1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)

42 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Công Đến Tăng Trưởng Kinh Tế Việt Nam
Tác giả Tạ Ngọc Mai, Nguyễn Diệu Linh, Lê Thị Thuỳ Linh
Người hướng dẫn Ph.D Nguyễn Thị Lan
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Kinh Tế Và Kinh Doanh Quốc Tế
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 42
Dung lượng 561,45 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ (8)
    • 1.1 Tổng quan nghiên cứu (8)
      • 1.1.1 Trong nước (8)
      • 1.1.2 Nước ngoài (9)
      • 1.1.3 Khoảng trống trong nghiên cứu (10)
    • 1.2 Cơ sở lý thuyết và khung phân tích (11)
      • 1.2.1 Các khái niệm cơ bản (11)
      • 1.2.2 Lý thuyết về nơ công (13)
      • 1.2.3 Lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế (13)
      • 1.2.4 Khung phân tích (17)
  • CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (19)
    • 2.1 Kết quả nghiên cứu (19)
      • 2.1.1 Thực trạng nợ công của Việt Nam – giai đoạn 2011-2016 (19)
      • 2.1.2 Nghiên cứu thực nghiệm tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế.20 (22)
    • 2.2 Nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết khủng hoảng nợ công của một số nền (31)
      • 2.2.1 Giải pháp giảm nợ công Nhật Bản (31)
      • 2.2.2 Giải pháp giảm nợ công ở các nước Châu Âu (32)
  • CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH (35)
    • 3.1 Kết luận (35)
    • 3.2 Hàm ý chính sách (35)
      • 3.2.1 Về năng lực quản lý nợ công (35)
      • 3.2.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công và đầu tư công (36)
      • 3.2.3 Tăng cường kỷ luật NSNN và phối hợp chính sách................................35 3.2.4 Phát triển nội lực nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu và mô hình tăng trưởng (37)

Nội dung

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ

Tổng quan nghiên cứu

Hoàng Khắc Lịch và Dương Cẩm Tú (2018) chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng tiêu cực bởi nợ công, lạm phát, chi tiêu của chính phủ và tỷ lệ thất nghiệp, dựa trên dữ liệu từ 58 quốc gia phát triển và đang phát triển trong giai đoạn 1993 – 2014 Nghiên cứu nhấn mạnh rằng kế hoạch chi tiêu ngân sách hợp lý, đặc biệt là chi tiêu tiêu dùng, có thể kiểm soát tốt tác động của nợ công lên tăng trưởng Cụ thể, nếu nhà nước duy trì chi tiêu tiêu dùng ở mức trên 14%-16%, sẽ mang lại tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

Nguyễn Văn Phúc (2013) chỉ ra rằng nợ công có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua lạm phát cao, khi nghiên cứu dữ liệu của 30 nước đang phát triển từ 1995-2009 Cụ thể, khi tỷ lệ nợ công trên GDP tăng 10% điểm, tốc độ tăng trưởng giảm trung bình 0,13%/năm, trong khi lạm phát tăng 10% điểm dẫn đến giảm 0,41%/năm Tuy nhiên, nghiên cứu này còn thiếu một số biến quan trọng như tỷ lệ thất nghiệp và tiết kiệm, làm cho kết quả chưa thực sự thuyết phục và chính xác trong bối cảnh thực tế.

Nguyễn Hữu Tuấn (2012) đã kế thừa và mở rộng mô hình nghiên cứu của Tokunbo và cộng sự (2007) để xây dựng mô hình đo lường tác động của tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP đến GDP thực của Việt Nam trong giai đoạn 1986-2009 Nghiên cứu sử dụng lý thuyết “debt overhang” và mô phỏng qua đường cong Laffer nợ để phân tích mối liên hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ngưỡng 65% cho tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP thực là quan trọng; nếu tỷ lệ này dưới 65%, sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu vượt quá mức này, nợ nước ngoài sẽ có tác động tiêu cực Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xem xét đầy đủ các yếu tố khác như đầu tư, tiết kiệm, chính sách tài khóa, tiền tệ và lạm phát, điều này làm cho việc áp dụng lý thuyết debt overhang và đường cong Laffer trở nên quá đơn giản.

Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2010 đã làm trầm trọng thêm tình hình nợ công toàn cầu, khiến nhiều quốc gia phải đối mặt với những thách thức tài chính nghiêm trọng hơn.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nợ công tăng lên thường làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, hoặc mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế có tính phi tuyến Tuy nhiên, có một số nghiên cứu cho rằng nợ công có thể tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

Nghiên cứu thực nghiệm của Checherita & Rother (2012) trên khu vực đồng Euro cho thấy nợ chính phủ có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Phân tích dữ liệu từ 12 quốc gia châu Âu trong giai đoạn 1970-2010 cho thấy khi tỷ lệ nợ chính phủ/GDP đạt từ 90-100%, tăng trưởng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng xấu trong dài hạn Đặc biệt, tỷ lệ nợ từ 70-80% GDP có thể dẫn đến tăng trưởng âm do tác động của nợ công gia tăng.

Moore & Thomas (2010) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng ở các quốc gia đang phát triển, cho thấy rằng vốn vay có tác động tích cực đến tăng trưởng nếu được sử dụng để nâng cao năng suất lao động Trong khi đó, Egbetunde (2012) và Al- cũng đã có những nghiên cứu tương tự nhưng với những phát hiện khác biệt.

Nghiên cứu của Zeaud (2014) tập trung vào từng quốc gia riêng lẻ, trong khi Egbetunde (2012) chỉ ra rằng nợ công có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nếu chính phủ minh bạch trong việc vay mượn và sử dụng nguồn vốn cho phát triển, dựa trên dữ liệu Nigeria từ 1970 đến 2010 Tương tự, Al-Zeaud (2014) áp dụng phương pháp ước lượng OLS với dữ liệu từ 1991 đến 2010 ở Jordan và cũng đưa ra kết luận tích cực Ngược lại, trong nghiên cứu về tác động tiêu cực của nợ công lên tăng trưởng kinh tế, nhiều tác giả chủ yếu sử dụng dữ liệu từ một quốc gia cụ thể.

Patrick (2017) đã áp dụng mô hình OLS để phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, nợ công, lạm phát và thất nghiệp tại Kenya từ năm tài chính 1993/1994 đến 2014/2015, kết luận rằng mức nợ cao có tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh tế Trong khi đó, Akram (2015) sử dụng phương pháp ARDL để đánh giá ảnh hưởng của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế.

Philippines giai đoạn 1975 – 2010, khẳng định sự hiện diện của “hiệu ứng khó vay thêm nợ”

Cuối cùng, tác động phi tuyến của nợ công lên tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở các nghiên cứu:

Teles và Mussolini (2014) đã phát triển lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế thông qua một mô hình liên thế hệ và tăng trưởng nội sinh Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 74 quốc gia trong giai đoạn 1972-2004, chỉ ra rằng quy mô nợ công có ảnh hưởng đáng kể đến mối quan hệ này Tác giả cho rằng nợ công có thể vừa thúc đẩy vừa kìm hãm tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xác định rõ tỷ lệ nợ công nào là cao hay thấp, cũng như mức nợ công tối ưu cho tăng trưởng.

Real et al (2014) đã phát triển lý thuyết mô hình cân bằng tổng thể để giải thích mối quan hệ hình chữ U ngược giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu tập trung vào hai hiệu ứng: hiệu ứng chèn lấn và hiệu ứng thúc đẩy mà nợ công có tác động đến đầu tư tư nhân Khi tỷ lệ nợ công trên GDP dưới một ngưỡng nhất định, hiệu ứng thúc đẩy sẽ chiếm ưu thế, giúp nợ công tích lũy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, khi tỷ lệ này vượt qua ngưỡng, nợ công tích lũy bắt đầu cản trở tăng trưởng kinh tế.

1.1.3 Khoảng trống trong nghiên cứu Như đã trình bày ở phần tổng quan nghiên cứu trong nước và nước ngoài, có khá nhiều nghiên cứu về sự tương tác của nợ công tới tăng trưởng kinh tế, kết quả thu được cũng không giống nhau.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về nợ công tại các nước phát triển, đặc biệt sau khủng hoảng nợ công châu Âu, nhưng ở Việt Nam, chủ đề này vẫn chưa được khai thác nhiều Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tuấn (2012) đã chỉ ra ngưỡng tỷ lệ nước ngoài trên GDP thực, nhưng vẫn còn thiếu các nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế, và chưa có nghiên cứu nào đi sâu và đầy đủ về vấn đề này.

Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế hiện vẫn còn nhiều khoảng trống cần được bổ sung và phát triển.

Cơ sở lý thuyết và khung phân tích

1.2.1 Các khái niệm cơ bản

1.2.1.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực kinh tế, thể hiện sự thay đổi về quy mô của nền kinh tế qua các năm hoặc các thời kỳ Nó được đánh giá thông qua hai yếu tố chính: qui mô tăng trưởng, phản ánh mức độ gia tăng hoặc giảm sút của nền kinh tế, và tốc độ tăng trưởng, cho thấy sự gia tăng nhanh hay chậm trong các khoảng thời gian nhất định Để đo lường tăng trưởng kinh tế, người ta thường sử dụng hai chỉ số chủ yếu: phần tăng, giảm quy mô của nền kinh tế tính theo GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng tính theo GDP.

1.2.1.2 Khái niệm về nợ công và phương pháp tính nợ công

Có 3 quan điểm về nợ công: theo quan điểm của Việt Nam, của ngân hàng thế giới (WB) và theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).

Nợ công được định nghĩa là nghĩa vụ nợ của bốn chủ thể chính: (1) nợ của chính phủ trung ương cùng các bộ, ban, ngành; (2) nợ của chính quyền địa phương; (3) nợ của ngân hàng trung ương; và (4) nợ của các tổ chức độc lập, trong đó nguồn vốn hoạt động chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước (trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước) Trong trường hợp xảy ra vỡ nợ, nhà nước sẽ có trách nhiệm trả nợ thay cho các tổ chức này.

Theo IMF (2010), nợ công được định nghĩa là nghĩa vụ trả nợ của khu vực công, bao gồm cả Chính phủ và các tổ chức công.

Hình 1 Định nghĩa về khu vực công (IMF)

Luật Quản lý nợ công Việt Nam (2009) đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hệ thống pháp luật về quản lý nợ công tại Việt Nam Theo quy định của luật này, nợ công bao gồm nợ của chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của các chính quyền địa phương.

Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước và nước ngoài được ký kết và phát hành nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ, bao gồm các khoản vay do Bộ Tài chính ký kết và ủy quyền phát hành theo quy định pháp luật Tuy nhiên, nợ Chính phủ không bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản vay mà doanh nghiệp cùng các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước nhận được sự bảo đảm từ chính phủ.

Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ được ký kết và phát hành bởi Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được uỷ quyền phát hành.

So với quy ước của IMF, thống kê nợ công của Việt Nam chưa bao gồm cách tính nợ công ròng và phạm vi các khoản mục trong tổng nợ công nhỏ hơn quy định của IMF Điều này do việc loại trừ các khoản vay, tiền gửi, phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước, quyền rút vốn đặc biệt của IMF, cũng như các khoản bảo hiểm xã hội, hưu trí, tiền gửi và các khoản trả trước tại các tổ chức sử dụng vốn ngân sách ngoài Chính phủ.

Định nghĩa của IMF về nợ công chi tiết và đầy đủ hơn so với Luật quản lý nợ công của Việt Nam và WB Mặc dù có sự khác biệt, nhưng các khoản nợ của tổ chức công có thể được xem là nợ mà chính phủ sẽ bảo lãnh nếu tổ chức đó vỡ nợ Sự khác biệt này dẫn đến cách tính nợ công của Việt Nam khác với các quốc gia khác trên thế giới.

1.2.2 Lý thuyết về nơ công Khi việc chi tiêu vượt quá khả năng của nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác thì chính phủ buộc phải vay nợ để tài trợ và việc này khiến nợ công phát sinh. Điều này cho thấy nợ công là kết quả của bội chi ngân sách của chính phủ và chính phủ có trách nhiệm phải hoàn trả Với cùng bản chất như vậy nhưng luôn có những quan điểm khác nhau tồn tại giữa các nhà kinh tế học. Đối với các nhà kinh tế học cổ điển, một nguyên tắc quan trọng và nhất quán về quản lý ngân sách là nguyên tắc ngân sách cân bằng, thu và chi bằng nhau Khởi xướng và ủng hộ triệt để là các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith, David Ricardo, John Stuart Mill cho rằng nguyên tắc này giúp chính phủ chi tiêu hợp lí, tránh sự hoang phí và hạn chế tình trạng lạm thu thông qua việc ban hành các chính sách thuế và tăng thuế Vì vậy, hầu hết các nhà kinh tế học cổ điển không đồng tình với việc đi vay nợ của chính phủ để chi tiêu.

Nhà kinh tế học John Maynard Keynes cùng những người ủng hộ trường phái Keynes khuyến khích chính phủ vay nợ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua chi tiêu, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái khi đầu tư tư nhân giảm sút Họ lập luận rằng việc tăng cường đầu tư của chính phủ vào các dự án công như cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế có thể giúp phục hồi nền kinh tế Hầu hết các chính phủ áp dụng lý thuyết Keynes để vượt qua khủng hoảng kinh tế Paul Samuelson, một nhà kinh tế học khác trong trường phái Keynes, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt để nâng cao hiệu quả kinh tế Điều này cho thấy nợ công là công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế, nhưng cần sử dụng một cách thận trọng và phối hợp hiệu quả giữa các chính sách tài khoá và tiền tệ.

1.2.3 Lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế

1.2.3.1 Tác động ngắn hạn và dài hạn của sụt giảm nợ công

Nghiên cứu về tác động của nợ công lên hoạt động kinh tế cho thấy mối liên hệ này không rõ ràng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau (Nautet & Van Meensel, 2011) Tác động của nợ công có thể thay đổi theo thời gian và khác nhau giữa các quốc gia Do đó, cần phân biệt rõ giữa tác động kinh tế ngắn hạn và dài hạn của nợ công để có cái nhìn toàn diện hơn.

Trong ngắn hạn, việc áp dụng các công cụ tài khóa nhằm củng cố kỷ luật ngân sách có thể dẫn đến sự suy giảm trong tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng các số nhân ngân sách thường có giá trị dương trong ngắn hạn.

Tác động ngắn hạn của việc củng cố kỷ luật tài khoá lên hoạt động kinh tế phụ thuộc vào các công cụ tài khoá được sử dụng Các công cụ liên quan đến chi tiêu và đầu tư công có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn so với các công cụ chuyển nhượng như thuế hoặc phúc lợi xã hội, do chi chuyển nhượng chỉ tác động gián tiếp đến tiêu dùng và đầu tư thông qua việc điều chỉnh thu nhập của hộ gia đình hoặc doanh nghiệp.

Các tác động tiêu cực của công cụ tài chính lên tăng trưởng kinh tế ngắn hạn có thể yếu hoặc thậm chí không tồn tại nếu tình trạng tài trợ công ngân sách dẫn đến việc tăng lãi suất, gây bất lợi cho các nhà đầu tư tư nhân Do đó, việc củng cố tài khoá bằng cách hạn chế thâm hụt ngân sách và giảm nợ công không nhất thiết phải gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh tế.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kết quả nghiên cứu

2.1.1 Thực trạng nợ công của Việt Nam – giai đoạn 2011-2016

2.1.1.1 Về quy mô nợ công:

So với các nước ASEAN, nợ công của Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh, trong khi nhiều quốc gia trong khu vực lại giảm Tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam vào năm 2016 cao hơn cả Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines và Thái Lan, trong khi vào năm 2000, tỷ lệ này còn thấp hơn tất cả các quốc gia trên.

Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh từ năm 2011, với mức tăng khoảng 9,83 điểm phần trăm trong giai đoạn 2011-2015, từ 54,9% lên 64,73% Đến năm 2016, tổng nợ công đạt 2.915 nghìn tỷ đồng, gần chạm ngưỡng kiểm soát 65% GDP theo Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch tài chính 5 năm giai đoạn 2016 - 2020.

Bảng 2 Gánh nặng nợ công Việt Nam 2011-2016

Tốc độ tăng trưởng nợ công của Việt Nam đạt khoảng 5% mỗi năm từ 2011 đến 2016, khiến mức trần nợ công 65% GDP do Quốc hội quy định có nguy cơ bị vi phạm trong tương lai gần So với các quốc gia ASEAN và các nhóm quốc gia mới nổi, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã gia tăng đáng kể, từ vị trí thấp nhất trong giai đoạn 2000-2005 lên đứng đầu vào năm 2016.

Hình 3 Tỷ lệ nợ công/GDP của 7 nước trong khu vực ASEAN (%)

2.1.1.2 Về cơ cấu và kỳ hạn nợ công:

Theo Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12, nợ công của Việt Nam được phân loại thành nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương Cụ thể, nợ Chính phủ bao gồm cả nợ trong nước và nợ nước ngoài.

Theo ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), tỷ lệ nợ trong nước của Việt Nam đang gia tăng Đến cuối năm 2015, cơ cấu nợ công của Việt Nam bao gồm nợ Chính phủ chiếm 80,8%, nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,8% và nợ của chính quyền địa phương chiếm 1,4%.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng (2017), tỷ lệ nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của Chính phủ năm 2016 đã tăng so với năm trước Cụ thể, nợ Chính phủ đạt 52,6% GDP, tăng 2,6%, trong khi nợ nước ngoài của Chính phủ đạt 44,3% GDP, tương ứng với mức tăng 1,2%.

Hình 4 Tỷ trọng nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của Việt Nam 2011-2016 (% GDP)

Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đã chỉ ra rằng cơ cấu nợ công của Việt Nam đang được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn.

Trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đã tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015, trong khi tỷ trọng nợ nước ngoài giảm từ 61% xuống còn 43% trong cùng thời gian Sự thay đổi này phù hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020, với tầm nhìn đến năm 2030.

 Về kỳ hạn Với nợ trong nước, chủ yếu phát hành trái phiếu trong nước, nếu trong giai đoạn

Từ năm 2011 đến 2013, các trái phiếu Chính phủ chủ yếu có kỳ hạn ngắn hạn, nhưng đến năm 2014, kỳ hạn đã tăng lên 3 năm Năm 2015, kỳ hạn tiếp tục kéo dài lên 4,4 năm và đến năm 2016, kỳ hạn đạt hơn 5 năm Mức lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn trong nước đã giảm mạnh từ 12%/năm vào năm 2011 xuống còn khoảng 6,5% vào năm 2014, và khoảng 6% vào năm 2015 và 2016 (Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng).

Với nợ nước ngoài, từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình.

Mức độ ưu đãi từ các khoản vay của các đối tác phát triển cho Việt Nam đang giảm đáng kể, với nhiều nhà tài trợ chuyển từ nguồn vốn ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp.

Đến tháng 7/2017, Việt Nam có khả năng ngừng nhận vốn ODA và sẽ chuyển sang nguồn vay ưu đãi cũng như vay theo điều kiện thị trường Điều này đồng nghĩa với việc các khoản vay ODA hiện tại sẽ phải trả nợ nhanh gấp đôi hoặc lãi suất sẽ tăng từ 2 đến 3,5%.

2.1.1.3 Hiệu quả sử dụng nợ công:

Giai đoạn 2011 – 2016, 53% khoản vốn vay được sử dụng để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, trong khi chỉ 17% được đầu tư cho các dự án trọng điểm như giao thông, nông nghiệp, y tế và giáo dục Khoảng 30% còn lại chủ yếu được dùng cho vay lại, tập trung vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn như điện, dầu khí, hàng không và đường cao tốc, trong khi một phần nhỏ được sử dụng để đảo nợ Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng nợ công thấp và khả năng trả nợ gặp khó khăn, do phần lớn nợ công tập trung vào việc bù đắp bội chi ngân sách và đảo nợ, mà không tạo ra giá trị mới.

Hiệu quả đầu tư tại Việt Nam vẫn còn thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR trong những năm gần đây Cụ thể, giai đoạn 2011-2015, ICOR đạt 6,91, cải thiện so với 6,96 của giai đoạn 2006-2010 Tuy nhiên, chỉ số này vẫn cao và cho thấy hiệu quả đầu tư chưa đạt yêu cầu khi so sánh với nhiều nước trong khu vực cùng thời kỳ.

Giải ngân vốn vay hiện đang diễn ra chậm, gây lãng phí trong việc sử dụng nguồn vốn Mặc dù nhu cầu đầu tư cao, nhưng việc huy động vốn vay vẫn thấp và không được đưa vào sử dụng kịp thời Trong năm 2016, mặc dù giải ngân và phân bổ vốn đầu tư công đã tăng so với năm trước, nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, dẫn đến việc không tiêu hết dự toán Sự chậm trễ này ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn và công tác thu ngân sách nhà nước.

2.1.1.4 Tình hình trả nợ công:

Tỷ lệ trả nợ trực tiếp bình quân giai đoạn 2011-2015, khoảng 14,3% tổng thu NSNN.

Nếu tính cả nghĩa vụ trả nợ phải đảo nợ thì tỷ lệ trả nợ là 21% tổng thu NSNN Trong năm

Từ năm 2015, tỷ lệ nợ công đã tăng lên 27%, và năm 2016 là 26,3%, vượt mức trần tối đa 25% mà Quốc hội đề ra Đặc biệt, số tiền vay đảo nợ để trả nợ gốc hàng năm cũng gia tăng đáng kể Cụ thể, số vay đảo nợ năm 2012 chỉ là 20.000 tỷ đồng, nhưng đến năm 2015 đã tăng lên 125.000 tỷ đồng.

2.1.2 Nghiên cứu thực nghiệm tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế

Chọn mô hình hồi quy:

Gr_GDP= β0 + β1FDI + β2GOV+ β3CAP + β4log(GDP/CAP) + β5OPEN+ β6POP + β7INF + β8DEBT + β9sq_DEBT+ ε

Ma trận hệ số tương quan:

FDI GOV gr_GDP CAP DEBT

Bảng 3 Ma trận hệ số tương quan

Nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết khủng hoảng nợ công của một số nền

2.2.1 Giải pháp giảm nợ công Nhật Bản:

Công cụ hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề nợ công của Nhật Bản là tăng thuế, với khoảng 70% dân số chấp nhận mức thuế cao hơn nhằm khôi phục kinh tế quốc gia Hiện tại, doanh thu thuế chỉ đạt 17% GDP, thấp nhất trong các nước OECD, và việc tăng thuế tiêu dùng sẽ giúp Nhật Bản duy trì tăng trưởng và giảm thâm hụt ngân sách Cụ thể, thuế tiêu dùng đã được tăng lên 10% trong giai đoạn 2012-2016 để đảm bảo kinh phí cho phúc lợi xã hội trong bối cảnh dân số già hóa Nhật Bản cần ít nhất 23.000 tỷ yên (khoảng 288 tỷ USD) để tái thiết sau thảm họa kép động đất và sóng thần, và các nhà kinh tế cho rằng mỗi 1% tăng thuế tiêu dùng có thể thu được thêm 250 tỷ yên Thảm họa đã gây thiệt hại khoảng 2.500 tỷ yên, do đó, việc tăng thuế tiêu dùng thêm 3% sẽ giúp tăng thu 2.250 tỷ yên.

Để nâng cao năng suất và hiệu quả đầu tư công, Nhật Bản cần cắt giảm chi tiêu công và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả hơn Việc này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh dân số đang giảm, đòi hỏi cắt giảm các hạ tầng ít giá trị dựa trên phân tích chi phí-lợi nhuận Nhật Bản cũng có thể giảm chi tiêu công bằng cách điều chỉnh mức lương của khu vực công, vốn đang cao hơn so với khu vực tư nhân trong hơn một thập kỷ qua Nỗ lực này nên tập trung vào các đối tượng như chính quyền địa phương và doanh nghiệp nhà nước, nơi chiếm tới 90% tổng nhân lực khu vực công Tuy nhiên, mức độ cắt giảm chi tiêu sẽ có giới hạn do quy mô khu vực công tại Nhật Bản không chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế so với các quốc gia khác.

Vào tháng 6/2009, Chính phủ Nhật Bản đã đặt ra mục tiêu ổn định tài chính nhằm kiểm soát tăng trưởng nợ Chiến lược này sẽ được hỗ trợ thông qua cơ chế chia sẻ thâm hụt ngân sách giữa ngân sách trung ương và địa phương từ năm 2013 Kế hoạch đề ra mục tiêu giảm một nửa thâm hụt ngân sách vào năm 2015 và đạt thặng dư ngân sách từ năm 2019 Về dài hạn, cả chính quyền trung ương và địa phương của Nhật Bản dự kiến sẽ đạt trạng thái thặng dư vào năm tài khóa 2020.

2.2.2 Giải pháp giảm nợ công ở các nước Châu Âu:

Khác với Nhật Bản, Hy Lạp đang đối mặt với nguy cơ vỡ nợ, điều này có thể gây ra một phản ứng domino tài chính trong toàn EU và thậm chí trên toàn thế giới Mặc dù là một quốc gia nhỏ, nhưng tư cách thành viên của EU khiến tình hình trở nên nghiêm trọng hơn Để cứu vãn tình hình, các lựa chọn như cơ cấu tái cấp vốn và cắt giảm 50% số nợ cho Hy Lạp đã được đưa ra và thương lượng.

Theo phân tích của Der Spiegel, việc cắt giảm 50% nợ sẽ giúp Hy Lạp tự đứng vững và tránh được khủng hoảng nợ lan rộng, đe dọa nền kinh tế châu Âu Do đó, các ngân hàng và nhà đầu tư tư nhân buộc phải chấp nhận kế hoạch xóa nợ 50% từ EU Để thực hiện điều này, các ngân hàng cần tăng cường huy động vốn trên thị trường nhằm bù đắp thâm hụt vốn do giảm nợ.

Trước nguy cơ khủng hoảng nợ công ngày càng căng thẳng có thể gây ra hiệu ứng

Vào đầu tháng 5/2010, EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đồng ý cung cấp gói cứu trợ dài hạn trị giá 110 tỷ EUR (khoảng 136 tỷ USD) trong 3 năm để hỗ trợ Hy Lạp vượt qua khủng hoảng nợ công Ngày 10/5/2010, hai tổ chức này cũng đã thiết lập "Quỹ chống khủng hoảng" với tổng giá trị 750 tỷ EUR (1.000 tỷ USD), trong đó các nước châu Âu cam kết đóng góp 572 tỷ USD.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã công bố khoản vay mới trị giá 440 tỷ EUR và bổ sung 778 tỷ USD (60 tỷ EUR) cho chương trình vay hiện tại, đồng thời đóng góp 325 tỷ USD (250 tỷ EUR) cho gói cứu trợ Gói cứu trợ này có quy mô lớn hơn cả gói cứu trợ ngân hàng của Mỹ hai năm trước, nhằm củng cố niềm tin của thị trường Để nhận được gói cứu trợ khẩn cấp, chính quyền Athens đã đồng ý cắt giảm chi tiêu, bao gồm việc loại bỏ lương tháng thứ 13 và 14 cùng các khoản tiền thưởng khác của nhân viên nhà nước, trong khi lương sẽ không được tăng trong vòng 3 năm.

Lương hưu trong cả khu vực công và tư đều giảm đáng kể, trong khi thuế giá trị gia tăng tăng từ 21% lên 23% Đồng thời, chi phí cho quốc phòng và hệ thống y tế quốc gia cũng sẽ bị cắt giảm Kế hoạch khắc nghiệt này nhằm mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách của Hy Lạp xuống dưới 3%.

GPD vào năm 2014 và ngay lập tức đã gây ra làn sóng phản đối

Tây Ban Nha sẽ thực hiện các biện pháp cắt giảm 6 tỷ euro đầu tư công, giảm 5% lương nhân viên nhà nước, cũng như giảm lương hưu và đầu tư vào các chính quyền vùng, nhằm giảm thâm hụt ngân sách khoảng 15 tỷ euro trong giai đoạn 2010-2011, với mục tiêu đưa thâm hụt xuống còn 6% GDP vào năm 2011.

Chính phủ Bồ Đào Nha đã quyết định cắt giảm 5% tiền lương của công chức và quan chức nhà nước, bao gồm cả các bộ trưởng, đồng thời tăng thuế giá trị gia tăng lên 21% Thủ tướng Jose Socrates cam kết sẽ giảm thâm hụt ngân sách từ 9,4% năm 2009 xuống còn 4,6% vào cuối năm 2011, trong khi tăng thuế thu nhập từ 1-1,5% đối với những người có thu nhập cao.

Các nước châu Âu không chỉ dựa vào các gói cứu trợ tạm thời mà còn thực hiện các biện pháp tự cứu mình, chủ yếu là tăng thuế và cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ, bao gồm cả các chi phí vận hành bộ máy.

Ngày đăng: 11/10/2022, 08:37

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình1. Định nghĩa về khu vực công (IMF) - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Hình 1. Định nghĩa về khu vực công (IMF) (Trang 12)
Hình 2. Đường cong Laffer - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Hình 2. Đường cong Laffer (Trang 16)
Chạy phần mềm Gretl hồi quy mô hình bằng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) để ước lượng ra tham số của các mơ hình hồi quy đa biến - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
h ạy phần mềm Gretl hồi quy mô hình bằng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) để ước lượng ra tham số của các mơ hình hồi quy đa biến (Trang 18)
Bảng 2. Gánh nặng nợ công Việt Nam 2011-2016 - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Bảng 2. Gánh nặng nợ công Việt Nam 2011-2016 (Trang 19)
Hình 3. Tỷ lệ nợ cơng/GDP của 7 nước trong khu vực ASEAN (%) 2.1.1.2Về cơ cấu và kỳ hạn nợ công: - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Hình 3. Tỷ lệ nợ cơng/GDP của 7 nước trong khu vực ASEAN (%) 2.1.1.2Về cơ cấu và kỳ hạn nợ công: (Trang 20)
Hình 4. Tỷ trọng nợ cơng, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của Việt Nam 2011-2016 (%GDP) - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Hình 4. Tỷ trọng nợ cơng, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của Việt Nam 2011-2016 (%GDP) (Trang 21)
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan (Trang 23)
Bảng 4. Mô tả thống kê biến - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Bảng 4. Mô tả thống kê biến (Trang 25)
Bảng 5. Kết quả thống kê biến - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Bảng 5. Kết quả thống kê biến (Trang 26)
Hình 5. Khoảng tin cậy của hệ số ước lượng - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Hình 5. Khoảng tin cậy của hệ số ước lượng (Trang 27)
Do có 4 trong 9 thừa số tăng phương sai lớn hơn 10 nên mơhình xảy ra đa cộng tuyến khơng hồn hảo. - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
o có 4 trong 9 thừa số tăng phương sai lớn hơn 10 nên mơhình xảy ra đa cộng tuyến khơng hồn hảo (Trang 29)
Hình 6. Đồ thị phân phối chuẩn của nhiễu - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
Hình 6. Đồ thị phân phối chuẩn của nhiễu (Trang 30)
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ - (Tiểu luận FTU) NGHIÊN cứu tác ĐỘNG của nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM (1)
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ (Trang 42)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w