thay mặt cho các cổ đông HĐQT giám sát hành vi quản lý để đảm bảo các nhà quản lý thực hiện nhiệm vụ và mang lại lợi ích cho cổ đông Tuy nhiên, không phải tất cả HĐQT đều thực hiện giám sát một cách thận trọng Nghiên cứu chỉ ra rằng HĐQT độc lập đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chức năng giám sát, với các công ty có HĐQT độc lập thường cung cấp cơ chế giám sát hiệu quả hơn Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mối liên hệ tích cực giữa HĐQT độc lập và khả năng giám sát của hội đồng quản trị.

Bảng 3.2: Kết quả một số nghiên cứu

Các nghiên cứu trước đây Kết quả

Theo nghiên cứu của Weisbach (1988), khả năng từ chức của các CEO tại các công ty có hội đồng quản trị bên ngoài cao hơn so với các công ty có hội đồng quản trị bên trong, như được chỉ ra bởi Rosenstein và Wyatt.

Việc bổ nhiệm cán bộ giám sát bên ngoài của một công ty tài chính làm tăng giá trị cổ phiếu

Theo Byrd và Hickman (1992), lợi nhuận dành cho cổ đông của các công ty đấu thầu phụ thuộc vào Hội đồng Quản trị, trong đó ít nhất 50% thành viên phải là độc lập với ban quản lý công ty.

Nghiên cứu của Brickley et al (1994) chỉ ra rằng thị trường có phản ứng tích cực đối với các thông báo từ công ty khi thành viên Hội đồng quản trị chủ yếu là các giám đốc từ bên ngoài.

Các thành viên trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát hiệu quả Việc phân loại Giám đốc bên ngoài dựa trên vai trò của Giám đốc độc lập cho thấy rằng Giám đốc nội bộ, với thông tin phong phú hơn, có ảnh hưởng lớn hơn so với Giám đốc bên ngoài, những người thường thiếu thời gian và thông tin cần thiết để thực hiện giám sát (Gilson & Kraakman 1991; Patton & Baker 1987) Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng Giám đốc bên ngoài có mối liên hệ đặc biệt với cổ tức công ty (Rosentein & Wyatt 1990) và hiệu suất làm việc (Dalton et al 1999), cũng như trong các trường hợp gian lận (Beasley 1996) Ngoài ra, nghiên cứu của Klein (2002) cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa Giám đốc bên ngoài và vấn đề quản lý lợi nhuận.

Việc điều hành của Giám đốc có thể dẫn đến việc chuyển giao tài sản từ Giám đốc thành chi phí của cổ đông, do đó, các Giám đốc được chọn vào HĐQT cần có khả năng giám sát độc lập nhằm giảm thiểu lý thuyết đại diện và nâng cao hiệu quả hoạt động Để đạt được điều này, Giám đốc bên ngoài cần có khả năng mạnh mẽ trong việc giám sát HĐQT và quản lý hành vi quản trị lợi nhuận Đồng thời, việc bảo vệ danh tiếng của Giám đốc trong môi trường cạnh tranh cũng rất quan trọng, nhằm khuyến khích các Giám đốc bên ngoài thực hiện vai trò giám sát mà không làm tăng nguy cơ bị sa thải.

Theo Fama (1980) và Peasnell et al (2000), các Giám đốc bên ngoài có khả năng phát hiện hành vi quản lý thu nhập do họ đã có kinh nghiệm với các vấn đề báo cáo tài chính thông qua việc giữ các vị trí cấp cao tại các công ty khác.

HĐQT độc lập cao góp phần nâng cao niềm tin của cổ đông vào lợi nhuận, nhờ vào sự giám sát chặt chẽ giúp cải thiện tính toàn vẹn của báo cáo tài chính Điều này đảm bảo rằng cổ đông nhận được thông tin đáng tin cậy, từ đó HĐQT sẽ có ý thức hơn về trách nhiệm và đưa ra các quyết định hiệu quả hơn.

Các nghiên cứu cho thấy rằng, Hội đồng Quản trị (HĐQT) độc lập được hình thành dựa trên giả định rằng giám đốc bên ngoài thường thận trọng hơn so với giám đốc bên trong.

-Giám đốc bên ngoài tập trung vào các hoạt động tài chính, mà là yếu tố quan trọng của hoạt động giám sát (Fama và Jensen, 1983).

-Giám đốc bên ngoài có nhiều khả năng hơn trong loại bỏ những CEO khi những thành tích kém (Weisbach, 1988).

Giám đốc bên ngoài có động cơ mạnh mẽ để bảo vệ danh tiếng cá nhân của họ, vì vậy họ thường thận trọng hơn trong việc giám sát hoạt động của ban quản lý Điều này được nhấn mạnh bởi nghiên cứu của Fama và Jensen (1983), cho thấy vai trò quan trọng của giám đốc độc lập trong việc đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý.

Nghiên cứu chỉ ra rằng, tính độc lập cao của Hội đồng Quản trị (HĐQT) sẽ hạn chế khả năng thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận.

H2: Tính độc lập của HĐQT có ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi b Chất lượng kiểm toán:

Chất lượng kiểm toán trong Hội đồng kiểm toán rất quan trọng cho việc giám sát quản lý và bảo vệ lợi ích của cổ đông Để đảm bảo hiệu quả, Ban kiểm toán cần duy trì tính độc lập cao, có năng lực chuyên môn vững vàng và đạt được mức độ trung thực tối ưu.

Kết quả nghiên cứu

Th ố ng kê mô t ả

Bảng 4.1: Descriptive Statistics (Dependent variable)

Minimum Maximum Mean Std Deviation

Bảng 4.1 trình bày kết quả phân tích thống kê của biến phụ thuộc – biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh, với giá trị trung bình đạt 0.70, giá trị lớn nhất là 23.5 và nhỏ nhất là -51.7 Kết quả này cho thấy xu hướng gia tăng trong việc quản lý lợi nhuận của các công ty Hiện nay, nhiều công ty nỗ lực tạo ra báo cáo tài chính hấp dẫn nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Bảng 4.2 cho thấy kết quả phân tích các biến độc lập trong mô hình, trong đó giá trị trung bình của biến vai trò của HĐQT – BOA (tính độc lập của HĐQT) đạt 67.8%, gần mức tối đa 100% Điều này cho thấy tính độc lập của HĐQT trong các công ty hiện nay vẫn chưa đạt mức thuyết phục, nhưng vẫn chấp nhận được khi lớn hơn 50% Kết quả này khác biệt so với nghiên cứu của Hso và Koh (2005), khi phân tích giai đoạn 1993-1997 ở các công ty Úc chỉ đạt khoảng 12%.

Quy mô công ty, được đo bằng log giá trị tài sản, có giá trị trung bình là 11.63, với giá trị nhỏ nhất là 10.19 và lớn nhất là 13.47 Mặc dù các công ty niêm yết thường có quy mô lớn, nhưng độ lệch chuẩn của quy mô công ty lại cao hơn so với các yếu tố khác, cho thấy sự chênh lệch đáng kể giữa các công ty niêm yết.

Nhân tố đòn bẩy tài chính trung bình tại các công ty trong mẫu là 53.45%, gần tương đương với phân tích của Koh (2005) là 53.46%, nhưng khác biệt với kết quả của Wei và Verela (2003) chỉ đạt 34%.

Bảng 4.3: AUD (biến Quy mô công ty kiểm toán)

Bảng 4 phân tích quy mô công ty kiểm toán, cho thấy rằng mặc dù các công ty niêm yết có quy mô lớn, nhưng chỉ 34,5% trong số họ chọn một trong bốn thành viên của Big 4, trong khi 65,5% còn lại lựa chọn các công ty kiểm toán không thuộc Big 4.

Phân tích tương quan giữ a các bi ế n

DA BOA AUD SIZ LEV

** Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Theo bảng 4.4, với mức ý nghĩa 1% (độ tin cậy 99%), có sự tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập, trong khi các biến độc lập không có sự tương quan với nhau Điều này tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành các phân tích tiếp theo.

Std Error of the Estimate

1 137 a 519 0.593 6.793068 2.036 a Predictors: (Constant), LEV, AUD, BOA, SIZ b Dependent Variable: DA

Mô hình có mức độ giải thích với R² hiệu chỉnh đạt 0.593, cho thấy 59.3% sự biến đổi của biến kế toán dồn tích được giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình.

4467.809 99 a Predictors: (Constant), LEV, AUD, BOA, SIZ b Dependent Variable: DA

Về mức độ phù hợp của mô hình thống kê qua phân tích phương sai với sig

< 0.01, ta có thể nhận xét rằng, các biến độc lập có tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc với mức độ tin cậy 99%.

Phân tích h ồ i quy tuy ến tính đa biế n

Bảng 4.7 tổng hợp kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến, cho thấy chỉ số VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 2, điều này chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến và các biến đều có ý nghĩa thống kê.

Các thông số thống kê của từng biến độc lập trong bảng trên đóng vai trò là các tham số trong phương trình hồi quy, thể hiện mối quan hệ giữa hành vi quản trị lợi nhuận và các biến độc lập.

DA = 0.642 -4.735 BOA - 0.421 AUD + 0.309 SIZE + 0.008 LEV

Kết quả hồi quy đa biến cho thấy các biến độc lập như HĐQT (BOA), kiểm toán (AUD), quy mô công ty (SIZE) và đòn bẩy kinh doanh (LEV) đều có mối tương quan ý nghĩa với hành vi quản trị lợi nhuận, với mức ý nghĩa sig < 0.05, đạt độ tin cậy 99%.

Tính độc lập của Hội đồng Quản trị (HĐQT) có ảnh hưởng rõ rệt đến hành vi quản trị lợi nhuận, với hệ số biến BOA là -4.7, cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa hai yếu tố này Cụ thể, khi tính độc lập của HĐQT tăng lên 1 điểm, hành vi quản trị lợi nhuận giảm đi 4.735 điểm Điều này chứng tỏ rằng các thành viên HĐQT, với vai trò kiểm soát bên ngoài ban giám đốc điều hành, nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và hạn chế quản trị lợi nhuận HĐQT cần duy trì tính toàn vẹn và độ tin cậy của báo cáo tài chính bằng cách kiểm soát hành vi này Sự độc lập của các thành viên HĐQT là yếu tố quan trọng, đặc biệt trong việc giám sát hoạt động công ty, và điều này phù hợp với quan điểm của nhiều nhà phân tích về mâu thuẫn lợi ích giữa HĐQT và ban giám đốc Khi các nhà đầu tư chú ý đến hiệu quả hoạt động hiện tại, hành vi quản trị lợi nhuận có xu hướng gia tăng, điều này cũng được hỗ trợ bởi nghiên cứu của Velury và Jinkins (2006).

Giả thuyết H1 được chấp nhận, cho thấy tính độc lập của HĐQT có tác dụng hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận của công ty Biến AUD có hệ số -0.421, cho thấy mối quan hệ nghịch chiều với hành vi quản trị lợi nhuận; cụ thể, khi quy mô công ty kiểm toán tăng thêm 1 điểm, hành vi quản trị lợi nhuận sẽ giảm đi 0.42 điểm Điều này chứng tỏ rằng quy mô công ty kiểm toán lớn hơn sẽ giảm thiểu hành vi quản trị lợi nhuận, qua đó nâng cao chất lượng báo cáo tài chính Sự hiện diện của các công ty kiểm toán lớn là tín hiệu cho cơ chế giám sát tốt hơn trong việc thông báo thông tin tài chính, từ đó hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận Nghiên cứu của Krishnan (2003) và Van Caneghem (2004) cũng chỉ ra mối quan hệ nghịch chiều giữa công ty kiểm toán và quản trị lợi nhuận Kim (2003) cho rằng các kiểm toán thuộc nhóm Big6 (Hàn Quốc) có hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn quản trị lợi nhuận, đặc biệt khi nhà quản lý có xu hướng tạo ra lợi nhuận tăng lên Hiệu quả của Big 4 sẽ tăng nếu công ty hoạt động trong môi trường có chế độ bảo vệ nhà đầu tư chặt chẽ, do đó H3 được chấp nhận.

Quy mô công ty, với hệ số 0.309, có mối quan hệ tích cực với hành vi quản trị lợi nhuận, cho thấy rằng khi quy mô công ty tăng thêm 1 điểm, hành vi quản trị lợi nhuận cũng tăng 0.309 điểm Điều này chỉ ra rằng các công ty lớn có xu hướng thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận nhiều hơn Đối mặt với áp lực về lợi nhuận và giá cổ phiếu, các nhà quản trị cần áp dụng các phương pháp quản trị lợi nhuận để đạt được mục tiêu mong muốn Do đó, giả thuyết H3 đã bị loại trừ.

Đòn bẩy tài chính có hệ số 0.008, cho thấy mối quan hệ cùng chiều với hành vi quản trị lợi nhuận; khi đòn bẩy tài chính tăng 1 điểm, hành vi quản trị lợi nhuận cũng tăng 0.008 điểm Tại Việt Nam, các doanh nghiệp vay vốn thường cung cấp báo cáo và thông tin để chứng minh khả năng tài chính của mình, nhằm đáp ứng yêu cầu của ngân hàng, chủ yếu tập trung vào năng lực tài chính và tài sản thế chấp Hiểu rõ tâm lý này, doanh nghiệp luôn sẵn sàng cung cấp thông tin cần thiết để tránh rắc rối trong hợp đồng vay và tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản vay sau Do đó, giả thuyết H4 được chấp nhận.

Như vậy, sau khi nghiên cứu thực nghiệm đối với các công ty niêm yết, kết quả thu được được tóm tắt (Bảng 4.8) như sau:

STT Biến nghiên cứu Tên biến Mối tương quan giữa biến nghiên cứu và Quản trị lợi nhuận

3 Quy mô công ty SIZE +

Hệ số hồi quy chuẩn hóa giúp xác định vị trí ảnh hưởng của các biến độc lập trong mô hình Các hệ số này được thể hiện rõ ràng để phân tích mối quan hệ giữa các biến.

Vị trí quan trọng của các yếu tố:

STT Biến nghiên cứu Giá trị tuyệt đối %

Trong nghiên cứu về hành vi quản trị lợi nhuận, mức độ đóng góp của các biến được xác định với thứ tự ảnh hưởng như sau: tính độc lập của hội đồng quản trị đứng đầu với 61.17%, tiếp theo là quy mô công ty, công ty kiểm toán, và cuối cùng là đòn bẩy với 8.74%.

Chương 4 trình bày kết quả của các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận thông qua việc thiết lập mô hình và phân tích số liệu Qua đây có thể giúp ta rút ra kết luận rằng, ở các công ty Việt Nam hiện tại, nhờ có thiết lập HĐQT nhằm nhiệm vụ giám sát hoạt động ở công ty, sẽ giúp hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận Các thành viên độc lập trong HĐQT không ảnh hưởng bởi Ban giám đốc, và có tác dụng trong quá trình hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận.

Tính chất của công ty kiểm toán, đặc biệt là sự tham gia của các công ty lớn như Big4, có vai trò quan trọng trong việc hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận, mang lại lợi ích cho nhà đầu tư và người sử dụng báo cáo tài chính Tuy nhiên, số lượng công ty được kiểm toán bởi Big4 vẫn còn hạn chế và cần cải thiện Quy mô công ty cũng ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận; các công ty lớn thường chịu áp lực từ cổ đông, chủ nợ và Ban Giám Đốc, dẫn đến việc nhà quản trị có xu hướng sử dụng nhiều biện pháp quản trị lợi nhuận để đạt được mục tiêu Đối với đòn bẩy tài chính, khi nợ cao, công ty có xu hướng tối đa hóa lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu chiến lược và dễ dàng ký kết hợp đồng vay nợ.

Chương 5 sẽ đề xuất các phương pháp nhằm giảm thiểu hành vi quản trị lợi nhuận, đồng thời cải thiện khả năng kiểm soát kết quả tài chính từ báo cáo tài chính (BCTC) dựa trên những kết luận từ phân tích dữ liệu.

Các giải pháp nhằm hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận

Gi ả i pháp h ạ n ch ế hành vi qu ả n tr ị l ợ i nhu ậ n

5.1.1 Đối với công ty niêm yết:

Trong chương 2 - “Các phương pháp nhằm thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận”, ước tính kế toán được xem là một công cụ quan trọng mà doanh nghiệp sử dụng để đạt được lợi nhuận mong muốn Doanh nghiệp cần nhận thức rằng việc bỏ qua hoặc lạm dụng các ước tính kế toán trong báo cáo tài chính có thể gây ra những rủi ro nghiêm trọng trong tương lai Việc ghi nhận đầy đủ và trung thực các ước tính kế toán giúp quản lý và các bên liên quan hiểu rõ tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Chỉ khi nhận thức rõ những khó khăn hiện tại, doanh nghiệp mới có thể đưa ra các giải pháp hiệu quả để vượt qua thách thức.

Các doanh nghiệp cần phân biệt giữa việc thực hiện ước tính kế toán theo chuẩn mực và điều kiện thực tế của thị trường, tránh phụ thuộc vào ghi nhận ước tính kế toán trên báo cáo tài chính với việc ghi nhận chi phí theo góc độ thuế TNDN Cần thừa nhận sự khác biệt giữa các ước tính kế toán và chính sách thuế hiện hành Để hạn chế và phát hiện gian lận, việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả là rất quan trọng Doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức rõ về lợi ích của hệ thống kiểm soát này, đồng thời áp dụng các biện pháp khác như thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ và thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng.

Quản trị kết quả trên Báo cáo tài chính bị ảnh hưởng bởi lợi ích dài hạn của giám đốc công ty, người nắm giữ cổ phiếu và có thể mua thêm trong thời gian lãnh đạo Do đó, việc tăng lợi nhuận và giảm rủi ro là yêu cầu thiết yếu, đồng thời cần đảm bảo tính minh bạch trong Báo cáo tài chính HĐQT và ban giám sát đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế điều chỉnh báo cáo tài chính, với nhiệm vụ hỗ trợ và tư vấn cho giám đốc, đồng thời đại diện cho cổ đông giám sát hoạt động công ty.

Trong báo cáo tài chính (BCTC), phần thuyết minh đóng vai trò quan trọng nhưng thường bị các doanh nghiệp bỏ qua Hầu hết chỉ tập trung vào số liệu trong bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ, mà không thể hiện rõ mức độ quản trị thông tin Do đó, cần thiết phải chi tiết hóa phần thuyết minh BCTC, cung cấp giải trình cụ thể cho từng chỉ tiêu, đặc biệt là việc vận dụng các phương pháp kế toán, ước tính kế toán và cơ sở chọn kỳ phân bổ chi phí hoặc trích trước chi phí.

Mặc dù quy chế quản trị công ty do Bộ Tài chính ban hành đã quy định về thành viên hội đồng quản trị độc lập và không điều hành, nhưng các quy định này chỉ mang tính chất hướng dẫn và chưa đủ tính pháp lý để đảm bảo tính độc lập trong nhiệm vụ của họ.

Việc kiêm nhiệm chức danh chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc chỉ được phép khi có sự chấp thuận của đại hội cổ đông, theo quy định của Bộ Tài chính Để giảm thiểu nguy cơ tập trung quyền lực, quy chế quản trị công ty cần bổ sung các nội dung yêu cầu thực thi cụ thể.

Để đảm bảo tính độc lập trong quyết định của hội đồng quản trị, cần yêu cầu ít nhất hai phần ba thành viên là các thành viên độc lập, không điều hành Điều này quan trọng vì phương thức biểu quyết trong hội đồng là đối nhân, và nếu chỉ yêu cầu một phần ba, các thành viên điều hành có thể dễ dàng cấu kết để phủ quyết ý kiến của các thành viên độc lập.

Công ty niêm yết cần xây dựng chế độ công bố thông tin đầy đủ về hoạt động kinh doanh, đặc biệt là thông tin tài chính, để tránh thông tin bất cân xứng Điều này giúp các thành viên hội đồng quản trị không điều hành có đủ thông tin khi đưa ra quyết định Hội đồng quản trị phải thiết lập hệ thống báo cáo và yêu cầu ban điều hành cung cấp thông tin, đồng thời ban kiểm soát cần xác nhận tính trung thực và kịp thời của những thông tin này.

Chủ tịch hội đồng quản trị cần phân công rõ ràng trách nhiệm cho từng thành viên, đồng thời giám sát ban điều hành trong việc xây dựng và cải tiến liên tục hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro, chính sách kế toán và quy tắc đạo đức trong kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.

Bốn là, bắt buộc trong công ty niêm yết hai chức danh chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc phải là hai người khác nhau.

Năm là, về mặt thể chế, nhà nước đã quy định đầy đủ về sự độc lập của hội đồng quản trị Tuy nhiên, việc thực thi các quy định này mới là vấn đề quan trọng hơn Do đó, các thành viên hội đồng quản trị cần định kỳ đánh giá nhiệm vụ của mình, có sự tham gia của ban kiểm soát và công bố kết quả tại đại hội cổ đông hàng năm.

Để nâng cao hiệu quả kiểm soát và kiềm chế Ban giám đốc, cần trao quyền nhiều hơn cho các thành viên HĐQT độc lập Họ nên tổ chức các phiên họp ở cấp điều hành mà không có sự hiện diện của Ban giám đốc Đồng thời, các thành viên HĐQT độc lập cần chỉ định và công khai danh tính của người sẽ chủ tọa những phiên họp này, nhằm tạo điều kiện cho một thành viên HĐQT độc lập có thể đối trọng với các quan chức điều hành cao nhất.

Cần tăng cường quyền lực và trách nhiệm của Ban Kiểm Soát (BKS) và các công ty kiểm toán, bao gồm cả quyền quyết định thuê hoặc sa thải kiểm toán viên độc lập BKS nên được giao trách nhiệm thông tin và làm việc trực tiếp với kiểm toán viên độc lập Việc nâng cao quyền lực của các thành viên hỗ trợ Hội đồng Quản trị (HĐQT) và tách bạch vai trò điều hành của Chủ tịch HĐQT, nhằm tập trung vào quản lý chiến lược và giám sát, sẽ tạo nền tảng cho một cơ chế quản trị doanh nghiệp hiệu quả và báo cáo tài chính minh bạch.

Trong Quy chế quản trị công ty, Nhà nước cần yêu cầu bổ sung trách nhiệm của Ban điều hành, trong đó Tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm xây dựng và cải tiến hệ thống kiểm soát nội bộ để ngăn chặn gian lận từ các thành viên trong công ty Ngoài ra, cần thiết lập chính sách kế toán cho các công ty có đơn vị kế toán hạch toán riêng biệt, đặc biệt là những đơn vị lập báo cáo tài chính hợp nhất.

Mục tiêu của Ban điều hành trong quản trị công ty là thực hiện các hành động cụ thể nhằm xây dựng quy trình và thủ tục hiệu quả để ngăn ngừa gian lận và sai sót Đồng thời, vai trò của Ban kiểm soát cũng rất quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý.

Ban kiểm soát không chỉ thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật mà còn cần mở rộng vai trò của mình Họ cần đánh giá hiệu quả hoạt động và xem xét kế hoạch hàng năm của chức năng kiểm toán nội bộ Đồng thời, việc đánh giá tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, đặc biệt là quy trình lập báo cáo tài chính và các chương trình cải tiến liên quan cũng rất quan trọng Ngoài ra, ban kiểm soát cần giám sát mối quan hệ giữa kiểm toán viên, công ty và Ban điều hành trong suốt quá trình kiểm toán để đảm bảo tính độc lập của kiểm toán viên.

Gi ả i pháp nh ằ m nâng cao ch ất lượ ng thông tin tài chính

Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ và phát triển ở mức thấp so với nhiều quốc gia khác, nhưng Chính phủ đang hướng tới việc xây dựng một thị trường ổn định và bền vững Để đạt được điều này, việc tạo lập niềm tin cho các nhà đầu tư là rất quan trọng, bao gồm việc cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo chất lượng hàng hóa và cung cấp thông tin minh bạch Chất lượng thông tin tài chính là yếu tố quyết định để các nhà đầu tư tham gia vào thị trường, trong đó lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu Do đó, bài viết sẽ đưa ra một số gợi ý nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính, giúp nhà đầu tư tiếp cận thông tin hữu ích và đáp ứng nhu cầu của họ.

Cần áp dụng các biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm công bố thông tin về báo cáo tài chính (BCTC) của công ty niêm yết, nhằm tăng cường tính minh bạch của thị trường và duy trì niềm tin của nhà đầu tư Việc chậm công bố thông tin có thể dẫn đến sự mất niềm tin, vì vậy chế tài xử phạt cần mạnh mẽ hơn để vừa cảnh báo, vừa răn đe, nâng cao ý thức của các công ty trong việc công bố thông tin Tùy theo mức độ vi phạm, Ủy ban chứng khoán nhà nước có thể áp dụng phạt tiền hành chính và phát tín hiệu cảnh báo cho nhà đầu tư Đồng thời, cần quy định rõ ràng về việc các công ty niêm yết có thể xin lùi thời hạn công bố BCTC trong những trường hợp đặc biệt, nhưng phải đảm bảo thời hạn tối đa để bảo đảm tính công bằng và kịp thời cho thông tin của nhà đầu tư.

Cơ quan quản lý có thể công khai danh sách các công ty thường xuyên gặp phải tình trạng bất nhất trong báo cáo tài chính trước và sau kiểm toán, cũng như những công ty lặp lại các lỗi đã từng bị nhắc nhở.

Nhà đầu tư cần nhận thức rõ ràng để tránh rơi vào "bẫy" từ các công ty, đồng thời các công ty cũng nên nâng cao ý thức và cẩn trọng hơn trong việc xây dựng và công bố báo cáo tài chính (BCTC).

Để duy trì kỷ cương cho hoạt động của thị trường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý, tăng cường mức xử phạt và thực thi nghiêm minh trong việc xử lý vi phạm, đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội.

Để nâng cao hiệu quả trong việc tiếp nhận, xử lý và công bố thông tin, Sở giao dịch chứng khoán cần hoàn thiện quy trình này nhằm đảm bảo thông tin đến tay nhà đầu tư một cách đầy đủ và kịp thời Việc áp dụng hệ thống công bố thông tin điện tử là giải pháp tối ưu, trong đó mỗi doanh nghiệp niêm yết sẽ được cấp mã số để gửi báo cáo tài chính cần công bố đến Sở qua Internet Sở giao dịch sẽ tiến hành kiểm tra hình thức của báo cáo tài chính và sau đó gửi đến các công ty chứng khoán thành viên, đồng thời công bố trên website của Sở Hệ thống thông tin điện tử không chỉ đảm bảo tính bảo mật và pháp lý của thông tin mà còn rút ngắn thời gian công bố.

Hành vi quản trị lợi nhuận có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội, không chỉ ảnh hưởng đến công ty mà còn xói mòn lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường Để ngăn chặn tác động tiêu cực này, doanh nghiệp cần cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch, trong khi nhà đầu tư cũng cần tỉnh táo để không để tình hình vượt quá tầm kiểm soát Các nhà quản trị thường làm "méo mó" thông tin kế toán, dẫn đến chất lượng thông tin kém và làm giảm tính trung thực của nó Mặc dù thông tin này có thể hợp pháp theo chuẩn mực kế toán, nhưng việc thổi phồng lợi nhuận hoặc quản trị lợi nhuận thấp hơn thực tế có thể gây ra những tác động khó lường, như đánh lừa nhà đầu tư và làm giảm nguồn thu ngân sách Nhà nước.

1 Khái quát về kết quả:

Trong bối cảnh thị trường hiện nay, ngày càng nhiều công ty muốn niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán, khiến các chỉ tiêu tài chính, đặc biệt là lợi nhuận, trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư Do đó, tính trung thực và chính xác trong báo cáo tài chính được đặt lên hàng đầu Bài nghiên cứu này tập trung vào hành vi quản trị lợi nhuận, các yếu tố ảnh hưởng đến nó, và các giải pháp nhằm hạn chế hành vi này Kết quả nghiên cứu sẽ giúp các nhà đầu tư thận trọng hơn khi phân tích thông tin lợi nhuận, từ đó tăng cường an toàn cho quyết định đầu tư Đồng thời, đây cũng là cơ sở hỗ trợ cho các cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng quy định chặt chẽ hơn về lập báo cáo tài chính cho doanh nghiệp.

2 Hạn chế của đề tài:

Mẫu khảo sát của đề tài chỉ bao gồm 100 công ty niêm yết, điều này vẫn còn tương đối thấp và chưa đủ đại diện cho tổng thể doanh nghiệp và tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam.

Nghiên cứu này chỉ tập trung vào một số nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận, nhưng thực tế có nhiều yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trọng Các yếu tố này bao gồm ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp, và những mâu thuẫn liên quan đến lý thuyết đại diện, cho thấy sự đa dạng trong các yếu tố tác động đến quản trị lợi nhuận.

3 Các hướng nghiên cứu tiếp theo:

Nghiên cứu này chỉ tập trung vào một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận, do đó, các nghiên cứu tiếp theo nên mở rộng để khám phá thêm các nhân tố khác nhằm tạo ra cái nhìn đa chiều hơn Bên cạnh đó, việc mở rộng phạm vi nghiên cứu đến các công ty niêm yết tại Hà Nội và các loại hình doanh nghiệp khác, như công ty cổ phần niêm yết và công ty trách nhiệm hữu hạn, là cần thiết, vì mọi doanh nghiệp đều cần nguồn huy động vốn và tình hình tài chính tốt sẽ hỗ trợ cho mối quan hệ kinh doanh.

Các giải pháp trong đề tài mang tính tổng quát và gợi mở suy nghĩ, nhưng chưa phân tích cụ thể cách tổ chức thực hiện Do đó, cần có các hướng nghiên cứu tiếp theo để phát triển những phương pháp hành động cụ thể hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

Chu Nguyễn Mộng Ngọc và Hoàng Trọng (2008) đã thực hiện phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS, trong khi Đường Nguyễn Hưng (2013) nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận liên quan đến thông tin lợi nhuận được công bố trong báo cáo tài chính.

Lê Hoàng Phúc (2012) Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nguyễn Công Phương (2007) Về tính trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận

Nguyễn Thị Minh Trang (2011) Kỹ thuật điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị

Nguyễn Thị Phương Thảo (2011) đã nghiên cứu ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ suất thuế thu nhập doanh nghiệp đến việc điều chỉnh lợi nhuận của các công ty cổ phần niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh Nghiên cứu này làm rõ mối liên hệ giữa chính sách thuế và hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp, cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách mà các công ty điều chỉnh lợi nhuận để tối ưu hóa thuế Kết quả cho thấy sự thay đổi tỷ suất thuế có tác động đáng kể đến chiến lược tài chính của các công ty niêm yết, từ đó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh hiện nay.

Nguyễn Trí Tri (2013) Những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chi phối thu nhập trên báo cáo tài chính

Phạm Thị Bích Vân (2013): Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH

Ashari, Nasuhiyah, Hian ChyeKoh, Soh Leng Tan, and Wei Har Wong (2005).

“Factors afecting income smoothing among listed companies in Singapore”. Accounting and Business Research

Bainbridge, S.(1993), “Insider trading under the restatement of the law governing lawyers”, Journal of Corporate Law

Balsam, Steven, Jagan Krishnan, and Joon S Yang (2003) Auditor industry specialization and earnings quality

Barton, J., and P Simko (2002) The Balance Sheet as An Earnings Management

Bartov, Eli, Ferdinand A Gul, and Judy S.L.Tsui (2002) The rewards to meeting or beating earnings expectations Journal of Accounting and Economics,

Beasley, M S., J V Carcello, D R Hermanson, and P D Lapides (2000).

Fraudulent Financial Reporting: Consideration of Industry Traits and Corporate Governance Mechanisms.

Becker, C.L., DeFond, M.L., Jiambalvo, J., & Subramanyam, K.R (1998) The effect of audit quality on earnings management Contemporary Accounting Research Vol: 15

Beneish, M.D (2001) Earnings management: A perspective Managerial Finance

Blue Ribbon Committee (BRC) 1999 “Report and Recommendations of the Blue

Ribbon Committee on Improving the Effectiveness of Corporate Audit Committees”, New York Stock Exchange and National Association of

Brickley, James A., Jeffrey L Coles, and Rory L Terry (1994) Outside directors and the adoption of poison pills

Byrd, John W and Kent A Hickman (1992) Do outside directors monitor managers? Evidence from tender offer bids Journal of Financial Economics

Collins, Shackelford và Wahlen (1995): Bank differences in the coordination of regulatory capital, earning and taxes

Craven, Wallace (2001) Earnings management and corporate governance: The roles of the board and the audit committee, Journal of Cor-porate Finance

Dalton, Dan R., Catherine M Daily, JonathanL Johnson, and Alan E Ellstrand.

(1999) Number of directors and financial performance: A meta-analysis.

Academy of Man-agement Journal

Das, Somnath and Pervin K Shroff (2002) Fourth quarter reversals in earnings changes and earnings management.

Davidson, S., Stickney, C., Weil, R (1987) Accounting: The language of business

Dechow, P and D Skinner 2000 ―Earnings Management: Reconciling the Views of Accounting Academics, Practitioners, and Regulators Accounting Horizons

DeFond và Jiambalvo (1994): Debt convent effects and the manipulation of accruals.

Degeorge, Patel & R Zeckhauser (1999), Earning management to exceed thresholds

E DeAngelo, H DeAngelo & D Skinner (1994), Accounting choice in trouble companies

EWERT, R., and A WAGENHOFER (2005) ‘Economic Effects of Tightening

Accounting Standards to Restrict Earnings Management’ The Accounting Review

Fama, E., Jensen, M.(1983), “Separation of Ownership and Control”, Journal of

Fama, Eugene F (1980) Agency problems and the theory of the firm Journal of

Friedlan, John (1994) Accounting choices of issuers ofinitial public offerings.

Gilson, Kraakman (1991) “Bankruptcy, boards, banks, and blockholders:

Evidence on changes in corporate ownership and control when firms default” Journal of Financial Economics

Healy,P.M., and J.M.Wahlen (1999) A review of the earnings management literature and its implications for standard setting Accounting Horizons

Jelinek, K.2007 “The effect of leverage increases on earnings management.”

Journal of Business and Economic Studies

Jeong, S.W & Rho, J (2004) Big Six Auditors and Audit Quality: The Korean

Evidence The International Journal of Accounting.

Jiang, Ayers, Benjamin C., John (Xuefeng), and Eric Yeung (2008) “Discretionary accruals and earnings management: An analysis of pseudo earnings targets” The Accounting Review

Jiraporn P., G A Miller, S S Yoon & Y S Kim (2008) Is earnings management opportunistic or beneficial? An agency theory perspective InternationalReview of Financial Analysis

Johnson, J., Daily, C., Ellstrand, A.(1996), “Boards of Directors: A review and research agenda”, Journal of Management

Kasznick (1999): On the association between voluntary disclosure and earning management.

Kenton, B.(1995), “What is a director’s role?”, Executive Development, Bradford

Kesner, I Johnson (1990), “Directors’ stock ownership and organizational performance: and investigation of fortune 500 companies”, Journal of

Kim, J.R., Chung, R., & Firth, M (2003) “Auditor Conservatism, Asymmetric

Monitoring and Earnings Management” Contemporary Accounting

Klein, April (2002) Economic determinants of audit committee independence.

Krishnan, G.V (2003) “Audit Quality and The Pricing of Discretionary Accruals”.

Lawler E., Finegold, D., Benson, G., Conger, J., (2002) “Corporate Boards: Keys to Effectiveness”, Organizational Dynamics

Levitt,A (1998)."The numbers game." , The CPA Journal

Lorsch, J., MacIver, E.(1989), “Pawns and potentates: The reality of corporate boards” Harvard Business School

McKee, Thomas E., 2005 Earnings management: An executive perspective

McNichols, Maureen F and Peter G Wilson (1988) Evidence of earnings management from the provision for bad debts Journal of Accounting

Menon, Krishnagopal and Joanne Deahl Williams (1994) “The use of audit committees for monitoring” Journal of Accounting and Public Policy

Moyer (1990): Capital adequacy ratio regulation and accouting choices in commercial banks.

Myers, L., and D.J Skinner (1999) Earnings Momentum and Earnings

Palmrose, V.Z (1988) An Analysis of Auditor Litigation and Audit Service

Parfet, W 2000 ―Accounting Subjectivity and Earnings Management: A Preparer

Patton, J Baker (1987) , “The Impact of Firm Ownership Structure on Voluntary

Disclosure: Empirical Evidence fromCzech Annual Reports”, Journal of

Peasnell, P., Pope, P., Young, S.(2000), “Board monitoring and earnings management: Do outside directors influence abnormal accruals?”,

PM Healy & KG Palepu,(1990),‘Effectiveness of accounting‐ based dividend covenants’

Rangan,S (1998) Earnings management and the performance of seasoned equity offerings.

Ronen and Yaari (2008), Earning management, Springer Science+Business Media,

Rosenstein, Stuart and Jeffrey G Wyatt (1990) “Outside directors, board independence and shareholder wealth” Journal of Financial Economics

Saleh, Ahmed, Anwer S., Bruce K Billings, and Richard M Morton (2005).

“Extreme accruals, earnings quality, and investor mispricing”

Schipper K (1989) Commentary on earnings management Accounting Horizons Scott W (1997) Financial Accounting Theory

Siregar, Utama, (2008), “ Type of earning management and effect of ownership structure, firm size, and corporate governance practices: Evidence from Indonesia”, International journal of Accounting

Sundaramurthy, Rhoades, D., Rechner, P., (2000), “Board Composition And

Financial Performance: A Meta-Analysis Of The Influence Of Outside Directors”, Journal of Managerial Issues

Teoh, Wong and Rao (1998): Are accrual during initial public offerings opportunitics?

Tsui, Gul, Ferdinand A., and Judy S.L (2001) Free cash flow, debt monitoring and audit pricing: Further evidence on the role of director equity ownership Auditing: A Journal of Practice and Theory

Van Caneghem (2004), “The impact of audit quality on earnings rounding up bahaviour: some UK evidence” European accouting review

Velury, Jinkins (2006), “Institutional ownership and the quality of earnings”,

S Verbruggen, J Christaens, and K Milis (2008), “Earnings management: a literature review”, HUB RESEARCH PAPER 2008/14 FEBRUARI 2008

Wallace, W., (1980), The Economic Role of the Audit in Free and Regulated

Markets, Touche Ross Teaching Tool.

WATTS, R L.; ZIMMERMAN, J L.(1986) “Positive accounting theory”,

Wei, K.C John and Verela (2003) “Earnings management, corporate investments, and stock returns”

Weisbach, Michael S (1988) Outside directors and CEO turnover Journal of

Westphal, J., Zajac, E.,(1999) “Who shall govern? CEO/Board power, demographic similarity, and new director selection”, Administrative

Wild, J., (1996), The Audit Committee and Earnings Quality, Journal of

Accounting, Auditing and Finance, Spring.

Ngày đăng: 14/10/2022, 11:15

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1- Khảo sát số lượng công ty trong ngành năm 2013 sàn HOSE Mã ngànhSố lượngTỷ lệ - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
Bảng 3.1 Khảo sát số lượng công ty trong ngành năm 2013 sàn HOSE Mã ngànhSố lượngTỷ lệ (Trang 40)
Chọn mô hình 3 để hồi quy theo FEM, ta có kết quả như sau - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
h ọn mô hình 3 để hồi quy theo FEM, ta có kết quả như sau (Trang 46)
Tuy nhiên mơ hình DeAngelo khơng thật sự chính xác nếu các cơng ty này có  xu  hướng  phát  triển - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
uy nhiên mơ hình DeAngelo khơng thật sự chính xác nếu các cơng ty này có xu hướng phát triển (Trang 55)
α1, α2, α3 là những tham số được tính bằng ước lượng OLS của a1, a2, a3 trong mơ hình sau (5): - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
1 α2, α3 là những tham số được tính bằng ước lượng OLS của a1, a2, a3 trong mơ hình sau (5): (Trang 56)
Như vậy, tổng hợp các biến có được, mơ hình nghiên cứu được thực hiện như sau: - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
h ư vậy, tổng hợp các biến có được, mơ hình nghiên cứu được thực hiện như sau: (Trang 60)
Bảng 4.1: Descriptive Statistics (Dependent variable) - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
Bảng 4.1 Descriptive Statistics (Dependent variable) (Trang 61)
Bảng 4.2: Descriptive Statistics - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
Bảng 4.2 Descriptive Statistics (Trang 62)
Bảng 4.3: AUD (biến Quy mơ cơng ty kiểm tốn) - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
Bảng 4.3 AUD (biến Quy mơ cơng ty kiểm tốn) (Trang 63)
Bảng 4.4 Correlation - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
Bảng 4.4 Correlation (Trang 64)
Bảng 4.6: ANOV Ab - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
Bảng 4.6 ANOV Ab (Trang 65)
Về mức độ giải thích của mơ hình trong bảng tóm tắt mơ hình ta nhận thấy R2 hiệu chỉnh là 0.593 - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
m ức độ giải thích của mơ hình trong bảng tóm tắt mơ hình ta nhận thấy R2 hiệu chỉnh là 0.593 (Trang 65)
Bảng 4.7 là bảng tổng hợp về việc phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Dựa vào chỉ số VIF, tất cả biến đều nhỏ hơn 2, chứng tỏ các biến đều không bị đa cộng tuyến, và đều mang được ý nghĩa thống kê. - Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hành vi  trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khóan thành phố hồ chí minh
Bảng 4.7 là bảng tổng hợp về việc phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Dựa vào chỉ số VIF, tất cả biến đều nhỏ hơn 2, chứng tỏ các biến đều không bị đa cộng tuyến, và đều mang được ý nghĩa thống kê (Trang 66)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w