1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam

40 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bất Bình Đẳng Thu Nhập Ở Việt Nam
Tác giả Cao Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Hoa, Lê Hải Huệ, Phạm Thu Hương, Tạ Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Hường, Nguyễn Bảo Trang, Đỗ Thị Hồng Gấm
Người hướng dẫn ThS. Hoàng Bảo Trâm
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Kinh Tế Phát Triển
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2016
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 40
Dung lượng 417,83 KB

Cấu trúc

  • I. Tổng quan (7)
    • 1. Khái niệm (7)
    • 2. Các thước đo bất bình đẳng thu nhập trong xã hội (7)
      • 2.1 Đường cong Lorenz (7)
      • 2.2 Hệ số Gini (8)
      • 2.3 Tiêu chuẩn 40 của Ngân hàng thế giới (9)
  • II. Phân tích BBĐ thu nhập ở Việt Nam (9)
    • 1. Bất bình đẳng theo thu nhập chung của cả nước (9)
    • 2. Bất bình đẳng thu nhập theo dân tộc (14)
    • 3. BBĐ thu nhập theo khu vực (15)
      • 3.1 BBĐ giữa thành thị và nông thôn (15)
      • 3.2 BBĐ theo vùng địa lý (19)
    • 4. BBĐ thu nhập theo ngành kinh tế (21)
  • III. Nguyên nhân và ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập (23)
    • 1. Nguyên nhân (23)
      • 1.1 Sự khác nhau về sở hữu tư liệu sản xuất, cơ hội vươn lên (23)
      • 1.2 Chính sách của chính phủ (24)
      • 1.3 Sự khác nhau về điều kiện địa lý, phương thức sản xuất, phân bố dân cư. 25 (25)
      • 1.4 Do lạm phát cao (25)
    • 2. Ảnh hưởng (26)
  • IV. Mối quan hệ giữa BBĐ thu nhập và tăng trưởng kinh tế (27)
    • 1. Các mô hình về tăng trưởng kinh tế và BBĐ (27)
      • 1.1 Mô hình chữ U ngược của S.Kuznets (27)
      • 1.2 Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewi (28)
      • 1.3 Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H.Oshima (29)
      • 1.4 Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế (của ngân hàng thế giới WB) (30)
    • 2. Đánh giá mối quan hệ giữa BBĐ thu nhập và tăng trưởng kinh tế ở VN 30 V. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH (31)
    • 1. Đổi mới công tác đo lường, phân loại đối tượng thụ hưởng và cách thức hỗ trợ hướng đến giảm nghèo và giảm bất bình đẳng (34)
    • 2. Đặt trọng tâm vào giảm bất bình đẳng về cơ hội (35)

Nội dung

Tổng quan

Khái niệm

Bất bình đẳng thu nhập là sự chênh lệch kinh tế, thể hiện qua sự khác biệt về thu nhập giữa các cá nhân trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội Phân phối thu nhập trong bất kỳ xã hội nào, vào bất kỳ thời điểm nào, đều không đồng đều, dẫn đến sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo.

Sự chênh lệch kinh tế là điều không thể tránh khỏi trong mọi nền kinh tế, nhưng nếu khoảng cách này quá lớn sẽ gây ra bất ổn xã hội Hậu quả của tình trạng này là sự phân cực trong xã hội và tình trạng nghèo đói có thể di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Các thước đo bất bình đẳng thu nhập trong xã hội

Là đồ thị dùng để biểu diễn mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập

Đường Lorenz là một công cụ thể hiện tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập quốc dân được phân bổ cho các nhóm cư dân khác nhau Cụ thể, điểm giữa đường chéo cho thấy rằng 50% thu nhập được phân phối cho 50% dân số, minh họa cho sự phân phối thu nhập trong xã hội.

Khoảng cách giữa đường Lorenz và đường 45° phản ánh mức độ bất bình đẳng trong xã hội, với mức độ bất bình đẳng thu nhập càng lớn khi đường Lorenz càng xa đường 45° Điều này cho thấy phần trăm thu nhập mà người nghèo nhận được ngày càng giảm Mặc dù đường Lorenz là công cụ hữu ích để quan sát mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, nhưng nó cũng có những hạn chế, vì không thể lượng hóa chính xác mức độ bất bình đẳng trong các tình huống phức tạp.

Hệ số Gini (G) là một chỉ số phổ biến trong nghiên cứu kinh tế, được tính toán dựa trên đường Lorenz Nó phản ánh mức độ bất bình đẳng thu nhập trong xã hội bằng cách so sánh diện tích giữa đường Lorenz và đường 45 độ với diện tích tam giác nằm dưới đường 45 độ.

Hệ số Gini, theo lý thuyết, có giá trị từ 0 đến 1, nhưng thực tế cho thấy giá trị này dao động từ 0,2 đến 0,6, theo Ngân hàng Thế giới (WB) Ở các quốc gia có thu nhập thấp, hệ số Gini thường nằm trong khoảng 0,3 đến 0,5, trong khi ở các quốc gia có thu nhập cao, giá trị này dao động từ 0,2 đến 0,4.

Hệ số Gini là công cụ hiệu quả để đo lường mức độ bất bình đẳng thu nhập, khắc phục hạn chế của đường Lorenz Nó cho phép so sánh dễ dàng mức độ bất bình đẳng này theo thời gian cũng như giữa các khu vực, vùng và quốc gia khác nhau.

Mặc dù thước đo Gini là một công cụ hữu ích để đánh giá sự bất bình đẳng thu nhập, nhưng nó cũng có những hạn chế Cụ thể, chỉ số Gini có thể giống nhau khi diện tích A tương đương, nhưng sự phân bố thu nhập giữa các nhóm dân cư lại có thể khác nhau, thể hiện qua hình dáng khác nhau của đường Lorenz.

2.3 Tiêu chuẩn 40 của Ngân hàng thế giới Ngân hàng Thế giới (2003) đề xuất chỉ tiêu đánh giá tình trạng bất bình đẳng: tỷ trọng thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng số thu nhập toàn bộ dân cư Theo chỉ tiêu này có 3 mức độ bất bình đẳng cụ thể sau:

Tỷ trọng thu nhập có thể chỉ ra mức độ bất bình đẳng: nếu nhỏ hơn 12%, điều này cho thấy sự bất bình đẳng cao; trong khoảng 12% – 17% thể hiện mức độ bất bình đẳng trung bình; và khi lớn hơn 17%, cho thấy bất bình đẳng thấp.

Phân tích BBĐ thu nhập ở Việt Nam

Bất bình đẳng theo thu nhập chung của cả nước

Việt Nam hiện đang phát triển mạnh mẽ và được công nhận là một nền kinh tế năng động nhờ vào sự hội nhập sâu rộng với các khu vực thương mại toàn cầu Thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng, tính theo sức mua thực tế, đã tăng khoảng 6,4% mỗi năm.

Thu nhập thực tế bình quân đầu người/tháng

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Thu nhập thực tế bình quân đầu người/tháng (nghìn đồng)

Trong suốt nửa thế kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững, với tỷ lệ nghèo giảm từ 58% vào đầu những năm 90 xuống chỉ còn 10% vào năm 2012 Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đã dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, với tình trạng bất bình đẳng thu nhập có xu hướng gia tăng Để làm rõ vấn đề này, chúng ta sẽ phân chia dân số Việt Nam thành 5 nhóm thu nhập tăng dần và so sánh sự chênh lệch giữa các nhóm này.

Thu nhập thực tế bình quân đầu người/tháng phân theo 5 nhóm thu nhập như sau:

N1: Nhóm nghèo; N2: Nhóm cận nghèo; N3: Nhóm trung bình; N4: Nhóm khá;

N5: Nhóm giàu. Đơn vị tính: nghìn đồng

N5 1541,7 2458,2 3410,2 4784,5 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Với dân số Việt Nam qua các năm tương ứng là :

Nguồn: World Bank Nhóm rút ra Tổng thu nhập thực tế/tháng mà mỗi nhóm nắm giữ như sau: Đơn vị tính: nghìn đồng

Tổng thu nhập thực tế/tháng của các nhóm thu nhập

Từ năm 2006 đến 2012, mức sống của các nhóm dân cư tại Việt Nam đã tăng lên khoảng 3,3 lần, nhưng hệ số chênh lệch thu nhập giữa 20% dân số giàu nhất và 20% nghèo nhất vẫn không giảm, đạt 9,35 lần vào năm 2012, so với 9,23 lần năm 2010 và 8,94 lần năm 2008 Điều này cho thấy thu nhập tuyệt đối tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng, với thực tế là người giàu ngày càng giàu nhanh hơn người nghèo.

Cũng từ bảng trên, nhóm xây dựng được bộ số liệu để vẽ đường Lorenz năm

Năm 2012 % trong tổng thu nhập

Đồ thị cho thấy tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam, với 20% dân số nghèo nhất chỉ nắm giữ khoảng 5% tổng thu nhập quốc dân, trong khi nhóm giàu nhất chiếm gần 50% Đường Lorenz cho thấy sự chênh lệch rõ rệt về mức sống giữa người giàu và người nghèo Hệ số Gini được tính toán là khoảng 0,4, nằm trong khoảng từ 0,4 đến 0,5, cho thấy mức độ bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam đang ở mức trung bình.

Dưới đây là hệ số Gini qua các năm:

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, hệ số Gini ở Việt Nam đã tăng đều qua các năm, cho thấy sự gia tăng nhẹ của bất bình đẳng Kể từ năm 2008, chỉ số này đã vượt qua ngưỡng 0,4, mức cảnh báo do Liên hợp quốc thiết lập Nguyên nhân của sự gia tăng bất bình đẳng này sẽ được phân tích chi tiết trong các phần tiếp theo.

Xét bảng tỷ trọng thu nhập của 40% dân số trong tổng thu nhập:

Nguồn: Tổng cục thống kê

Theo dữ liệu từ bảng trên, thu nhập của 40% dân số nghèo nhất đang có xu hướng giảm dần theo thời gian Điều này phù hợp với tiêu chuẩn 40 mà Ngân hàng Thế giới đã đề cập trong chương 1.

2008, thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất đã xuống dưới mức 17%,đưa bất bình đẳng ở Việt Nam lên mức bất bình đẳng vừa.

Bất bình đẳng thu nhập theo dân tộc

Bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam đang gia tăng, đặc biệt là giữa các nhóm dân tộc thiểu số và dân tộc đa số, với mức thu nhập bình quân và tăng trưởng thu nhập của các nhóm thiểu số ngày càng tụt hậu Xu hướng này cho thấy sự chuyển dịch từ bất bình đẳng giữa khu vực nông thôn và thành thị sang bất bình đẳng giữa người Kinh, Hoa và các dân tộc thiểu số Điều này tạo ra một thách thức lớn trong việc xóa bỏ bất bình đẳng, khi sự chênh lệch này ngày càng trở nên rõ rệt hơn.

Khoảng cách thu nhập giữa nhóm nghèo nhất của dân tộc thiểu số và nhóm nghèo nhất của dân tộc đa số đã gia tăng từ 1,4 lần vào năm 2004 lên 2,1 lần vào năm 2010 Sự chênh lệch này phản ánh hạn chế về trình độ học vấn, cơ hội tiếp cận vốn sản xuất và việc làm phi nông nghiệp của người dân tộc thiểu số Năm 2010, chỉ 28,8% hộ dân tộc thiểu số có lao động làm công ăn lương, so với 60,5% ở nhóm dân tộc đa số Dù sự chênh lệch về mức lương có thể giải thích bằng trình độ học vấn và kinh nghiệm, nhưng mức lương vẫn khác biệt rõ rệt giữa những lao động có cùng trình độ Việc người dân tộc thiểu số chủ yếu sống bằng nông nghiệp với năng suất thấp đã làm gia tăng khoảng cách thu nhập Tình hình này cho thấy nguy cơ ngày càng cao của người dân tộc thiểu số trong tổng số người nghèo, với tỷ lệ nghèo của người Kinh là 7,0% và của các dân tộc thiểu số là 34,1% vào năm 2010.

Những nghiên cứu thống kê hiện nay chỉ ra rằng:

- Đồng bào thiểu số chỉ chiếm khoảng 15% dân số cả nước nhưng lại số người nghèo lại chiếm gần 50% tổng số người nghèo cả nước.

- Tốc độ giảm nghèo của dân tộc thiểu số cũng chậm hơn người Kinh, Hoa Tỷ lệ nghèo của người dân tộc thiểu số từ 86,4% năm 1993 giảm còn 52,3% năm

2006 ( trung bình giảm 2,4%/năm) Trong khi đó, tỷ lệ nghèo của dân tộc Kinh,Hoa năm 1993 là 53,9%, đến năm 2006 giảm chỉ còn 10,36% (trung bình giảm3,15%)

BBĐ thu nhập theo khu vực

Đơn vị tính: nghìn VNĐ

Theo bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy có sự chênh lệch thu nhập ngày càng gia tăng giữa thành thị và nông thôn:

Chênh lệch thu nhập tuyệt đối giữa thành thị và nông thôn

Tỷ số thu nhập bình quân đầu người thành thị/Nông thôn

Sự bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn đang gia tăng đáng kể, với thu nhập bình quân đầu người ở thành phố gấp đôi so với khu vực nông thôn Trong giai đoạn từ 2004 đến 2014, mức độ chênh lệch tuyệt đối giữa hai khu vực này đã tăng nhanh, đạt khoảng 1 triệu đồng.

Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn

(*) Tỷ lệ hộ nghèo được tính theo thu nhập bình quân 1 ngýời 1 tháng của hộ gia đình:

(1) Nãm 2002 trở về trước theo các chuẩn: 1998: 149 nghìn đồng; 2002: 160 nghìn đồng;

(2) Tỷ lệ hộ nghèo năm 2004, 2006, 2008 tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2006-2010 có điều chỉnh theo trượt giá nhý sau:

2004: 170 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn, 220 nghìn đồng đối với khu vực thành thị;

2006: 200 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn, 260 nghìn đồng đối với khu vực thành thị;

2008: 290 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn, 220 nghìn đồng đối với khu vực thành thị;

(3) Tỷ lệ hộ nghèo nãm 2010 và 2011 tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2011-2015 nhý sau:

2010: 400 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 500 nghìn đồng đối với khu vực thành thị;

2011: 480 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 600 nghìn đồng đối với khu vực thành thị;

2012: 530 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 660 nghìn đồng đối với khu vực thành thị;

2013: 570 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 710 nghìn đồng đối với khu vực thành thị;

2014: 605 nghìn đồng đối với khu vực nông thôn và 750 nghìn đồng đối với khu vực thành thị.

($) GĐ 2016- 20202015: quy định chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn là 700.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị 900.000 đồng/người/tháng

Nhận xét: Tỷ lệ nghèo tuy có giảm ở cả thành thị và nông thôn nhưng tỷ lệ nghèo vẫn còn cao.

Không chỉ có BBĐ giữu thành thị và nông thôn, mà tại thành thị và nông thôn cũng xảy ra BBĐ thu nhập

Bảng thống kê cho thấy sự chênh lệch thu nhập bình quân giữa khu vực nông thôn và thành thị, cũng như giữa nhóm người giàu nhất và nghèo nhất trong ngũ phân vị ở cả hai khu vực này Điều này phản ánh rõ nét tình trạng bất bình đẳng thu nhập trong xã hội, với những khác biệt đáng kể giữa các nhóm dân cư.

Năm TT: Nhóm 5/ nhóm 1 NT: Nhóm 5/ Nhóm1

(Nhóm 5: nhóm thu nhập cao nhất; Nhóm 1: nhóm thu nhập thấp nhất)

7.1 5.4 5.8 6.1 6.3 6 6.4 6.5 6.9 7.5 8 tỉ số thành thị nông thôn

Nguồn: tính toán theo số liệu của TCTK qua các năm

Nhận xét cho thấy rằng trong những năm qua, tỉ số biến động thu nhập không lớn Bất bình đẳng thu nhập gia tăng trong khu vực nông thôn, trong khi đó, tại thành phố lại có xu hướng giảm Đồng thời, mức chênh lệch thu nhập trung bình giữa nông thôn và thành thị cũng đang dần thu hẹp.

3.2 BBĐ theo vùng địa lý

Bảng thu nhập bình quân đầu người/ tháng Đơn vị tính: nghìn VNĐ

Trung du và miền núi phái Bắc 237 327 442 657 905 1258 1613

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền

Tây Nguyên 244 390 522 795 1088 1643 2008 Đông Nam Bộ 667 893 1146 1773 2304 3173 4124 Đồng bằng sông Cửu Long 371 471 628 940 1247 1797 2326

Khu vực Đông Nam Bộ là vùng phát triển nhất cả nước, với người dân có thu nhập cao nhất Ngược lại, Trung du miền núi Bắc Bộ lại có thu nhập thấp nhất, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các vùng miền trong cả nước.

Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa khu vực Đông Nam Bộ và Trung du, miền núi Bắc Bộ vẫn còn cao, mặc dù có xu hướng giảm Mức chênh lệch này dao động từ 2,5 đến 3 lần, cho thấy sự bất bình đẳng trong phát triển kinh tế giữa các vùng miền.

Tỷ lệ hộ nghèo phân theo vùng địa lý

Trung du và miền núi phía

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 35,7 25,3 22,2 19,2 20,4 18,5 16,1 14 11,8

Tây Nguyên 51,8 29,2 24 21 22,2 20,3 17,8 16,2 13,8 Đông Nam Bộ 8,2 4,6 3,1 2,5 2,3 1,7 1,3 1,1 1 Đồng bằng sông Cửu Long 23,4 15,3 13 11,4 12,6 11,6 10,1 9,2 7,9

Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm trên toàn quốc, nhưng tình trạng nghèo vẫn chủ yếu tập trung ở khu vực Trung du và miền núi Bắc Bộ, với tỷ lệ cao khoảng 20%.

Trong khi đó, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo chỉ khoảng 1%

Vùng Chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1(thunhập cao nhất và thấp nhất)

Tây Nguyên 6,4 8,6 Đông Nam Bộ 9,0 7,3 Đb sông Cửu long 6,8 7,7

Bảng thống kê cho thấy sự chênh lệch thu nhập giữa các nhóm giàu nhất và nghèo nhất trong ngũ phân vị tại 8 vùng trong giai đoạn 2002 – 2012 Dữ liệu được thu thập từ Tổng cục Thống kê qua các năm, phản ánh rõ nét tình hình kinh tế và khoảng cách thu nhập giữa các nhóm xã hội.

Tăng trưởng thu nhập ở Đông Bắc chậm hơn so với các vùng khác trong cả nước, trong khi vùng đồng bằng sông Hồng và Tây Nguyên có mức tăng trưởng cao hơn nhiều so với mức trung bình 8% Sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng là rõ rệt, với Đông Nam Bộ dẫn đầu về tăng trưởng thu nhập, đạt khoảng 11%.

Chênh lệch thu nhập trung bình giữa các vùng tại Việt Nam rất rõ rệt, với Đông Nam Bộ có thu nhập đầu người cao nhất, đạt 3.016.400 đồng mỗi tháng, gấp 1,5 lần mức thu nhập trung bình toàn quốc là 1.999.800 đồng Trong khi đó, vùng có thu nhập thấp nhất là Tây Bắc chỉ đạt 999.800 đồng, thấp hơn hơn 3 lần so với Đông Nam Bộ (TCTK, 2013).

Trong giai đoạn 2002 - 2012, khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa các vùng không thay đổi nhiều, nhưng bất bình đẳng thu nhập trong nội vùng lại gia tăng Cụ thể, chênh lệch thu nhập giữa Đông Nam Bộ và Tây Bắc luôn duy trì ở mức khoảng 3 lần, trong khi đó chênh lệch giữa Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ xấp xỉ 2,25 lần Đồng thời, Đông Nam Bộ so với Đồng bằng sông Hồng khoảng 1,25 lần, và Đồng bằng sông Hồng so với Đồng bằng sông Cửu Long cũng ở mức tương tự Bất bình đẳng thu nhập nội vùng có xu hướng gia tăng nhanh ở những khu vực khó khăn, trong khi ở những vùng có cơ sở hạ tầng và điều kiện kinh tế, xã hội tốt hơn, mức độ này có xu hướng gia tăng chậm hơn hoặc thậm chí giảm.

BBĐ thu nhập theo ngành kinh tế

Ngành ngân hàng có sự chênh lệch đáng kể về thu nhập giữa nhân viên các ngân hàng lớn và nhỏ Vào mùa báo cáo thường niên hàng năm, khoảng tháng 6-7, nhiều người thường cảm thấy chạnh lòng khi so sánh mức thu nhập này.

Theo báo cáo thường niên, thu nhập bình quân của nhân viên Vietinbank trong 6 tháng đầu năm 2013 đạt 21,01 triệu đồng/tháng, trong khi Vietcombank đạt 19 triệu đồng/tháng Đặc biệt, MBBank dẫn đầu nhóm ngân hàng ngoài quốc doanh với mức thu nhập 18 triệu đồng/tháng Ngược lại, các ngân hàng nhỏ như Phương Tây, Phương Đông, HDBank chỉ đạt khoảng 5 triệu đồng/tháng Điều này cho thấy thu nhập bình quân đầu người của nhóm ngân hàng lớn gấp 2 - 3 lần so với nhóm ngân hàng nhỏ.

Theo báo cáo thường niên 6 tháng đầu năm 2013, thu nhập bình quân của các tập đoàn trong lĩnh vực dầu khí và bưu chính - viễn thông cho thấy sự chênh lệch rõ rệt TNBQĐN của Viettel và Công ty Tân Cảng Sài Gòn đạt khoảng 18 triệu đồng/tháng, cao hơn so với mức trung bình 10 triệu đồng/tháng tại FPT và VNPT Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đạt trên 15 triệu đồng/tháng, trong khi lãnh đạo Vinafood 1 có thu nhập bình quân 56,5 triệu đồng/người/tháng, và khối văn phòng là 28,4 triệu đồng/người/tháng Tổng công ty Vinafood 2 lập kỷ lục với 79,749 triệu đồng/người/tháng, khối văn phòng đạt 32,9 triệu đồng/người/tháng Đặc biệt, một số cá nhân như Chủ tịch kiêm CEO Công ty cổ phần Cơ điện lạnh REE có mức lương khoảng 100 triệu đồng/tháng, và Chủ tịch kiêm CEO Công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) nhận 121 triệu đồng/tháng Chủ tịch HĐQT Petrolimex có thu nhập hơn 50 triệu đồng/tháng, trong khi Phó Tổng giám đốc Petrolimex nhận 40 triệu đồng/tháng.

So với mức thu nhập trung bình toàn quốc là 2,2 triệu đồng/người/tháng, thu nhập tại các ngân hàng và tập đoàn lớn cao gấp từ 2 đến 8 lần Đặc biệt, sự chênh lệch giữa người có thu nhập cao nhất và thấp nhất trong lĩnh vực này còn lớn hơn nhiều.

Khối hành chính sự nghiệp có mức thu nhập bình quân đầu người khác nhau tùy theo ngành nghề Trong năm 2011-2012, thu nhập của các trường đại học cao đẳng dao động từ 3,5 - 8,5 triệu đồng/người/tháng, trong khi các trường mẫu giáo mầm non chỉ đạt 1,5 - 2,5 triệu đồng/người/tháng Các bệnh viện tuyến trung ương có mức thu nhập từ 1,8 - 8 triệu đồng/người/tháng, còn các bệnh viện tuyến địa phương đạt 1,4 - 4 triệu đồng/người/tháng Các viện nghiên cứu có thu nhập từ 2,5 - 7 triệu đồng/tháng Nhìn chung, khối này có mức thu nhập tương đối thấp, người lao động chủ yếu làm công ăn lương với việc làm ổn định nhưng mức sống không cao.

Khối nông lâm - ngư - nghiệp thuộc khu vực kinh tế tập thể đã tổng kết hoạt động sản xuất nông nghiệp, cho biết thu nhập bình quân trong 6 tháng đầu năm 2013 của NLĐ đạt 3-5 triệu đồng/người/tháng, trong khi lương bình quân của cán bộ HTX nông nghiệp chỉ đạt 1,6 triệu đồng/tháng Nhiều lao động hợp đồng và theo mùa vụ có thu nhập thấp hơn do hình thức khoán, và một số lao động tạm ngừng việc không có thu nhập, dẫn đến đời sống khó khăn Khối này có thu nhập bình quân thấp nhất, không đảm bảo mức sống trung bình cho người dân, vì vậy việc nâng cao thu nhập cho khối nông lâm - ngư - nghiệp đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm.

Nguyên nhân và ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập

Nguyên nhân

Bất bình đẳng thu nhập xuất phát từ sự khác nhau trong việc sở hữu các yếu tố sản xuất như lao động, vốn và đất đai Trong quá trình cải cách kinh tế và hội nhập toàn cầu, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng, dẫn đến sự giàu có cho một số người, trong khi nhiều người khác vẫn nghèo đói và không thể theo kịp sự phát triển chung Mặc dù tăng trưởng kinh tế lý thuyết mang lại cơ hội cho tất cả mọi người, thực tế cho thấy rằng cơ hội và thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc vào xuất phát điểm khác nhau Một số người có tư liệu sản xuất nhờ nhà nước cấp phát, trong khi những người khác có được thông qua tích lũy, thừa kế hoặc thu hút đầu tư Sự đa dạng trong hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường dẫn đến sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế với hiệu quả khác nhau.

Sự chênh lệch thu nhập trong xã hội không chỉ phụ thuộc vào việc sở hữu tư liệu sản xuất mà còn bị ảnh hưởng bởi cách sử dụng các nguồn lực như đất đai và kỹ thuật Dù nhiều người có khả năng huy động vốn và lao động tương đương, nhưng nhận thức, giáo dục và trình độ chuyên môn khác nhau góp phần tạo ra bất bình đẳng trong thu nhập.

Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng đã thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ mới và cải cách tổ chức sản xuất Chỉ những người được đào tạo và có tay nghề mới có khả năng đảm nhận các công việc phức tạp Theo TCTK năm 2013, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 18%, dẫn đến việc nhóm lao động này có thu nhập cao hơn nhiều so với lao động giản đơn, từ đó làm gia tăng khoảng cách thu nhập.

1.2 Chính sách của chính phủ

Nguyên nhân thứ hai liên quan đến hiệu quả của các thể chế chính sách tái phân phối thu nhập của Nhà nước Thông qua hệ thống thuế, chuyển giao lũy tiến, và các chương trình trợ cấp, Nhà nước có thể cải thiện cơ hội tiếp cận giáo dục và nâng cao thu nhập cho người nghèo, đồng thời chuyển một phần thu nhập từ người giàu sang người nghèo để đạt được bình đẳng hơn Để giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 15% vào năm 2010, Chính phủ đã đầu tư 60.000 đến 62.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng những thay đổi nhỏ trong chính sách thường chỉ mang lại lợi ích hạn chế cho người nghèo, trong khi người giàu lại tiếp tục hưởng lợi nhiều hơn, đặc biệt là từ những khoản thất thoát trong hỗ trợ người nghèo của chương trình 135.

1.3 Sự khác nhau về điều kiện địa lý, phương thức sản xuất, phân bố dân cư.

Các vùng có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội thuận lợi thường phát triển nhanh chóng, với năng suất lao động cao và khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư tốt Tốc độ tăng trưởng nhanh này dẫn đến thu nhập của dân cư cao hơn so với những vùng gặp khó khăn và có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt Ngược lại, sự chênh lệch giữa các vùng càng lớn sẽ làm tăng nguy cơ tụt hậu cho các vùng chậm phát triển.

Các vùng có trình độ phát triển thấp như Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, cùng với Tây Nguyên, thường gặp khó khăn trong việc phát triển kinh tế do địa hình hiểm trở, chia cắt và thiên tai như lũ lụt, hạn hán Dân cư ở những khu vực này phân bố thưa thớt và chủ yếu là các dân tộc thiểu số với nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ phát triển hạn chế Ngược lại, Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long có điều kiện thuận lợi, dẫn đến tốc độ phát triển nhanh và thu nhập ổn định cho mật độ dân cư dày đặc.

Lạm phát làm giảm sức mua của người nghèo, khiến họ ngày càng nghèo hơn so với những người khác Giá cả tăng ảnh hưởng đến mọi tần lớp, nhưng người giàu ít bị tác động do thu nhập ổn định hơn Ngược lại, người nghèo chủ yếu chi tiêu từ thu nhập hàng ngày, vì vậy khi giá cả tăng cao, họ càng rơi vào cảnh nghèo đói Đặc biệt, lạm phát cao trong năm 2007-2008 đã làm giảm đáng kể thu nhập của phần lớn người dân Việt Nam, với tỷ lệ lạm phát lên tới 19,89% vào năm 2008, dẫn đến khoảng cách giàu nghèo ngày càng nới rộng.

Ảnh hưởng

Theo số liệu khảo sát mới nhất của Cục Thống kê, sự chênh lệch thu nhập giữa thành phố và nông thôn, cũng như giữa các nhóm dân cư giàu và nghèo, đặc biệt là ở vùng trung du và miền núi phía Bắc, đã dẫn đến sự khác biệt rõ rệt về mức sống Chi tiêu trung bình ở khu vực nông thôn chỉ khoảng 950 nghìn đồng/tháng, trong khi ở thành phố là 1,828 triệu đồng/tháng Đáng chú ý, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên không có bằng cấp trong nhóm hộ nghèo nhất lên tới 38,2%, cao gấp 4,8 lần so với nhóm hộ giàu nhất Ngược lại, tỷ lệ người có bằng cao đẳng trở lên ở nhóm hộ giàu nhất gấp 60 lần so với nhóm nghèo Về y tế, chi tiêu bình quân cho chăm sóc sức khỏe của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 3,8 lần nhóm hộ nghèo nhất và cao hơn 1,43 lần so với hộ nông thôn Ngoài ra, gần 9% hộ dân ở vùng trung du và miền núi phía Bắc vẫn chưa được sử dụng điện lưới, trong khi 89,5% chưa có nước máy.

Sự chênh lệch thu nhập quá lớn giữa các vùng miền dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, khiến nhiều người dân phải di cư đến các khu vực có cơ hội việc làm cao hơn, thậm chí chấp nhận những công việc mạo hiểm hoặc bất hợp pháp để cải thiện thu nhập Tình trạng này không chỉ gây ra những hệ lụy nghiêm trọng về môi trường và an sinh xã hội, mà còn tạo ra khó khăn trong công tác quản lý dân cư Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước đang nỗ lực tìm kiếm giải pháp để thu hẹp khoảng cách thu nhập, nhằm ngăn chặn mâu thuẫn xã hội do sự chênh lệch mức sống và tình trạng sống không ổn định của một bộ phận dân cư.

Mối quan hệ giữa BBĐ thu nhập và tăng trưởng kinh tế

Các mô hình về tăng trưởng kinh tế và BBĐ

Tăng trưởng kinh tế có tác động đáng kể đến bất bình đẳng thu nhập, và câu hỏi đặt ra là liệu có cần phải lựa chọn giữa việc hạn chế bất bình đẳng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay không Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để phân tích mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu bốn mô hình phân tích mối quan hệ này.

1.1 Mô hình chữ U ngược của S.Kuznets:

S.Kuznets là người đầu tiên đề cập đến mối liên hệ giữa BBĐ và tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu “Tăng trưởng kinh tế và BBĐ thu nhập” của ông năm

1955 đặt nền tảng cho các nghiên cứu về mối quan hệ này.

Nghiên cứu thực nghiệm này chỉ ra mối quan hệ giữa bình quân thu nhập và tăng trưởng kinh tế theo hình chữ U ngược, tương ứng với giả thuyết Kuznets Cụ thể, bình quân thu nhập tăng lên ở giai đoạn đầu và sau đó giảm khi lợi ích từ tăng trưởng kinh tế được phân phối rộng rãi hơn.

Trong thực nghiệm, Kuznets dùng tỷ số thu nhập của 20% giàu nhất/thu nhập của 60% nghèo nhất (Tỷ số Kuznets) để nghiên cứu.

Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để xác thực giả thuyết Kuznets, trong đó có nghiên cứu của Bigsten và Levin, với các kết quả khác nhau.

Nghiên cứu của Ahlwalia (1976) cho thấy rằng BBĐ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tốt hơn, từ đó góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo, đặc biệt trong giai đoạn đầu phát triển của các nước nghèo Ông đã phân tích số liệu phân phối thu nhập của hơn 60 quốc gia và đạt được kết quả tương tự như Kuznets, nhưng với những thông tin cụ thể hơn.

Giả thuyết Kuznets chưa giải thích rõ nguyên nhân cơ bản gây ra sự thay đổi trong bất bình đẳng và mức độ khác biệt giữa các quốc gia khi áp dụng các chính sách khác nhau ảnh hưởng đến tăng trưởng và bất bình đẳng Thiếu những cơ sở này, chúng ta chưa thể khẳng định được các kết luận liên quan.

 Liệu các nước có thu nhập thấp tất yếu phải chấp nhận mức độ bất bình đẳng tăng lên trong quá trình tăng trưởng kinh tế hay không ?

 Các nước đang phát triển có thể trông đợi rằng bất bình đẳng sẽ tự giảm đi khi tăng trưởng đạt tới một mức độ nhất định hay không ?

1.2 Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewi:

Mô hình A Lewis dựa trên giả định của Kuznets, nhưng đã cung cấp lý do giải thích cho xu hướng này.

Theo ông, ban đầu, lao động dư thừa trong nông nghiệp chuyển sang ngành công nghiệp với

Ông nhấn mạnh rằng vấn đề cốt lõi trong lý thuyết phát triển kinh tế là xã hội cần tăng tỷ lệ tiết kiệm từ 4-5% lên 12-15% để thúc đẩy đầu tư.

Tăng trưởng kinh tế dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ thu nhập của 10% dân số, khi nhóm này chiếm đến 40% hoặc hơn trong tổng thu nhập quốc dân tại các quốc gia dư thừa lao động Điều này cho thấy rằng bất bình đẳng trong thu nhập không chỉ là hệ quả của sự phát triển kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng.

Vì vậy việc phân phối lại thu nhập một cách hấp tấp và vội vã sẽ ‘bóp nghẹt” tăng trưởng kinh tế.

1.3 Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H.Oshima:

H.Oshima là một nhà kinh tế học Nhật Bản, ông cho rằng có thể hạn chế bất bình đẳng ngay từ giai đoạn đầu của tăng trưởng bằng cách: Ban đầu, cải thiện khoảng cách giữa thu nhập ở thành thị và ở nông thôn dựa trên chính sách cải cách ruộng đất, trợ giúp của Nhà nước về giống, kỹ thuật, mở rộng ngành nghề để cải thiện thu nhập ở nông thôn; Sau đó, cải thiện khoảng cách về thu nhập giữa xí nghiệp có quy mô lớn và quy mô nhỏ ở thành thị, giữa trang trại lớn và trang trại nhỏ ở nông thôn.

Tập trung cải thiện thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua việc mở rộng và phát triển ngành nghề sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong thời gian nhàn rỗi Tiến hành đa dạng hóa nông nghiệp và tăng cường việc làm phi nông nghiệp sẽ giúp lao động chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, từ đó nâng cao mức lương thực tế Điều này không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị trường cho các ngành công nghiệp và dịch vụ mà còn góp phần thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị, đảm bảo sự phát triển kinh tế đi đôi với công bằng xã hội.

Theo H.Oshima, tiết kiệm sẽ gia tăng ở mọi nhóm dân cư khi họ đã đáp ứng các khoản chi tiêu cần thiết Sau khi chi tiêu được thỏa mãn, các nhóm này sẽ bắt đầu tiết kiệm và tiếp tục đầu tư vào sản xuất cũng như giáo dục và đào tạo cho thế hệ kế tiếp.

1.4 Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế (của ngân hàng thế giới WB):

Nguyên nhân cơ bản của bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo WB là do bất bình đẳng trong sở hữu tài sản Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi với bình đẳng, cần thực hiện phân phối lại các thành quả tăng trưởng sao cho cải thiện hoặc ít nhất không làm xấu đi phân phối thu nhập trong quá trình phát triển Việc này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó lựa chọn các giải pháp chính sách phân phối lại là rất quan trọng, bao gồm chính sách phân phối lại tài sản và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng.

Phân phối lại tài sản là một yếu tố quan trọng trong việc cải cách ruộng đất, nhằm tạo ra cơ hội giáo dục cho nhiều người Đồng thời, việc tăng cường tín dụng nông thôn và áp dụng các chính sách tiêu thụ nông sản cũng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế Bên cạnh đó, chính sách công nghệ hỗ trợ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Đánh giá mối quan hệ giữa BBĐ thu nhập và tăng trưởng kinh tế ở VN 30 V MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Bất bình đẳng về thu nhập xuất phát từ bất bình đẳng cơ hội, đặc biệt là cơ hội phát triển vốn con người thông qua giáo dục Để giảm bất bình đẳng thu nhập, cần tập trung vào việc tăng cường cơ hội tiếp cận giáo dục Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là rất quan trọng; tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với sự bình đẳng trong phân phối thu nhập Lợi ích từ tăng trưởng cần được phân phối lại một cách công bằng, thông qua chính sách phân phối tài sản và dịch vụ công, nhằm nâng cao cơ hội giáo dục và chăm sóc y tế cho mọi người Đây là nguyên tắc quan trọng cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa thực hiện tốt điều này, khi mà mặc dù kinh tế tăng trưởng, nhưng bất bình đẳng thu nhập vẫn tồn tại và có xu hướng gia tăng ở một số khía cạnh.

Ngân hàng Thế giới (NHTG, 2014) ghi nhận rằng Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng cao, trong khi sự chênh lệch về thu nhập chỉ tăng "khiêm tốn" Cụ thể, từ năm 1993 đến 2012, thu nhập bình quân của 40% dân số có thu nhập thấp nhất tại Việt Nam tăng 9% mỗi năm, đây là một trong những tỷ lệ tăng cao nhất trên thế giới cho nhóm này.

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang phải đối mặt với những quan ngại về bất bình đẳng phát triển (BBĐ) do sự chênh lệch kinh tế giữa các nhóm dân tộc và vùng miền Khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, với thu nhập trung bình của 20% hộ gia đình giàu nhất gấp 8,5 lần so với 20% hộ nghèo nhất trong giai đoạn 2004-2010 Trong khi nhóm giàu có tốc độ tăng thu nhập hàng năm đạt 9%, nhóm nghèo chỉ tăng 4% Đặc biệt, các nhóm dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng bị tụt hậu trong quá trình tăng trưởng, dẫn đến tình trạng nghèo đói ngày càng tập trung trong các cộng đồng này.

Từ năm 1998 đến 2010, tỷ lệ người dân tộc thiểu số (DTTS) trong tổng số người nghèo tại Việt Nam đã tăng từ 29% lên 47% Đặc biệt, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2014, số lượng người siêu giàu ở Việt Nam ước tính đạt 110, gấp ba lần so với chỉ 34 người siêu giàu vào năm 2003.

Mặc dù số lượng người siêu giàu ở Việt Nam tăng lên theo báo cáo của NHTG, nhưng số hộ nghèo cũng đang gia tăng Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, số hộ nghèo đã tăng lên 1 triệu hộ, tăng 50% sau khi mức chuẩn nghèo được điều chỉnh vào năm 2010 Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 14,2% năm 2010 xuống 7,8% năm 2013, nhưng theo chuẩn nghèo đa chiều mới, tỷ lệ này đã quay về mức năm 2010 sau năm năm nỗ lực Tình trạng tái nghèo cũng diễn ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương, cho thấy việc giảm nghèo tại Việt Nam vẫn chưa thực sự bền vững.

Cơ cấu thu nhập tại Việt Nam đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ, với tỷ lệ thu từ tiền lương, tiền công gia tăng, trong khi thu từ nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm Các hoạt động công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đóng góp rất ít vào tổng thu nhập của nhóm nghèo nhất, chỉ đạt 2% vào năm 2012, so với gần 5% ở nhóm giàu nhất Mặc dù hệ số chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn đã giảm 17,4%, từ 2,3 lần xuống còn 1,9 lần trong giai đoạn 2002-2012, nhưng mức chênh lệch tuyệt đối về thu nhập bình quân đầu người hàng tháng lại tăng đến 406% Tốc độ tăng trưởng thu nhập của 10% hộ nghèo nhất ở nông thôn chưa bằng một nửa so với 10% hộ giàu nhất trong giai đoạn 2004-2012 Mặc dù công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm hơn 70-80% tổng đầu tư xã hội hàng năm, nhưng những thành quả của đổi mới và phát triển kinh tế vẫn chưa đến tay người nghèo ở vùng nông thôn và vùng sâu, xa.

Tình trạng gia tăng bất bình đẳng đang diễn ra, đặc biệt là việc gia tăng số hộ nông thôn không có đất, từ 17% năm 1993 lên 40% năm 2004, chủ yếu do sự phát triển của các dự án công nghiệp và bất động sản Trong khi khoảng cách giàu/nghèo ở khu vực thành thị có xu hướng giảm, thì ở khu vực nông thôn lại gia tăng, dẫn đến sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền không được cải thiện Điều này tạo ra nhiều hệ lụy cho phát triển kinh tế - xã hội và chất lượng cuộc sống, đặc biệt là đối với các hộ gia đình dân tộc thiểu số và những người có trình độ học vấn thấp, khi họ ít có cơ hội hưởng lợi từ quá trình chuyển dịch sang khu vực phi nông nghiệp.

V MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Dựa trên kết quả nghiên cứu về "nhận thức về bất bình đẳng", một số khuyến nghị đã được đưa ra nhằm phục vụ cho thảo luận chính sách ở cấp tỉnh và trung ương Những khuyến nghị này đặc biệt quan trọng trong việc thảo luận với Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội và các cơ quan Chính phủ như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đổi mới công tác đo lường, phân loại đối tượng thụ hưởng và cách thức hỗ trợ hướng đến giảm nghèo và giảm bất bình đẳng

Hỗ trợ giảm nghèo và bất bình đẳng cần kết hợp đo lường "nghèo đa chiều" với "bất bình đẳng" dựa trên các yếu tố như thu nhập, giáo dục, y tế và điều kiện sống Thiết lập mục tiêu và giám sát các chỉ số nghèo đa chiều và bất bình đẳng sẽ giúp phân loại đối tượng thụ hưởng chính sách một cách chính xác hơn Các chính sách cần được thiết kế với ngân sách và mức hỗ trợ phù hợp, không cào bằng, nhằm giảm nghèo và bất bình đẳng giữa các vùng miền và nhóm dân tộc Việc thực hiện chính sách cần phân cấp và trao quyền cho các cấp cơ sở, phát huy vai trò của cộng đồng để đảm bảo lắng nghe ý kiến người dân Đồng thời, tái cơ cấu các chính sách hỗ trợ sinh kế theo hướng nâng cao năng lực tự thoát nghèo, giảm hỗ trợ trực tiếp và tăng cường hỗ trợ tín dụng ưu đãi Đặc biệt, khuyến nông cho vùng miền núi khó khăn cần có mô hình và phương pháp phù hợp, chú trọng cải thiện cơ hội tiếp cận cho phụ nữ dân tộc thiểu số.

Lớp học đồng ruộng (FFS) và phương pháp "từ nông dân đến nông dân" đã được kiểm chứng hiệu quả trong việc nâng cao kiến thức cho nông dân Để khắc phục những khó khăn trong việc tiếp cận thị trường, cần tăng cường hỗ trợ các hình thức liên kết hợp tác giữa nông dân, như mô hình tổ nhóm hợp tác với doanh nghiệp tại Trà Vinh Đồng thời, việc thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong các hình thức liên kết này sẽ góp phần nâng cao vai trò của họ trong việc tiếp cận thị trường.

Đặt trọng tâm vào giảm bất bình đẳng về cơ hội

Đầu tư vào cơ sở hạ tầng tại các cộng đồng thôn bản khó khăn ở vùng miền núi DTTS là cần thiết để cải thiện điều kiện sống và giảm bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, y tế và thông tin Cần ưu tiên thực hiện các giải pháp giảm chênh lệch chất lượng giáo dục giữa các nhóm dân tộc, bắt đầu từ giáo dục mầm non đến các bậc học cao hơn, đồng thời áp dụng phương pháp dạy học dựa trên tiếng mẹ đẻ và nâng cao chất lượng giáo viên DTTS Quy trình tuyển dụng công khai trong khu vực công sẽ tạo cơ hội công bằng trong việc chuyển đổi đầu tư giáo dục thành việc làm Đẩy mạnh định hướng nghề nghiệp cho học sinh ở khu vực nông thôn và DTTS trước khi vào học nghề, đồng thời sửa đổi chính sách dạy nghề gắn liền với việc làm tại chỗ cho người nghèo, nhằm nâng cao thu nhập Cần chấn chỉnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” trong giáo dục để đảm bảo không loại trừ học sinh nghèo khỏi hệ thống giáo dục công lập.

Chính sách khuyến khích và nhân rộng các hình thức “xã hội hóa” gắn với khuyến học cần được thúc đẩy để khuyến khích phong trào học tập và hỗ trợ con em hộ nghèo vượt khó Cần xây dựng các giải pháp sáng tạo để phát triển việc làm phi nông nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng kết nối thị trường và hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị Đối với những vùng có phong trào di cư lao động, cần có đề án hỗ trợ di chuyển và phát triển kỹ năng làm việc cho người dân Tại khu vực đô thị, cần sửa đổi chính sách giảm rào cản cho người nghèo và người nhập cư trong tiếp cận dịch vụ xã hội và an sinh Cuối cùng, cần tổng kết và xây dựng chính sách khuyến khích sáng kiến cộng đồng, cải thiện quản trị cơ sở phù hợp với nhu cầu của người nghèo và phụ nữ.

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết bất bình đẳng, Việt Nam đang đối mặt với nhiều rào cản, chủ yếu là từ nội tại nền kinh tế Những nghiên cứu tiếp theo hy vọng sẽ khắc phục các hạn chế này, đưa ra những kiến nghị thiết thực nhằm góp phần vào phát triển bền vững, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi Việt Nam đã gia nhập WTO.

Nguồn: http://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx?rxidy33072e-4191-488e-a0d3- 8a6edea04dbd&px_db.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v%C4%83n+h%C3%B3a+v

%91ng&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v

Nguồn: http://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx?rxidy33072e-4191-488e- a0d3-8a6edea04dbd&px_db.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v%C4%83n+h

%91ng&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v

Nguồn: http://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx?rxidy33072e-4191-488e- a0d3-8a6edea04dbd&px_db.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v%C4%83n+h

%91ng&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v

Nguồn: http://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx?rxidy33072e-4191-488e- a0d3-8a6edea04dbd&px_db.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v%C4%83n+h

%91ng&px_type=PX&px_language=vi&px_tableid.+Y+t%E1%BA%BF%2c+v

Ngày đăng: 11/10/2022, 06:36

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Nội dung ghi bảng - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
i dung ghi bảng (Trang 7)
Cũng từ bảng trên, nhóm xây dựng được bộ số liệu để vẽ đường Lorenz năm 2012 như sau: - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
ng từ bảng trên, nhóm xây dựng được bộ số liệu để vẽ đường Lorenz năm 2012 như sau: (Trang 12)
Cho 4 nhúm lờn bảng ghi những từ ngữ cú nghĩa hẹp của cỏc từ ở BT3 trong thời gian 3 phỳt? ( Cõu a, b, c, d) - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
ho 4 nhúm lờn bảng ghi những từ ngữ cú nghĩa hẹp của cỏc từ ở BT3 trong thời gian 3 phỳt? ( Cõu a, b, c, d) (Trang 13)
Theo bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy có sự chênh lệch thunhập ngày càng gia tăng giữa thành thị và nông thôn: - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
heo bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy có sự chênh lệch thunhập ngày càng gia tăng giữa thành thị và nông thôn: (Trang 16)
Bảng thống kê Chênh lệch thunhập bình qn giữa nơng thơn và thành thị, giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất trong ngũ phân vị ở cả nông thôn và thành thị - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
Bảng th ống kê Chênh lệch thunhập bình qn giữa nơng thơn và thành thị, giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất trong ngũ phân vị ở cả nông thôn và thành thị (Trang 18)
Bảng thunhập bình quân đầu người/tháng Đơn vị tính: nghìn VNĐ - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
Bảng thunh ập bình quân đầu người/tháng Đơn vị tính: nghìn VNĐ (Trang 19)
2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 Đồng bằng sông Hồng358498 666 1065 1580 2351 3278 - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 Đồng bằng sông Hồng358498 666 1065 1580 2351 3278 (Trang 19)
1.2 Mơ hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewi: - (Tiểu luận FTU) bất bình đẳng thu nhập ở việt nam
1.2 Mơ hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewi: (Trang 28)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w