1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Nâng Cao Vị Thế Của Ngành Dệt May Việt Nam Trong Chuỗi Giá Trị Dệt May Toàn Cầu

63 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nâng Cao Vị Thế Của Ngành Dệt May Việt Nam Trong Chuỗi Giá Trị Dệt May Toàn Cầu
Tác giả Đặng Thị Tuyết Nhung
Người hướng dẫn TS. Đinh Công Khải
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Chính Sách Công
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2011
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 63
Dung lượng 1,19 MB

Cấu trúc

  • LỜI CẢM ƠN

  • LỜI CAM ĐOAN

  • TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC HÌNH

  • DANH MỤC BẢNG

  • CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

    • 1.1. Bối cảnh nghiên cứu

    • 1.2. Mục đích nghiên cứu

    • 1.3. Câu hỏi nghiên cứu

    • 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 1.5. Phương pháp nghiên cứu

    • 1.6. Bố cục của luận văn

  • CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC

    • 2.1. Cơ sở lý thuyết

    • 2.2. Các nghiên cứu trƣớc

  • CHƯƠNG 3. VỊ TRÍ CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT MAY TOÀN CẦU

    • 3.1. Đặc điểm và vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2010

    • 3.2. Định vị vị trí ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

  • CHƯƠNG 4. GỢI Ý VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

    • 4.1.Chuyển dần hoạt động sản xuất từ phƣơng thức CMT sang FOB, ODM

    • 4.2.Nâng cấp chuỗi giá trị dệt may Việt Nam theo hƣớng phát triển khâu cung ứng nguyên phụ liệu dệt may

    • 4.3. Xây dựng cụm ngành công nghiệp về dệt may

  • CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Phụ lục 1. Xuất nhập khẩu Việt Nam, 2000-2009, ĐVT: triệu USD

  • Phụ lục 2. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, 2000-2009

  • Phụ lục 3. Thị trƣờng và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 2010

  • Phụ lục 4. Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm

  • Phụ lục 5. Các phƣơng thức xuất khẩu hàng dệt may28

  • Phụ lục 6. Thông tin phỏng vấn các các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong ngành Dệt May Việt Nam

  • Phụ lục 7. Số liệu nhập khẩu bông và xơ năm 2010

  • Phụ lục 8. Tình hình sản xuất bông nƣớc ta từ niên vụ 2001/2002 đến niên vụ 2010/1011

  • Phụ lục 9. Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt-may trong giai đoạn 2005-2020

  • Phụ lục 10. Số doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam

  • Phụ lục 11. Mô hình cụm ngành dệt may ở Quảng Đông Trung Quốc

  • Phụ lục 12. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam theo mặt hàng 2009

  • Phụ lục 13. Những thay đổi quan trọng trên thị trƣờng dệt may thế giới

  • Phụ lục 14. Dự báo kế hoạch sản xuất của ngành Dệt May Việt Nam đến 2020

Nội dung

GIỚI THIỆU

Bối cảnh nghiên cứu

Nhập siêu đang trở thành thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, với tình trạng này kéo dài và ngày càng nghiêm trọng từ năm 2000, đặc biệt từ năm 2007, khi nhập siêu luôn ở mức trên 14.000 triệu USD, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2005 Điều này gây áp lực lên đồng nội tệ và tạo ra bất ổn vĩ mô Mặc dù Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách để giảm nhập siêu và nâng cao năng lực cạnh tranh, cần có thêm giải pháp thúc đẩy sản xuất trong nước để xây dựng nền công nghiệp nội địa mạnh Cần nghiên cứu từng ngành hàng xuất khẩu để đưa ra giải pháp nâng cao giá trị gia tăng và năng lực sản xuất Tác giả đã chọn ngành dệt may, một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, làm đối tượng nghiên cứu.

Ngành dệt may Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ từ năm 1990, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế quốc gia Tính đến năm 2010, giá trị xuất khẩu dệt may đạt 11,2 tỷ đô la, chiếm hơn 16% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước Các thị trường xuất khẩu chủ yếu bao gồm Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, với thị phần toàn cầu tăng từ 1,7% lên 2,5% trong giai đoạn 2005-2008, đưa Việt Nam vào nhóm 5 quốc gia có quy mô xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới Ngành này hiện sử dụng hơn 3 triệu lao động, trong đó hơn 1,3 triệu lao động công nghiệp, chiếm hơn 10% tổng số lao động công nghiệp cả nước, khẳng định vị thế quan trọng của dệt may trong phát triển kinh tế.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đã tăng trưởng mạnh mẽ từ năm 2000 đến nay, hiệu quả xuất khẩu của ngành này vẫn còn ở mức thấp.

Đặng Tiến (2011) đã đề cập đến các cách đột phá cần thiết để Việt Nam trở thành mũi nhọn kinh tế trong ngành dệt may Bài viết đăng trên Cổng giao tiếp điện tử hiệp hội dệt may Việt Nam, cung cấp những phân tích và ý tưởng quan trọng về sự phát triển bền vững của ngành này Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào địa chỉ: http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Cach-dot-pha-nao-de-tro-thanh-mui-nhon-kinh-te/31858.

Theo Vũ Đức Giang (2011), Chủ tịch VITAS, báo cáo của Hiệp hội dệt may Việt Nam cho biết, trong giai đoạn 2007-2010, tỷ lệ xuất khẩu hàng may mặc theo phương thức gia công CMT chiếm 60%, trong khi xuất khẩu theo phương thức FOB chỉ khoảng 38% và ODM chỉ 2% Điều này dẫn đến giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may xuất khẩu còn thấp, chỉ khoảng 25% so với kim ngạch xuất khẩu, với tỷ suất lợi nhuận chỉ từ 5-10% Hơn nữa, ngành dệt may phải nhập khẩu từ 70-80% nguyên phụ liệu.

Chi phí đầu vào tăng cao đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi thế cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam Sự gia tăng giá xăng, điện tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống người lao động, trong khi tình trạng thiếu điện và cắt điện thường xuyên làm gián đoạn kế hoạch sản xuất Giá bông, vải và nguyên phụ liệu dệt may cũng tăng mạnh, gây khó khăn cho các doanh nghiệp do không thể chủ động nguồn cung Bên cạnh đó, những bất ổn kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lạm phát và lãi suất cao đã tạo ra nhiều trở ngại cho ngành dệt may Việt Nam.

Người mua trên toàn cầu ngày càng yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và thời gian giao hàng Xu hướng mua sắm của các nhà nhập khẩu lớn tại Mỹ, Nhật Bản và châu Âu đang thay đổi, họ ưu tiên lựa chọn doanh nghiệp có khả năng sản xuất trọn gói, từ kéo sợi, dệt vải cho đến cắt, may sản phẩm cuối.

Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với áp lực phải thay đổi để tồn tại và phát triển, với việc thâm nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu là rất quan trọng nhằm nâng cao sức cạnh tranh và giá trị xuất khẩu Để đạt được điều này, cần xác định vị trí hiện tại của ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu và tìm ra các điều kiện cần thiết để chuyển dịch đến các mắt xích có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó nâng cao giá trị và vị thế của ngành dệt may trong bối cảnh toàn cầu.

CMT là phương thức xuất khẩu may mặc đơn giản nhất, chỉ yêu cầu gia công theo mẫu thiết kế và nguyên liệu do khách hàng cung cấp Để biết thêm thông tin chi tiết về các phương thức xuất khẩu hàng may mặc, vui lòng tham khảo phụ lục 5.

4 FOB là hình thức xuất khẩu bậc cao hơn CMT, các nhà sản xuất tự chủ động phần nguyên liệu đầu vào

5 ODM là hình thức xuất khẩu cao nhất, các nhà sản xuất bán sản phẩm theo mẫu thiết kế và thương hiệu riêng của họ

6 Báo cáo Hiệp hội dệt may Việt Nam 2010

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu này xác định vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, đánh giá lợi thế và bất cập trong hoạt động xuất khẩu hiện tại Từ đó, nghiên cứu đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao giá trị gia tăng của ngành dệt may, tối ưu hóa lợi thế so sánh và góp phần giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Trên cơ sở những yêu cầu trên, trong nghiên cứu này tác giả sẽ tập trung trả lời ba câu hỏi chính sau:

- Vị trí của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu?

- Làm cách nào để ngành dệt may Việt Nam có thể dịch chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu?

- Vai trò của chính phủ trong việc nâng cao chuỗi giá trị dệt may Việt Nam?

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu: Chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam.

Nghiên cứu này tập trung vào phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh xuất nhập khẩu, không đề cập đến thị trường nội địa Dữ liệu được sử dụng cho phân tích trong giai đoạn từ năm

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp phân tích định tính và phỏng vấn sâu các chuyên gia trong ngành dệt may để đánh giá thực trạng ngành dệt may Việt Nam Tác giả cũng sử dụng các phương pháp tổng hợp, mô tả, phân tích và so sánh, dựa trên số liệu thực tế của ngành dệt may toàn cầu và Việt Nam Qua đó, bài viết đưa ra các khuyến nghị cho các vấn đề chính sách và phân tích sự phát triển của ngành dệt may trong khoảng thời gian 10 năm qua.

Bài viết sẽ trình bày các phân tích và đánh giá dựa trên số liệu thực tế cũng như ý kiến từ các chuyên gia ngành thông qua phương pháp phỏng vấn sâu Đồng thời, sẽ có các nghiên cứu tình huống từ các quốc gia khác để rút ra những bài học chính sách mà Việt Nam có thể áp dụng.

Bố cục của luận văn

Luận văn được trình bày theo năm chương như sau:

Chương 1 trình bày những nội dung cơ bản của nghiên cứu bao gồm bối cảnh nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Chương 2 trình bày các lý thuyết, mô hình kinh tế được ứng dụng trong nghiên cứu, bao gồm lý thuyết về chuỗi giá trị và lý thuyết về đường cong nụ cười về hình thái các hoạt động sản xuất Chương 3 xác định vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách tập trung phân tích đặc điểm của chuỗi giá trị dệt may trên từng mắt xích Chương 4 đưa ra gợi ý và kiến nghị chính sách mà ngành dệt may cần tập trung đầu tƣ trong thời gian tới để nâng cao giá trị gia tăng và vị thế của ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu Chương 5 tóm tắt kết quả nghiên cứu.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Cơ sở lý thuyết

2.1.1 Lý thuyết về chuỗi giá trị

Theo nghiên cứu của Kaplinsky (2000), chuỗi giá trị bao gồm tất cả các hoạt động cần thiết trong quy trình sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ, bắt đầu từ giai đoạn nghiên cứu và phát triển, tiếp tục qua các bước sản xuất và phân phối, cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng, đồng thời cũng bao gồm việc xử lý rác thải sau khi sản phẩm được sử dụng.

Chuỗi giá trị là tập hợp các giá trị được tạo ra qua các giai đoạn của quá trình sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ, bao gồm nghiên cứu phát triển, thiết kế, cung cấp đầu vào, sản xuất, marketing và phân phối đến tay người tiêu dùng Khi chuỗi giá trị này diễn ra qua nhiều quốc gia trên toàn cầu, nó được gọi là chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo lý thuyết chuỗi giá trị của Gereffi (2001), chuỗi cung ứng được hình thành từ hai yếu tố chính: chuỗi cung ứng do phía cung và chuỗi cung ứng do phía cầu Chuỗi cung ứng do phía cung chủ yếu bao gồm các nhà sản xuất lớn, thường là các công ty xuyên quốc gia, đóng vai trò trung tâm trong việc phối hợp mạng lưới sản xuất quốc tế, đặc biệt trong các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ như sản xuất xe hơi, máy bay và điện tử Ngược lại, chuỗi cung ứng do phía cầu chủ yếu liên quan đến các ngành sản xuất hàng tiêu dùng thâm dụng lao động như may mặc và giày dép, nơi mà các nhà bán lẻ lớn và các nhà sản xuất thương hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành mạng lưới sản xuất phân cấp tại nhiều quốc gia xuất khẩu Đặc điểm nổi bật của chuỗi giá trị do người mua quyết định là sự hợp nhất theo mạng lưới nhằm thúc đẩy sự phát triển của các khu chế xuất và thực hiện thuê gia công toàn cầu.

Ngành dệt may là một ví dụ điển hình về chuỗi giá trị do người mua quyết định, với quy trình sản xuất phức tạp diễn ra tại nhiều quốc gia Các nhà sản xuất nổi tiếng, nhà buôn và nhà bán lẻ lớn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập mạng lưới sản xuất và định hình tiêu thụ hàng hóa thông qua các thương hiệu mạnh Họ cũng phụ thuộc vào chiến lược thuê gia công toàn cầu để đáp ứng nhu cầu thị trường (Gereffi, 1999).

Nghiên cứu sẽ phân tích các đặc điểm của từng mắt xích trong chuỗi giá trị ngành dệt may để xác định mức độ tham gia của doanh nghiệp Việt Nam Đồng thời, cần xác định cách mỗi mắt xích tạo ra giá trị nhằm tìm kiếm phương pháp tối ưu hóa tài nguyên và nguồn lực, giúp ngành dệt may Việt Nam thâm nhập vào các mắt xích có giá trị cao Lý thuyết đường cong nụ cười sẽ hỗ trợ trong việc xác định các mắt xích có giá trị gia tăng cao và thấp, từ đó xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp.

2.1.2 Lý thuyết đường cong nụ cười về hình thái các hoạt động sản xuất Đồ thị đường cong nụ cười (Smile Curve) của Acer Stan Shih về các hình thái hoạt động sản xuất đƣợc hình thành từ những quan sát của ông khi còn là một nhà sản xuất máy tính cá nhân, hợp đồng cho thương hiệu nhà sản xuất Mỹ Ông nhận thấy giá trị gia tăng của một sản phẩm không nằm ở khâu sản xuất ra sản phẩm mà tập trung nhiều nhất ở hoạt động sáng tạo nghiên cứu và phát triển (R&D), marketing và phân phối, còn hoạt động sản xuất công nghiệp thường cho giá trị gia tăng thấp nhất Từ đó ông xây dựng đồ thị biểu diễn mức độ giá trị đƣợc tạo ra cho từng công đoạn của quá trình sản xuất (Hình 2.1)

Trong Hình 2.1, trục tung thể hiện giá trị gia tăng của từng hoạt động, với các hoạt động có giá trị cao hơn được biểu thị ở điểm cao hơn trên biểu đồ Trục hoành mô tả các bước cần thiết để sản xuất một sản phẩm theo chuỗi giá trị như một tiến trình tuyến tính theo thời gian Theo lý thuyết đường cong nụ cười, giá trị thường được tạo ra nhiều hơn ở các khâu đầu tiên, như R&D, và khâu cuối cùng là dịch vụ Những khâu có giá trị gia tăng cao hơn yêu cầu mức độ tri thức và công nghệ đầu tư lớn hơn.

Ứng dụng lý thuyết đường cong nụ cười, các nhà nghiên cứu đã mô tả chuỗi giá trị ngành dệt may toàn cầu hiện tại với năm mắt xích chính, như thể hiện trong Hình 2.2.

Hình 2.2: Đồ thị biểu diễn giá trị gia tăng của chuỗi giá trị dệt may

Nguồn: Nguyễn Thị Hường (2009), Tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

Giá trị gia tăng đóng góp vào sản phẩm

Thiết kế May Xuất khẩu

Sản xuất nguyên phụ liệu

R&D Tƣ duy hóa sản phẩm

Marketing & phân phối Thiết kế sản phẩm

Mắt xích 1- Thiết kế là giai đoạn có tỷ suất lợi nhuận cao và đòi hỏi nhiều tri thức trong chuỗi giá trị ngành dệt may Các quốc gia tiên phong thường chuyển sản xuất sang nước khác, tập trung vào nghiên cứu và thiết kế sản phẩm mới để xây dựng thương hiệu nổi tiếng, từ đó tối ưu hóa lợi nhuận Cạnh tranh giữa các thương hiệu diễn ra rất gay gắt, với những mẫu thiết kế đẹp và sáng tạo Mỗi năm, hàng trăm thương hiệu mới ra mắt, nhưng cũng có tương đương số lượng thương hiệu bị loại bỏ, cho thấy sự quan trọng của yếu tố thiết kế trong việc thâm nhập thị trường.

Để tồn tại vững chắc trong ngành thiết kế, các doanh nghiệp cần có những nhà thiết kế am hiểu xu hướng và thị hiếu thời trang toàn cầu Ngoài kỹ năng thiết kế cơ bản, họ cũng phải nắm vững nền văn hóa địa phương của từng quốc gia để tạo ra các mẫu thiết kế phù hợp và được khách hàng trên toàn thế giới chấp nhận.

Mắt xích 2 - Sản xuất nguyên phụ liệu là một yếu tố quan trọng trong ngành may mặc, đóng vai trò quyết định đến chất lượng sản phẩm và chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị hàng may mặc Nguyên phụ liệu được chia thành hai phần chính: nguyên liệu chính, chủ yếu là các loại vải được sản xuất qua các quá trình kéo sợi, dệt, nhuộm, in và hoàn tất; và phụ liệu, bao gồm chỉ may và vật liệu dựng như khóa kéo, cúc, dây thun, giúp liên kết nguyên liệu và tạo thẩm mỹ cho sản phẩm.

Hình 2.3: Quá trình sản xuất vải

Sản xuất nguyên phụ liệu đóng vai trò quan trọng trong ngành may mặc, cung cấp đầu vào và mang lại lợi nhuận cao hơn so với khâu may Các quốc gia chủ động sản xuất nguyên phụ liệu sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn so với những nước phải nhập khẩu Hiện nay, Trung Quốc và Hàn Quốc dẫn đầu trong lĩnh vực này.

Bông, Xơ Kéo sợi Sợi Dệt vải Vải thô Nhuộm và in hoa

Hai quốc gia hàng đầu trong sản xuất và cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành dệt may hiện nay sở hữu những nhà máy dệt lớn nhất thế giới Ngoài ra, Ấn Độ và Đài Loan cũng đóng vai trò quan trọng với tư cách là những nhà sản xuất nguyên phụ liệu lớn cho thị trường dệt may toàn cầu.

Mắt xích 3 – May là khâu thâm dụng lao động nhất trong ngành dệt may, nhưng chỉ mang lại tỉ suất lợi nhuận thấp, khoảng 10-15% (Jocelyn Trần, 2011) Các nước mới gia nhập ngành thường chọn may làm điểm khởi đầu do yêu cầu đầu tư công nghệ thấp Những quốc gia này thường gia công lại cho các nước đã tham gia trước, phản ánh đặc điểm chung trong sản xuất dệt may toàn cầu Các nước có ngành dệt may phát triển thường không thực hiện các công đoạn may nữa, mà chuyển giao cho các quốc gia mới với nguồn lao động giá rẻ như Bangladesh, Pakistan và Việt Nam Tỷ lệ giá trị thu về trong phân khúc may cũng khác nhau tùy thuộc vào phương thức xuất khẩu như CMT, FOB hay ODM.

Mắt xích 4 - Mạng lưới xuất khẩu trong chuỗi dệt may là khâu thâm dụng tri thức, bao gồm các công ty may mặc có thương hiệu, văn phòng mua hàng và công ty thương mại từ các nước Đặc điểm nổi bật của chuỗi này là sự xuất hiện của các nhà buôn với nhãn hiệu nổi tiếng nhưng không tham gia sản xuất, được gọi là “nhà sản xuất không có nhà máy”, như Mast Industries, Nike và Reebok Họ đóng vai trò trung gian kết nối chuỗi cung ứng giữa nhà may mặc, nhà thầu phụ và nhà bán lẻ toàn cầu Trong chuỗi dệt may toàn cầu, các nhà buôn và nhà cung cấp giữ vai trò then chốt, nắm giữ phần lớn giá trị mặc dù không sở hữu nhà máy nào Hiện nay, các nhà buôn từ Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc đang chiếm ưu thế trong mạng lưới này, được xem là “ba ông lớn” trong chuỗi cung ứng hàng dệt may thế giới.

7 Xu huớng này bắt đầu từ những năm 1970

8 Gereffi, 1999, International trade and industrial upgrading in the apparel commodity chain, Journal of International Economics 48

Các nghiên cứu trước

Theo kết quả nghiên cứu về chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Gereffi và Memodovic

(2003) có thể phân chia chuỗi giá trị dệt may làm năm phân khúc chính theo Hình 2.4

Hình 2.4: Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

Gereffi và Memodovic (2003) đã phân chia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu thành năm phân khúc chính Phân khúc đầu tiên là mạng lưới nguyên liệu thô, bao gồm sản xuất sợi thiên nhiên và tổng hợp Thứ hai là mạng lưới nguyên phụ liệu, nơi các công ty dệt sử dụng sợi từ nguyên liệu thô Phân khúc thứ ba là mạng lưới sản xuất, gồm các nhà máy may mặc chủ yếu ở Bắc Mỹ và Châu Á, thực hiện thiết kế, cắt, may và hoàn thiện sản phẩm Phân khúc thứ tư là mạng lưới xuất khẩu, được điều hành bởi các công ty may mặc có thương hiệu và thương mại, chuyển sản phẩm tới các nhà bán lẻ toàn cầu Cuối cùng, phân khúc thứ năm là mạng lưới tiếp thị, nơi các nhà bán lẻ đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng cuối.

Sợi (dệt đan, hoàn tất)

Các nhà máy may mặc

Mỹ (thiết kế, cắt, may, đơm nút, ủi)

Các nhà thầu phụ trong nước, Mexico và vùng vịnh Caribe

Hóa dầu Sợi tổng hợp

Các nhà thầu phụ may mặc châu Á

Các nhà thầu phụ nội địa và hải ngoại

Các công ty may mặc có thương hiệu

Các văn phòng mua hàng hải ngoại

Các công ty thương mại

Các cửa hàng tổng hợp

Các cửa hàng đặc hiệu

Các chuỗi hàng hóa đại trà

Các chuỗi chiết khấu Điểm bán giá riêng, điểm bán trực tiếp của nhà máy, đơn hàng qua thƣ…

Mạng lưới nguyên liệu thô Mạng lưới nguyên phụ liệu Mạng lưới sản xuất Mạng lưới xuất khẩu Mạng lưới tiếp thị

Các công ty dệt Các nhà sản xuất hàng may mặc

Tất cả các nhà bán lẻ

Tất cả các nhà bán lẻ

Dựa trên bản đồ chuỗi cung ứng ngành dệt may của Gereffi & Memedovic, bài viết phân tích lợi thế cạnh tranh của Việt Nam tại từng mắt xích, dựa vào các yếu tố như thâm dụng đất đai, vốn, lao động và tri thức Kết hợp với lý thuyết đường cong nụ cười về giá trị gia tăng, tác giả xác định các mắt xích mà Việt Nam có thế mạnh, từ đó đề xuất cách thu hút các nhà đầu tư tham gia vào ngành này.

Kenta (2007) đã nghiên cứu định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam dựa trên chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Gereffi và Memodovic (2003), với mục tiêu nâng cấp phương thức sản xuất từ CMT lên FOB Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thu thập từ các cuộc phỏng vấn với hơn 60 công ty và tổ chức liên quan tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2003, bao gồm cả các doanh nghiệp Nhật Bản Tuy nhiên, nghiên cứu này còn một số hạn chế: (i) không xác định vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, làm thiếu cơ sở khoa học cho định hướng; (ii) cho rằng Việt Nam chỉ có lợi thế trong khâu may mà không dựa trên nghiên cứu cụ thể nào; (iii) chỉ đưa ra định hướng mà không có giải pháp cụ thể để nâng cao giá trị sản phẩm cho ngành dệt may.

VỊ TRÍ CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ DỆT

Đặc điểm và vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2010

Ngành dệt may Việt Nam nổi bật với kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cao, đặc biệt từ năm 2005 đến nay, với xuất khẩu tăng gần gấp đôi từ 5,9 tỷ USD lên 11,2 tỷ USD trong giai đoạn 2006-2010 Tuy nhiên, sự tăng trưởng này không bền vững do phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên phụ liệu, chiếm 60% giá trị xuất khẩu, và giá trị gia tăng xuất khẩu thấp Phương thức gia công (CMT) vẫn chiếm ưu thế, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp thấp và thiếu ổn định Bên cạnh đó, ngành dệt may còn phải đối mặt với những thách thức từ yêu cầu ngày càng cao của người mua về thời gian giao hàng, chất lượng sản phẩm và khả năng cung cấp trọn gói, đe dọa đến việc duy trì thành quả đã đạt được.

Bảng 3.1 Cân đối xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam, 2005-2010

3 Nhập khẩu cho xuất khẩu

4 Cân đối xuất nhập khẩu (1-3)

Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam

Ngành dệt may Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhờ lợi thế cạnh tranh về lao động với lực lượng lao động đông đảo và chi phí lao động thấp Ông Hsiao Su Ching từ Texma Việt Nam cho biết, yếu tố quyết định việc thành lập nhà máy ở Đồng Nai là mức lương thấp và sự chăm chỉ của công nhân Tuy nhiên, trong hai năm qua, lợi thế này đang giảm do mức lương tối thiểu tăng từ 30-55% tùy theo loại hình doanh nghiệp Sự không ổn định trong lực lượng lao động, đặc biệt sau Tết, cùng với tình trạng đình công không đúng luật, đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp nước ngoài và làm giảm sức hấp dẫn đầu tư Bà Jocelyn Trần từ Mast Industries cũng nhấn mạnh rằng quy định về đình công chưa rõ ràng là một trở ngại lớn Cuối cùng, năng suất lao động của công nhân Việt Nam chỉ đạt 70-80% so với lao động Trung Quốc, điều này cho thấy ngành dệt may Việt Nam cần phải cải thiện để duy trì sự cạnh tranh.

Ngành may mặc là một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất và lâu đời nhất trên thế giới, với sự tham gia của hầu hết các quốc gia vào thị trường dệt may quốc tế Ngành này có tính toàn cầu hóa cao, và Việt Nam cũng đã tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu từ lâu, tuy nhiên chủ yếu vẫn chỉ ở khâu gia công sản phẩm cuối cùng Đồng thời, sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh mới như Bangladesh và Sri Lanka trong phân đoạn sản xuất các mặt hàng dệt may đang tạo ra áp lực lớn cho ngành dệt may Việt Nam.

10 Tác giả phỏng vấn trực tiếp ông Hsiao Su Ching tại Công ty Texma Việt Nam ngày 11/3/2011

11 Tác giả phỏng vấn trực tiếp bà Jocelyn Trần tại Văn phòng tập đoàn Mast Industries Việt Nam ngày 25/3/2011

12 Chủ tịch Ủy ban may mặc và giày của phòng thương mại Hoa Kỳ (AmCham)

Ngành may mặc gia công tại Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc duy trì vị thế cạnh tranh do chi phí sản xuất cao hơn so với các quốc gia khác Điều này khiến Việt Nam khó có thể đứng vững trong phân khúc thị trường hiện tại.

Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với những biến động cả nội bộ lẫn bên ngoài, đòi hỏi phải đưa ra quyết định chiến lược quan trọng Để chuyển từ việc phát triển dựa trên lợi thế so sánh sang xây dựng lợi thế cạnh tranh mới với mức độ thâm dụng tri thức cao hơn, ngành cần nâng cao năng lực cạnh tranh Việc phân tích vị trí mong muốn và khả năng của mình trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu là cần thiết, dựa trên các đánh giá về cơ hội và thế mạnh của ngành.

Định vị vị trí ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

Để xác định vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, tác giả sẽ phân tích các doanh nghiệp dệt may hiện tại và vai trò của họ trong chuỗi cung ứng Qua việc xem xét luồng di chuyển sản phẩm và đặc điểm người mua, tác giả sẽ làm rõ vị trí của các doanh nghiệp Việt Nam Phân tích này sẽ tập trung vào quá trình phát triển của ngành dệt may từ trồng bông đến phân phối sản phẩm cuối cùng, giúp hiểu rõ hơn về sự phát triển của từng phân đoạn trong ngành.

3.2.1 Nguồn cung cấp bông, xơ và sợi

Ngành trồng bông và kéo sợi đóng vai trò quan trọng trong chuỗi dệt may, cung cấp nguyên liệu cho các giai đoạn dệt, nhuộm và may Tuy nhiên, sự phát triển của ngành này chưa tương xứng với nhu cầu Từ năm 2000 đến 2010, ngành dệt may Việt Nam đã trở thành ngành xuất khẩu lớn nhất với doanh thu 11,2 tỷ đô la Mỹ, trong khi ngành kéo sợi tăng trưởng trên 300%, từ 1,2 triệu cọc sợi lên 3,75 triệu cọc Ngược lại, sản lượng bông giảm từ 12.000 tấn năm 2000 xuống còn 3.500 tấn vào năm 2010, chỉ đáp ứng khoảng 1,3% nhu cầu bông cho ngành sợi.

Sự giảm sút sản lượng bông trong nước đã tác động tiêu cực đến các giai đoạn tiếp theo trong chuỗi giá trị dệt may Việt Nam, đặc biệt là khi giá bông thế giới tăng cao một cách bất thường.

(tăng 2,2 lần 14 ) chỉ trong vòng 2 năm 2009, 2010 đe dọa tới sự tăng trưởng ổn định của ngành sợi nói riêng và toàn ngành dệt may Việt Nam nói chung

Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã phải nhập khẩu hầu hết các sản phẩm bông và xơ để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho ngành sợi Kể từ năm 2005, khối lượng và giá trị nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may liên tục gia tăng Hàng năm, Việt Nam nhập khẩu một lượng lớn bông từ Mỹ, Tây Phi, Ấn Độ và xơ chủ yếu từ Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, và Indonesia Đặc biệt, năm 2010, cả nước đã nhập khẩu khoảng 352,9 ngàn tấn bông với trị giá khoảng 664 triệu USD, tăng mạnh so với năm 2009 Tuy nhiên, diện tích trồng bông trong nước đã giảm đáng kể, từ 26.700 ha niên vụ 2001-2002 xuống còn khoảng 9.000 ha trong niên vụ 2010-2011, dẫn đến việc ngành sợi hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

Bảng 3.2: Số liệu nhập khẩu bông xơ sợi của Việt Nam trong những năm qua

Năm Bông Xơ Sợi (khối lƣợng) Xơ Sợi

Nguồn: Tổng hợp từ Hiệp hội Bông Sợi và Hiệp hội dệt may Việt Nam

Ngành bông, xơ ở Việt Nam phát triển chậm do thiếu lợi thế cạnh tranh tự nhiên và đầu tư hạn chế vào trồng bông Việc trồng bông đòi hỏi nhiều đất đai và chịu ảnh hưởng lớn từ thời tiết, khí hậu, đặc biệt là trong vụ 2 vào mùa mưa khi phụ thuộc vào nguồn nước.

Theo thống kê của Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam, diện tích trồng bông ở Việt Nam vẫn còn thấp và manh mún do điều kiện khí hậu không đồng đều giữa các vùng Trình độ thâm canh của nông dân chưa cao, thiếu hệ thống thủy lợi hỗ trợ, và sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên Việc thu hoạch bông bằng tay dẫn đến năng suất thấp, khiến giá bán không cạnh tranh so với các nước Bắc Mỹ và Châu Phi.

Lý 15 năng suất bông bình quân của nước ta hiện nay chỉ đạt khoảng 1,1 tấn/ha, trong khi đó năng suất trồng bông ở Mỹ đạt khoảng 3-4 tấn/ha Với giá bông trung bình các năm vào khoảng 9.000–11.000VND/kg thì thu nhập người nông dân vào khoảng 11-12 triệu VND/ha/vụ, đây là mức thu nhập thấp nếu so với các loại cây trong khác nhƣ bắp, đậu, khoai mì,… Thêm vào đó giá bông thường không ổn định mà cây bông lại là cây ngắn ngày nên người nông dân sẽ dễ dàng thay đổi mục đích sử dụng đất (chuyển sang các cây trồng khác) nếu thấy giá bông hạ

Trong ngắn hạn, Việt Nam không có lợi thế trong sản xuất bông do hiệu quả thường đạt được theo quy mô, trong khi diện tích đất trống để trồng bông rất khan hiếm và điều kiện thổ nhưỡng không phù hợp Để canh tác trên những vùng đất này, cần đầu tư toàn diện vào cải tạo đất, xây dựng hệ thống thủy lợi tự động, và trang bị máy móc hiện đại Tuy nhiên, theo Tổng công ty Bông Việt Nam, chi phí cho những đầu tư này sẽ rất lớn, khiến giá thành bông Việt Nam không cạnh tranh được với bông nhập khẩu.

Vào năm 2010, ngành công nghiệp sợi Việt Nam có tổng cộng 70 doanh nghiệp, chủ yếu tập trung tại miền Bắc với 31 doanh nghiệp và phần còn lại ở miền Nam.

Ngành sợi Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ, với 33 doanh nghiệp sản xuất 3.656.756 cọc sợi và 104.348 rotor, đạt giá trị xuất khẩu khoảng 336 triệu USD Từ mức 13,2 triệu USD vào năm 2004, giá trị xuất khẩu đã tăng lên 89,7 triệu USD vào năm 2008 và hiện nay đã tăng gần gấp 4 lần so với năm 2008.

15 Trưởng phòng Kinh doanh - Xuất nhập khẩu, Công ty Cổ phần Bông Việt Nam, tác giá phỏng vấn trực tiếp ngày 9/4/2011

16 Tác giả phỏng vấn trực tiếp chị Nguyễn Thị Lý tại văn phòng Tổng công ty Bông Việt Nam ngày 9/4/2011

17 Nguồn: Báo cáo khảo sát năng lực sản xuất kinh doanh ngành sợi Việt Nam năm 2010, Hiệp hội Sợi Việt Nam

Ngành sợi Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong những năm qua nhờ vào hai nguyên nhân chính Thứ nhất, lợi thế cạnh tranh về chi phí đầu vào thấp, đặc biệt là chi phí nhân công, điện, nước và tiền thuê đất, đã giúp giá sợi Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn so với các quốc gia khác, theo ông Nguyễn Thành Vinh, Phó Tổng Giám đốc công ty Sợi Phú Bài Thứ hai, nhu cầu sợi toàn cầu tăng nhanh và việc Hungary áp dụng thuế đối với sản phẩm sợi từ Trung Quốc, Pakistan, Indonesia từ năm 2009 đã mở ra cơ hội cho ngành sợi Việt Nam Bên cạnh đó, chi phí nhân công và điện tăng cao ở Trung Quốc cũng dẫn đến giảm sản lượng sợi của nước này, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của ngành sợi Việt Nam.

Ngành sợi Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, nhưng vẫn gặp mâu thuẫn khi phần lớn sợi sản xuất trong nước được xuất khẩu, trong khi các doanh nghiệp dệt lại phải nhập khẩu sợi từ nước ngoài Theo báo cáo khảo sát năng lực sản xuất kinh doanh ngành sợi, điều này phản ánh sự không cân đối trong chuỗi cung ứng của ngành.

Năm 2010, chỉ có 34% sản lượng sợi (178 ngàn tấn) sản xuất tại Việt Nam được tiêu thụ trong nước, trong khi khoảng 66% còn lại được xuất khẩu Đồng thời, lượng sợi nhập khẩu vào Việt Nam cũng tăng đáng kể, từ 338.800 tấn năm 2005 lên 581.400 tấn vào năm 2010.

Năm 2010, lượng sợi sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 19,3% tổng lượng tiêu thụ, theo Hiệp hội Sợi Việt Nam Nguyên nhân của tình trạng này là do sự không phù hợp giữa cung và cầu về số lượng và chất lượng sợi, dẫn đến phần lớn sản phẩm được sản xuất chủ yếu phục vụ xuất khẩu Điều này trái ngược với mục tiêu ban đầu của ngành sợi là phục vụ cho chuỗi liên kết sợi-dệt-nhuộm-may trong nước.

Mặc dù ngành sợi đã có sự phát triển đáng kể trong những năm gần đây, nhưng thành quả vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam Ngành này vẫn đang phải đối mặt với một số vấn đề cần được giải quyết.

GỢI Ý VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Ngày đăng: 11/08/2021, 10:32

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w