1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Ngành dệt may việt nam trên con đường hội nhập

33 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ngành Dệt May Việt Nam Trên Con Đường Hội Nhập
Người hướng dẫn Th.S. Mai Xuân Được
Thể loại luận văn tốt nghiệp
Định dạng
Số trang 33
Dung lượng 513,75 KB

Cấu trúc

  • I. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam (1)
    • 1.1. Thị trường dệt may (2)
    • 1.2. Thiết bị công nghệ ngành Dệt may (6)
    • 1.3. Nguyên liệu cho ngành Dệt may (6)
    • 1.4. Mặt hàng Dệt may (7)
    • 1.5. Lao động ngành Dệt may (10)
  • II. Định hướng phát triển công nghiệp Dệt may Việt Nam (11)
    • 2.1. Quan điểm phát triển (11)
      • 2.1.1. Một số quan điểm phát triển ngành dệt may (11)
      • 2.1.2. Một vài chính sách của Đảng và Nhà nước đối với ngành Dệt may (14)
    • 2.2. Định hướng phát triển ngành Dệt may (16)
      • 2.2.1. Giải pháp về thị trường (16)
      • 2.2.2. Giải pháp về cơ cấu sử dụng (21)
      • 2.2.3. Giải pháp về thiết bị công nghệ (22)
      • 2.2.4. Giải pháp về lao động (28)
  • Kết luận (31)

Nội dung

Thực trạng ngành dệt may Việt Nam

Thị trường dệt may

Trong hơn 10 năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng ấn tượng trong xuất khẩu với tốc độ bình quân 23.8% mỗi năm, vươn lên vị trí thứ hai toàn quốc về kim ngạch xuất khẩu, chỉ sau ngành dầu khí Từ chỗ chỉ có mặt ở gần 30 quốc gia vào năm 1990, hiện nay hàng dệt may Việt Nam đã có mặt trên hầu hết các châu lục.

100 nước và vùng lãnh thổ Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng Năm

1998 xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,45 tỷ USD, tới năm 1999 đã tăng lên 1,76 tỷ USD và năm 2000 xuất gần 1,89 tỷ USD, gấp 16 lần so với năm 1990 Năm

2002 kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 2,7 tỷ USD, tăng 30,7% so với năm

Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đã vượt kế hoạch 12,5%, trong khi năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, vượt hơn 400 triệu USD so với mục tiêu đề ra Sự tăng trưởng này không chỉ giúp tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng 20%, mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển xuất khẩu trong những năm tiếp theo.

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các năm Đơn vị : triệu USD

Thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may nước ta hiện nay là Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU

Hàng dệt may chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU

Kể từ năm 1993, EU đã áp dụng điều kiện xuất khẩu hàng dệt cho Việt Nam, với các đợt điều chỉnh tăng hạn ngạch hàng năm Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng từ năm 1991 đến nay, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may trong nước.

2001 tăng lên 21 lần Tăng trưởng liên tục hàng năm: năm thấp nhất (1993) cũng tăng 5,3%, các năm cao đạt 77,6% (1994 và 1997), 87,6% (1995)

EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về hàng may mặc, chiếm 40% tổng xuất khẩu của ngành này Hàng năm, EU cấp hạn ngạch cho Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng trung bình trên 38% Hiệp định xuất khẩu may mặc giữa EU và Việt Nam được ký kết cho giai đoạn 1998-2000, ghi nhận mức tăng 31% so với giai đoạn 1992-1997 Việt Nam cũng tận dụng hạn ngạch mà EU cấp cho các nước như Singapore, Indonesia và Philippines.

Năm 2002, EU đã tăng hạn ngạch cho Việt Nam với 16 mã hàng may mặc xuất khẩu, giúp tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam giữ mức 15-16% trong tổng kim ngạch xuất khẩu Xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam đạt 700 triệu USD vào năm 1999, với các thị trường nhập khẩu lớn như Đức, Pháp, Hà Lan và Anh Nhiều quốc gia, bao gồm Đức và Pháp, đã chọn Việt Nam làm nơi gia công may mặc.

Kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU Đơn vị: triệu USD

Nhật Bản là một thị trường lớn cho các nhà xuất khẩu hàng may mặc, đứng thứ hai thế giới về nhập khẩu với 126,9 triệu dân và thu nhập bình quân 30.039 USD/người Tuy nhiên, thói quen mua sắm của người Nhật khác biệt so với Mỹ và EU, họ chịu ảnh hưởng mạnh từ các phương tiện truyền thông như tạp chí và phim ảnh Sự xuất hiện của mẫu mốt mới ở các thành phố thời trang như New York, Milan, Paris hay Tokyo thường nhanh chóng thay đổi sở thích tiêu dùng Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu đáp ứng được yêu cầu về giá cả và chất lượng, nhưng còn hạn chế về kiểu dáng do ngành thiết kế thời trang trong nước chưa phát triển, và nhãn mác của sản phẩm vẫn chưa được người tiêu dùng Nhật Bản biết đến rộng rãi.

Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản Đơn vị : triệu USD

Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, hiện Việt Nam đứng thứ 4 trong các quốc gia xuất khẩu hàng may mặc sang Nhật Bản Các sản phẩm chủ yếu được xuất khẩu bao gồm jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi, quần áo lót và quần áo dệt kim.

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đạt đỉnh cao nhất vào năm 2000 với 620 triệu USD, nhưng đã giảm 5% xuống còn 592 triệu USD vào năm 2001 Đến năm 2002, con số này tiếp tục sụt giảm, đạt dưới 500 triệu USD, giảm 20% so với năm 2001 Nguyên nhân chủ yếu là do sức ép cạnh tranh từ hàng Trung Quốc, nổi bật với chất lượng, mẫu mã đa dạng và giá cả cạnh tranh.

Từ năm 1992 đến 2002, Việt Nam chiếm gần 90% thị phần hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản, với doanh thu tăng trưởng mạnh mẽ Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ chú trọng thay đổi mẫu mã sản phẩm khi sản phẩm đã bước vào giai đoạn thoái trào, dẫn đến hàng hóa không còn sức bán Đáng chú ý, xuất khẩu trong năm qua đã giảm 1,8% so với năm 2002, cho thấy cần có sự cải thiện trong chiến lược kinh doanh.

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ: năm

1998 đạt 26.4 triệu USD, năm 1999 đạt 48 triệu USD, năm 2000 đạt 60 triệu USD, năm 2001 đạt 49 triệu USD

Năm 2001, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết hiệp định thương mại, đánh dấu sự khôi phục quan hệ thương mại giữa hai nước Đây là cơ hội lớn cho ngành may mặc Việt Nam, khi Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới Thêm vào đó, trong giai đoạn đầu, Mỹ không áp dụng quota và mức thuế sẽ giảm từ 40% xuống 20% sau khi hiệp định có hiệu lực.

Sau một năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, hàng dệt may đã vươn lên vị trí thứ hai trong bảng xếp hạng xuất khẩu vào Hoa Kỳ, với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,9 tỷ USD Sự đa dạng của các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ cũng gia tăng, từ 17 chủng loại vào tháng 1 năm 2001 lên 42 chủng loại vào tháng 7 năm 2002 Tỷ trọng hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng từ 4,7% năm 2001 lên 24,2% vào tháng 7 năm 2002, chỉ đứng sau nhóm hàng hải sản và vượt qua các nhóm hàng truyền thống như khoáng sản và giày dép Mặc dù có sự đa dạng hóa, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu vẫn tập trung vào các loại quần áo dệt kim và dệt thoi.

Thiết bị công nghệ ngành Dệt may

Ngành dệt may Việt Nam hiện đang đối mặt với tình trạng thiết bị công nghệ lạc hậu và thiếu tính đồng bộ, dẫn đến sản phẩm không có khả năng cạnh tranh Theo đánh giá của chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam chỉ đạt trình độ 2/7 trong lĩnh vực dệt may toàn cầu, với máy móc thiết bị lạc hậu từ 3 đến 3 thế hệ Điều này đã hạn chế đáng kể năng lực sản xuất của ngành dệt may trong nước.

Ngành Dệt hiện đang đối mặt với thách thức do phần lớn máy móc thiết bị cũ kỹ và lạc hậu, với gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm, dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm thấp Mặc dù các doanh nghiệp đã đầu tư vốn tự có và vay trung, dài hạn để nâng cấp công nghệ và đa dạng hóa sản phẩm, nhưng trình độ kỹ thuật của ngành vẫn chưa theo kịp khu vực và thế giới Hàng ngàn máy dệt mới đã được nhập khẩu và nhiều thiết bị hiện đại đã được trang bị, nhưng vẫn cần nhiều nỗ lực hơn để cải thiện tình hình.

Trong 5 năm gần đây , toàn ngành đã tranh bị thêm được gần 20.000 máy may hiện đại các loại để sản xuất các mặt hàng sơ mi, jacket, đồ bảo hộ lao động, áo phông các loại… cải thiện một bước chất lượng hàng may xuất khẩu và nội địa Ngành may liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng yêu cầu chất lượng của thị trường thế giới.Các máy may được sử dụng hiện nay phần lớn là hiện đại, có tốc độ cao(4.000-5.000 vòng/phút), có bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp Một số doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền đồng bộ, sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất một mặt hàng như đây chuyền may sư mi của May 10, đây chuyền may quần đứng có thao tác bộ phận tự động theo chương trình, đây chuyền sản xuất quần Jean có hệ thống máy giặt mài.

Nguyên liệu cho ngành Dệt may

Sản xuất nguyên liệu bông trong nước đang gặp nhiều khó khăn, khi Việt Nam chỉ đáp ứng được 5% nhu cầu của ngành dệt với hơn 3.000 tấn bông/năm Ngành dệt hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu sợi tổng hợp và sợi bông cho sản xuất hàng dệt kim Mặc dù ngành hóa chất phát triển, nhưng 100% hóa chất nhuộm và hơn 80% hóa chất khác vẫn phải nhập khẩu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguyên liệu Đến nay, 95% nguyên liệu bông phải nhập khẩu với giá cả không ổn định, khiến các doanh nghiệp dệt phải mua theo kiểu mớ món, tạo ra sự bất lợi trong sản xuất Nguyên liệu trong nước có chất lượng thấp, không đồng bộ và không đáp ứng đủ nhu cầu, dẫn đến sản phẩm dệt thường không đạt tiêu chuẩn và mang tính chất đơn điệu Hơn 80% vải trong nước phải nhập khẩu, và ngay cả các doanh nghiệp may thuộc Tổng công ty Dệt may cũng không sử dụng vải nội địa, với 90% nguyên vật liệu để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu phải nhập từ nước ngoài Điều này làm giảm hiệu quả xuất khẩu của ngành may, mặc dù giá trị xuất khẩu lớn.

Mặt hàng Dệt may

Trong quá khứ, sản phẩm sợi chủ yếu là sợi bông chải thô, phục vụ cho thị trường nội địa và sản xuất các mặt hàng phổ thông như vải bạt quân dụng và vải bảo hộ lao động Gần đây, ngành sợi đã phát triển với sự đa dạng và phong phú hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần vào xuất khẩu và tiêu thụ nội địa Tuy nhiên, tỷ lệ sản lượng có hiệu quả vẫn thấp, gây khó khăn trong việc phục hồi vốn đầu tư và kéo dài thời gian trả nợ Hơn nữa, công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm chưa được khuyến khích, thiếu chủ động trong việc tìm kiếm thị trường mới, dẫn đến việc ngành May vẫn phải nhập khẩu hàng hóa để tái xuất và chưa hình thành mối liên kết vững chắc giữa ngành Dệt và May trên thị trường nội địa.

Ngành May Việt Nam nổi bật với sự đa dạng và phong phú trong sản phẩm, kết hợp giữa tính thời trang quốc tế và bản sắc dân tộc Khi kinh tế phát triển và đời sống người dân được nâng cao, nhu cầu về hàng may mặc ngày càng tăng về cả chất lượng và sự phong phú Ngoài những sản phẩm truyền thống, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tiếp cận công nghệ may hiện đại thông qua gia công cho các nước, từ đó mở rộng danh mục sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

-nhóm mặt hàng mặc thương ngày: sơ mi, quần âu,áo váy…

-Nhóm quần áo thể thao: quần áo vải thun, quần áo Jean

-Nhóm thời trang hiện đại -Nhóm trang phục đặc biệt: Quân đội, Nội vụ, bảo hộ lao động cho các loại ngành nghề

Các doanh nghiệp may mặc đang thực hiện đơn hàng cho thị trường nước ngoài và trong nước với chất lượng sản phẩm cao nhờ tay nghề khéo léo Tuy nhiên, do thiếu máy móc hiện đại và phải thực hiện nhiều thao tác thủ công, năng suất sản xuất vẫn còn thấp so với các quốc gia khác.

Một số mặt hàng như áo da….do chưa co máy chuyên dùng nên còn bị hạn chế trong sản xuất.

Lao động ngành Dệt may

Ngành dệt may thu hút hơn 500.000 lao động, giúp giải quyết vấn đề việc làm cho người dân Mặc dù lao động Việt Nam có tay nghề khéo léo và khả năng tiếp thu nhanh, nhưng do thiếu đào tạo bài bản, trình độ vẫn còn hạn chế Điều kiện làm việc chuyên môn hóa cao dẫn đến cường độ làm việc căng thẳng, trong khi mức lương thấp và chênh lệch lớn giữa các doanh nghiệp gây ra sự biến động lớn trong lực lượng lao động Các công ty sản xuất phát triển, có đủ việc làm và thu nhập cao thường giữ chân công nhân tốt hơn, trong khi những doanh nghiệp kém hiệu quả dễ gặp tình trạng công nhân rời bỏ để tìm kiếm cơ hội tốt hơn.

Ngành dệt may đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động quản lý và kỹ thuật, đặc biệt là các cán bộ quản lý chủ chốt thường chỉ có trình độ đại học hoặc cao đẳng nhưng lại yếu kém trong quản lý công nghiệp và tiếp cận phương thức quản lý hiện đại Cán bộ kỹ thuật chủ yếu xuất phát từ công nhân bậc cao, do đó họ chỉ giỏi về chuyên môn sản phẩm cụ thể, trong khi khả năng sáng tạo mẫu mã và thiết kế sản phẩm còn hạn chế Các doanh nghiệp cần tuyển dụng kỹ sư có bằng cấp, công nhân kỹ thuật và nhà quản lý có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại Mặc dù nhiều doanh nghiệp đã đầu tư lớn vào thiết bị và công nghệ tiên tiến để sản xuất hàng cao cấp, nhưng trình độ chuyên môn của người vận hành lại không đáp ứng yêu cầu.

Tăng trưởng nhanh của ngành Dệt may đang gặp khó khăn do sự giảm sút trong đào tạo cán bộ kỹ thuật và quản lý, dẫn đến tình trạng thiếu hụt công nhân lành nghề và cán bộ khoa học.

Định hướng phát triển công nghiệp Dệt may Việt Nam

Quan điểm phát triển

2.1.1 một số quan điểm phát triển ngành dệt may

2.1.1.1 Công nghiệp dệt may phải được ưu tiên phát triển và phải được coi là ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta trong những năm tiếp theo

Trong 4 năm qua ,kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đều tăng và đã vươn lên hàng thứ hai trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước Mặt khác, ngành công nghiệp dệt may là ngang thu hút nhiều lao động, vốn đầu tư không lớn và đang trong xu hướng chuyển dịch từ các nước Đông á và các nước Đông Nam á Nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào và lành nghề nên có thể coi đây là một lĩnh vực lớn có khả năng phát triển nhất Đồng thời với dân số là hơn 80 triệu thị trường trong nước có tiềm năng to lớn tiêu thụ các mặt hàng tiêu dùng trong đó có hàng Dệt may

2.1.1.2 Phát triển công nghiệp Dệt may theo hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm

Công nghệ hiện đại đóng vai trò quyết định trong sự phồn vinh của quốc gia và sức mạnh cạnh tranh kinh tế quốc tế Để thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, cần tăng cường năng lực công nghệ quốc gia và tiếp cận công nghệ tiên tiến Do đó, ngành công nghiệp dệt may cần được phát triển theo hướng hiện đại hóa và đa dạng hóa sản phẩm.

Trong thời gian tới, sự phát triển kinh tế của cả nước sẽ dẫn đến nhu cầu hàng tiêu dùng tăng lên, không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng và mẫu mã Khi thu nhập tăng, tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm, trong khi tỷ lệ tiêu dùng hàng hóa sẽ tăng nhanh chóng Sự gia tăng dân số và thu nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng dệt may Để tiếp cận thành công các thị trường quốc tế mới, ngành dệt may cần được hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của thị trường trong và ngoài nước.

Ngành dệt may cần lập kế hoạch hiện đại hóa từng bước, kết hợp giữa thay thế và nâng cấp công nghệ Việc nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới là yếu tố quan trọng để giảm thiểu khoảng cách tụt hậu và nâng cao hiệu quả sản xuất.

2.1.1.3 Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu với thay thể nhập khẩu

Hướng mạnh vào xuất khẩu và hiệu quả trong việc thay thế nhập khẩu là kinh nghiệm quý báu của nhiều nước công nghiệp mới (NIC), điều này cũng được xác nhận tại Việt Nam Đây là một chiến lược cơ bản trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phù hợp với điều kiện của thế giới hiện nay.

Ngành dệt may đã đạt được nhiều thành công nhờ chiến lược xuất khẩu hiệu quả trong những năm qua Kinh nghạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng, mang lại nguồn ngoại tệ dồi dào cho ngành Điều này tạo điều kiện cho việc tái đầu tư, hiện đại hóa và mở rộng sản xuất, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Để thúc đẩy xuất khẩu hiệu quả, ngành dệt may cần phát triển sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu Với dân số đông và sức mua ngày càng tăng, thị trường trong nước là một đối tượng quan trọng mà ngành này phải đáp ứng, từ các sản phẩm bình dân cho người lao động đến những mặt hàng cao cấp phục vụ cho khách hàng có thu nhập cao.

Hiện nay, sản phẩm dệt may trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng nhập khẩu, chủ yếu là về giá cả Mặc dù chất lượng của sản phẩm nội địa tốt hơn, nhưng giá thành cao khiến sản phẩm nhập khẩu chiếm ưu thế trên thị trường nông thôn Điều này tạo ra áp lực lớn buộc các nhà sản xuất phải tìm cách tiết kiệm chi phí và giảm giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh hiệu quả hơn.

2.1.1.4 Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng đa dạng hoá sở hữu và tập trung vào các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ

Xây dựng nền kinh tế đa thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chiến lược phát triển kinh tế của Đảng Sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế là cần thiết để tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển Trong ngành dệt may, mặc dù đã có những mô hình quy mô lớn, nhưng hiệu quả không cao Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chứng minh là những mô hình hoạt động hiệu quả qua nhiều lần đổi mới quản lý và thực tiễn hoạt động.

2.1.1.5 Phát triển công nghiệp dệt may phải gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần thúc đâỷ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở nước ta

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế, với ưu tiên hàng đầu là công nghiệp hoá nông thôn.

Ngành dệt may, với nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nông nghiệp như bông và tơ tằm, cần xác định chiến lược phát triển gắn liền với sự phát triển của ngành nông nghiệp Việc này không chỉ đảm bảo nguồn cung bền vững mà còn thúc đẩy sự phát triển đồng bộ giữa hai lĩnh vực, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển kinh tế.

Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu, khi hầu hết các loại nguyên liệu đều phải nhập khẩu Mặc dù bông xơ có thể tự cung cấp một phần, nhưng nguồn tơ tằm sản xuất trong nước lại hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, dẫn đến giá trị xuất khẩu thấp Để phát triển ổn định và bền vững, ngành dệt may cần xây dựng một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn định.

2.1.2 Một vài chính sách của đảng và nhà nước đối với ngành dệt may 2.1.2.1Chính sách về bảo hộ hàng sản xuất trong nước

Do thiết bị cũ và công nghệ lạc hậu, sản phẩm dệt may trong nước chỉ đạt chất lượng trung bình, không đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng Trong khi đó, các nước khác với máy móc hiện đại đã sản xuất nhiều loại vải đẹp và chất lượng cao, sẵn sàng xâm nhập vào thị trường Việt Nam Đứng trước áp lực từ hàng ngoại nhập có thể đe dọa ngành dệt may nội địa, Nhà nước đã có chủ trương bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước.

Chính sách bảo vệ hàng dệt may nội địa được thực hiện qua các biện pháp chính sau đây:

- Lập hàng rào thuế quan đối với hàng ngoại nhập

- Sử dụng hạn ngạch để hạn chế số lượng

- Tăng cường các biện pháp quản lý thị trường nhằm hạn chế đến mức tối thiểu hàng nhập lậu qua biên giới trên bộ và trên biển

Định hướng phát triển ngành Dệt may

2.2.1 Giải pháp về thị trường 2.2.1.1 Nghiên cứu thị trường

Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt trong ngành may mặc Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, việc nghiên cứu và tìm hiểu thị trường tiêu thụ một cách chu đáo là điều cần thiết.

Nghiên cứu thị trường trong ngành Dệt – May yêu cầu nắm vững thông tin về nhu cầu và khả năng tiêu thụ sản phẩm, cũng như các điều kiện xâm nhập thị trường Cần củng cố và mở rộng thị trường truyền thống như Khối Đông Âu và Nga, đồng thời tìm kiếm cơ hội thâm nhập vào các thị trường tiềm năng mới như Nhật Bản, Mỹ và các nước Châu Á Để tăng tỷ trọng xuất khẩu, cần tập trung vào các thị trường trọng điểm như EU và Nhật Bản.

Quá trình tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào một hệ thống hoàn hảo từ công nghệ sản xuất đến tiếp thị và quảng cáo, giúp doanh nghiệp gia tăng doanh thu và lợi nhuận Đặc biệt trong ngành Dệt – May, việc xây dựng chính sách sản phẩm phù hợp với từng thời kỳ và thị trường là rất quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ, tăng kim ngạch xuất khẩu, và chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như quốc tế.

Chính sách sản phẩm hàng Dệt – May cần đảm bảo phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và khả năng của từng thị trường Từ khâu sản xuất, sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn chất lượng tương ứng với từng thị trường, với loại vải và quần áo phù hợp với hoàn cảnh và thời gian sử dụng Các doanh nghiệp cần nắm rõ sở thích của thị trường trong nước và quốc tế để đáp ứng nhu cầu về mẫu mã Do đó, việc thiết lập một bộ phận nghiên cứu mẫu mã hàng Dệt – May là cần thiết Mặc dù nghiên cứu mẫu hàng ở Việt Nam mới chỉ bắt đầu, nhưng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tạo mẫu cho ngành Dệt – May.

Một hướng phát triển hiệu quả cho nghiên cứu tạo mẫu hàng Dệt – May là thành lập các trung tâm nghiên cứu thời trang trong doanh nghiệp Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu xã hội về thông tin thời trang mà còn hỗ trợ nhu cầu tiêu dùng sản phẩm Dệt – May trong tương lai, từ đó mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Việt Nam với khoảng 75 triệu dân có nhu cầu tiêu thụ lớn, nhưng thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 250 USD/năm, tạo ra sự chênh lệch giữa thành phố và nông thôn Người dân thành phố có nhu cầu cao về hàng dệt may, thường mua sắm quần áo hàng tháng, đặc biệt vào dịp lễ Tết, trong khi người dân nông thôn có nhu cầu thấp hơn nhưng vẫn ưa chuộng hàng dệt may giá rẻ Điều này lý giải tại sao hàng may mặc Trung Quốc, với mẫu mã đẹp và giá rẻ, tràn ngập thị trường Việt Nam Ngược lại, hàng dệt may Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường khó tính như EU và Nhật Bản, nơi yêu cầu chất lượng cao Nếu sản phẩm bị lỗi và phải bán trên thị trường nội địa, chỉ một bộ phận nhỏ có thu nhập cao mới có khả năng mua, dẫn đến khó khăn trong tiêu thụ, phản ánh hạn chế của nền kinh tế hướng về xuất khẩu.

Nhiều doanh nghiệp hiện nay tập trung vào sản xuất hàng xuất khẩu, bỏ qua thị trường nội địa, dẫn đến tình trạng lỗ do cơ sở vật chất lạc hậu và tỷ lệ sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thấp Các sản phẩm may mặc cao cấp thường chỉ phục vụ cho khách hàng nước ngoài, trong khi thị trường nội địa bị bỏ quên, khiến uy tín doanh nghiệp giảm sút Việc nghiên cứu thị trường còn yếu, không có chiến lược phát triển sản phẩm và thiết kế mẫu mới đã làm cho doanh nghiệp không chủ động trong sản xuất hàng cao cấp cho thị trường nội địa Thêm vào đó, bộ máy quản lý đôi khi còn quan liêu, khiến doanh nghiệp chỉ tập trung vào đơn hàng lớn từ khách hàng nước ngoài Thời gian chu kỳ sống sản phẩm dệt may ngắn, nhưng ở các khu vực nông thôn và miền núi, chu kỳ này dài hơn, do đó cần phát triển mạnh mẽ thị trường cấp thấp và trung bình ở những khu vực này Để duy trì và mở rộng thị trường nội địa, doanh nghiệp cần chú trọng nghiên cứu thị trường, chính sách sản phẩm và tổ chức các kênh tiêu thụ thành mạng lưới rộng khắp, bao gồm các trung tâm chuyên buôn bán hàng dệt may, phân phối sản phẩm đến mọi vùng trên cả nước.

Để tăng cường sản xuất và xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đàm phán nâng hạn ngạch cho các thị trường có hạn chế, đồng thời tìm kiếm cơ hội tại các thị trường phi hạn ngạch và mới Việc nghiên cứu tập quán và thông lệ thương mại là cần thiết để mở rộng hoạt động buôn bán Quan trọng hơn, doanh nghiệp cần chuyển đổi hình thức sản xuất và tiêu thụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu, tận dụng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm Chính sách sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt - May hiện tại và trong tương lai gần theo phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm được coi là định hướng phát triển đúng đắn cho ngành Dệt - May.

Hiện tượng giảm giá gia công trong ngành Dệt - May đã kéo dài nhiều năm và có thể tiếp tục trong tương lai, buộc ngành này phải tìm giải pháp kịp thời Các nhà hoạch định đã nhận định rằng việc gia công cho nước ngoài khó có thể tăng thu nhập và có nguy cơ giảm dần, thiếu nguồn tích lũy để đầu tư phát triển sản xuất trong nước Để mang lại lợi ích cho ngành và người lao động, cần chuyển hướng sang sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh cho xuất khẩu và thị trường nội địa Những người sản xuất nhận thấy thời kỳ hoàng kim của gia công đang dần kết thúc, và hầu hết doanh nghiệp năng động trong nước đều mong muốn xuất khẩu theo điều kiện FOB.

Trong ngành dệt – may, việc không tự cung ứng kịp thời nguyên liệu cho các mặt hàng trung và cao cấp sẽ dẫn đến mất ưu thế cạnh tranh so với những quốc gia có khả năng cung cấp nguyên liệu tại chỗ Điều này là một yếu điểm lớn, khiến ngành dệt – may dễ bị ép giá gia công thấp hơn so với các nước khác trong những năm gần đây.

Trong lĩnh vực thanh toán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp dệt may nên áp dụng các phương thức linh hoạt và có lợi cho cả hai bên Các nhà xuất khẩu cần đảm bảo thanh toán đúng hạn và thiết lập các phương thức hợp lý, thậm chí có thể ứng vốn trước nếu đối tác gặp khó khăn tài chính Việc đơn giản hóa thủ tục thanh toán sẽ giúp các nhà sản xuất chuẩn bị hàng xuất khẩu kịp thời, thực hiện đúng hợp đồng và xây dựng uy tín với khách hàng, đồng thời duy trì nguồn cung ứng ổn định.

2.2.2 Giải pháp về cơ cấu sở hữu Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần,vận hành trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước của Đảng ta trong thời gian vừa qua đã huy động được tiềm lực to lớn trong dân vào đầutư phát triển Điều đó được thể hiện rất rõ ở số doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân và các cơ sở tiểu thủ công nghiệp và rất nhiều các liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài

Sự đa dạng hóa trong loại hình sở hữu đã giúp đáp ứng nhu cầu phong phú về hàng dệt may của người dân trên toàn quốc, bao gồm cả các nhu cầu đặc thù như vải thổ cẩm cho các dân tộc thiểu số và vải lễ hội, nhờ vào sự đóng góp của các tổ chức quy mô nhỏ.

Trong bối cảnh phát triển hiện nay, các doanh nghiệp Dệt - May cần được tổ chức theo mô hình nhỏ và vừa, đồng thời thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước để tăng cường khả năng huy động vốn từ cộng đồng Việc cổ phần hóa cần đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giá trị tài sản của doanh nghiệp được giao cho công nhân quản lý dưới dạng cổ phần cho vay Điều này sẽ gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp, từ đó khuyến khích họ cống hiến hơn cho tổ chức.

Cổ phần hóa các doanh nghiệp Dệt – May đang gặp khó khăn do hiệu quả hoạt động chưa cao Để cải thiện tình hình, cần thực hiện cổ phần hóa từng bước, bắt đầu từ các doanh nghiệp May rồi đến các doanh nghiệp Dệt quy mô nhỏ Cần hạn chế việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước, ngoại trừ các lĩnh vực kéo sợi hoặc nhuộm, hoàn tất, vì các công đoạn này sẽ hiệu quả hơn khi tổ chức sản xuất ở quy mô trung bình hoặc lớn Đồng thời, cần tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển các doanh nghiệp Dệt – May quy mô nhỏ.

Ngày đăng: 11/10/2022, 14:52

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w