Thị trường sản phẩm
Thị trường tiêu thụ sản phẩm gỗ chủ yếu tập trung vào các nước phát triển như Bắc Mỹ (Mỹ), Châu Âu và Châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản) Những quốc gia này có lợi thế nổi bật như nền kinh tế ổn định, sức mua lớn và nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng Hơn nữa, hệ thống kinh doanh thương mại tại đây tương đối hoàn thiện, cùng với mạng lưới phân phối rộng rãi và năng động.
Theo các chuyên gia, xu hướng tiêu dùng hiện nay tại các nước phát triển đang chuyển biến theo hướng tích cực, mang lại lợi ích cho các nước đang phát triển.
Sản phẩm cần có nhãn hiệu độc đáo và giá cả hợp lý, không yêu cầu quá cao về chất lượng Cách lựa chọn sản phẩm này phụ thuộc vào từng thị trường và quốc gia, với những đặc điểm riêng biệt không giống nhau.
Thị trường Mỹ chứng kiến người tiêu dùng chi tiêu 75 tỷ USD hàng năm cho các sản phẩm gỗ, trong đó 15 tỷ USD đến từ các nhà xuất khẩu nước ngoài Các nhà nhập khẩu Mỹ ưu tiên giao dịch với một hoặc hai nhà cung cấp lớn và thường chọn đồ gỗ kết hợp với các vật liệu khác như kim loại, nhựa, da và vải Tính cách người tiêu dùng Mỹ thể hiện sự nhanh nhạy trong quyết định mua sắm, họ không thích chờ đợi và thường đưa ra quyết định mua hàng một cách ngẫu hứng Họ ưa chuộng những sản phẩm độc đáo, thể hiện cá tính và có giá trị, đồng thời không mặn mà với những hàng hóa đại chúng dễ dàng bị sao chép.
Trong những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ đồ gỗ tại Mỹ đã tăng mạnh, với mức tăng 33,6% từ năm 1996 đến 2001, từ 23.622 triệu USD lên 31.552 triệu USD Do sản xuất trong nước không đủ đáp ứng, lượng đồ gỗ nhập khẩu vào Mỹ cũng tăng đáng kể, từ 4.988 triệu USD năm 1996 lên 10.200 triệu USD năm 2001 Hiện tại, đồ gỗ nhập khẩu chiếm khoảng 1/3 thị phần tổng thể của ngành đồ gỗ tại Mỹ.
Trong thị trường đồ gỗ, các mặt hàng chủ yếu bao gồm đồ làm từ gỗ, chiếm 44% thị phần, với các sản phẩm như giường ngủ, bàn ăn, và đồ gỗ phòng khách, bếp Đồ gỗ nhồi (bọc) chiếm 37,8%, chủ yếu là salông và sôpha Đồ bọc nệm (mattress) chiếm 12,5%, trong khi đồ làm từ kim loại, chủ yếu là đồ ngoài trời và nhà bếp, phòng ăn, chiếm 5,8%.
Vào năm 1996, Canada dẫn đầu về xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ, nhưng đến năm 2001, Trung Quốc đã chiếm vị trí số một với thị phần 33% Canada đứng thứ hai với 18%, tiếp theo là Ý (11%), Mexico (7%) và Đài Loan (5%) Sản phẩm xuất khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là đồ bằng gỗ và kim loại, trong khi Canada tập trung vào đồ gỗ, còn Ý chuyên cung cấp các sản phẩm như gỗ bọc da và nệm.
Vào nửa cuối năm 2004, thị phần đồ gỗ nhập khẩu của Mỹ đã thay đổi đáng kể khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ điều tra và xác nhận Chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ gần 1 tỷ USD cho các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ Từ ngày 1/5/2004, mức thuế chống bán phá giá từ 4,9% đến 198% đã làm tăng giá đáng kể của các sản phẩm đồ gỗ Trung Quốc nhập vào Mỹ Hệ quả là nhiều đơn hàng lớn đã chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á, nơi có nguồn nhân công rẻ và lợi thế về giá cả.
3 Báo Sài Gòn tiếp thị
4 Báo diễn đàn doanh nghiệp, 26/7/2004
Ngành công nghiệp đồ gỗ tại Châu Âu là một trong những ngành sản xuất lớn nhất, với tổng giá trị 82 tỉ euro vào năm 2000, chiếm 27% sản lượng đồ gỗ toàn cầu Các quốc gia dẫn đầu trong sản xuất đồ gỗ gồm Đức, Ý, Pháp và Anh, với khoảng 90.000 cơ sở chế biến đồ gỗ trong toàn EU, trong đó 80.000 cơ sở có dưới 20 nhân công Thị trường tiêu thụ chính bao gồm Đức (32 tỉ euro), Ý (11,3 tỉ euro) và Pháp (11,2 tỉ euro), trong khi thị trường Bỉ có giá trị thấp nhất với 2,5 tỉ euro/năm Đồ gỗ được coi là mặt hàng bền vững, với 70% người dân EU mua đồ gỗ để thay thế đồ cũ Nhu cầu mua đồ gỗ tỷ lệ thuận với thu nhập hộ gia đình, với tỷ lệ 1,5 (khi thu nhập tăng 1, nhu cầu mua đồ gỗ tăng 1,5 lần).
Sức mua trong ngành đồ gỗ không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu đầu tư xây dựng nhà ở mà còn vào quảng cáo tiếp thị Năm 2000, xuất khẩu đồ gỗ của EU đạt 9,3 tỷ euro, tăng trưởng 18% Tuy nhiên, nhập khẩu đồ gỗ trong cùng năm lên tới 12,3 tỷ USD, tăng nhanh so với 9,9 tỷ USD năm 1998, chiếm gần một nửa tổng nhập khẩu đồ gỗ thế giới Đặc biệt, đồ làm từ gỗ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch này, với Ba Lan dẫn đầu về xuất khẩu đồ gỗ.
EU (1,3 tỉ USD năm 2000), chiếm 20% tổng nhập khẩu Tiếp theo là Indonesia (555 triệu USD), Trung Quốc (348 triệu USD, gấp đôi mức 1998), Malaysia (219 triệu USD, tăng 70% so 1998)…
Trong những năm gần đây, chất lượng sản phẩm đồ gỗ từ các nước Châu Á đã được cải thiện đáng kể, dẫn đến việc thị phần ngành sản xuất đồ gỗ ở Châu Âu bị thu hẹp Giá thành sản xuất cao đã khiến cho thị trường đồ gỗ nội thất Châu Âu gần như mở cửa hoàn toàn cho hàng nhập khẩu.
Nhìn chung, các nước Ðông Âu và Châu Á chiếm thị phần lớn nhất tại
EU tập trung vào việc nhập khẩu đồ gỗ cho phòng ngủ và các lĩnh vực khác, ngoại trừ đồ gỗ nhà bếp, vốn là thế mạnh của các cơ sở trong khu vực Đặc biệt, gỗ cao su chiếm tới 70% tổng lượng nhập khẩu nhờ vào cấu trúc mịn màng, màu sắc sáng, dễ dàng nhuộm và xử lý để giống như các loại gỗ quý như gỗ sồi, gỗ óc chó và gỗ anh đào.
5 Báo Sài Gòn tiếp thị
Ngoài ra gỗ cao su còn đáp ứng được các quy định về môi trường nghiêm nhặt của Châu Âu
Người tiêu dùng EU đặc biệt chú trọng đến chất lượng, độ bền, công năng và tính tiện lợi của sản phẩm Bên cạnh đó, các loại đồ gỗ được làm từ gỗ sồi, gỗ thích, gỗ tếch và các loại gỗ màu đen khác đang trở nên phổ biến nhờ vào xu hướng hoài cổ của thị trường.
Hiện nay, mặt hàng đồ gỗ chưa được EU bảo hộ, dẫn đến các yêu cầu chưa quá khắt khe, đặc biệt về thuế theo chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập Tuy nhiên, EU yêu cầu các nước xuất khẩu phải có Chứng chỉ rừng bền vững (FSC) để thúc đẩy thị trường đồ mộc từ những nguồn nguyên liệu đã được cấp FSC trong cộng đồng EU.
Thị trường Nhật Bản đã trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nước xuất khẩu hàng gỗ chế biến và thủ công mỹ nghệ Theo Jetro, nhu cầu nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản đang gia tăng mạnh mẽ, với lượng nhập khẩu đạt trên 306.000 tấn trị giá 138 tỷ yên vào năm 1998, và con số này đã tăng gấp đôi vào năm 2002 Đối với đồ nội thất, bao gồm gỗ, mây, kim loại và các vật liệu khác, lượng nhập khẩu đã tăng từ gần 630.000 tấn trị giá gần 300 tỷ yên năm 1998 lên trên 1,1 triệu tấn với trị giá gần 380 tỷ yên vào năm 2002.
Thị trường nguyên liệu thế giới
Trong những năm gần đây, nguồn cung gỗ nhiệt đới cho thị trường toàn cầu chủ yếu đến từ khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Indonesia và Myanmar, cũng như từ Amazon ở Brazil và Peru, cùng với Châu Phi, bao gồm Ghana, Gabon, Congo, Liberia và Cộng hòa Trung Phi Trong khi đó, nguồn cung gỗ ôn đới chủ yếu tập trung ở Nga và Canada.
Trong những năm gần đây, tình hình xuất nhập khẩu gỗ tròn và gỗ hộp trên thế giới đã chứng kiến nhiều biến động quan trọng Các quốc gia xuất khẩu chủ yếu đã có sự thay đổi đáng kể trong chiến lược và thị trường, ảnh hưởng đến nguồn cung và giá cả Sự gia tăng nhu cầu từ các thị trường lớn cũng đã thúc đẩy các nước sản xuất điều chỉnh hoạt động xuất khẩu của mình.
Trong bối cảnh Mỹ và Malaysia đang giảm xuất khẩu một số mặt hàng, Liên bang Nga lại có xu hướng tăng trưởng xuất khẩu hàng năm khi phục hồi nền kinh tế sau thời gian trì trệ Cụ thể, giá trị xuất khẩu gỗ của Liên bang Nga đã tăng mạnh từ 945,296 triệu USD năm 1996 lên 1.338,269 triệu USD vào năm 2000.
Nhật Bản và Hàn Quốc đang giảm lượng gỗ nhập khẩu, từ gần 4,5 tỷ USD vào năm 1996 xuống khoảng 2,3 tỷ USD vào năm 2000 Trong khi đó, Trung Quốc, với nền kinh tế phát triển nhanh, lại gia tăng lượng gỗ nhập khẩu, từ 457,78 triệu USD năm 1996 lên 1.655,64 triệu USD năm 2000, tương đương 3,6 lần Năm 2002, Trung Quốc cần nhập khẩu một khối lượng lớn gỗ tròn (24,3 triệu m³), gỗ xẻ (5,4 triệu m³) và ván nhân tạo (636 nghìn m³).
Diện tích rừng được cấp chứng chỉ toàn cầu đã tăng mạnh trong những năm gần đây, nhờ vào các hệ thống chứng nhận như FSC, PEFC, SFI và CAS Tiềm năng cung cấp lâm sản có chứng chỉ (CFPs) cũng gia tăng, ước tính đạt khoảng 234 triệu m³/năm Thị trường CFPs chủ yếu tập trung ở Tây Âu, đặc biệt là tại Anh, Đức và Hà Lan, cũng như Mỹ Hiện tại, thị phần của FSC là 23%, xếp sau PEFC với 34% và SFI với 26%.
Hơn 90% diện tích rừng có chứng chỉ nằm ở Bắc bán cầu, trong đó Châu Âu chiếm 50% và Bắc Mỹ 41% Các nước đang phát triển chỉ chiếm dưới 10% tổng diện tích có chứng chỉ, chủ yếu do FSC cấp, với Brazil có diện tích lớn nhất (1,12 triệu ha, 61% là rừng trồng), theo sau là Bolivia với 0,9 triệu ha và Nam Phi với 0,81 triệu ha rừng trồng được cấp chứng chỉ Công gô cũng có 1,15 triệu ha được cấp chứng chỉ bởi Keurhout Sự thay đổi này diễn ra nhanh chóng chỉ trong vòng 2 năm.
9 Nguyễn Nghía Biên 2003, Tổng quan ngành hàng lâm sản Việt Nam, trang 27
10 Nguyễn Nghía Biên 2003, Tổng quan ngành hàng lâm sản Việt Nam, trang 28
Châu Âu và Bắc Mỹ đã triển khai các hệ thống chứng chỉ rừng mới, dẫn đến việc tỷ trọng của các nước đang phát triển giảm mạnh từ 70% vào năm 1996 đến mức hiện tại.
Các quốc gia cung cấp lâm sản có chứng chỉ quan trọng nhất hiện nay bao gồm các nước Bắc Âu như Thụy Điển và Phần Lan, Tây Âu như Ý, Áo, Anh và Đức, cùng với các quốc gia Baltic, Canada và một số nước ở Châu Á Thị trường lâm sản có chứng chỉ chủ yếu tập trung ở Tây Âu, đặc biệt là Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Bỉ, cũng như Nhật Bản và Mỹ.
Chi phí sản xuất
Năm 2004, giá gỗ nguyên liệu tăng cao chủ yếu do sự gia tăng cước phí vận tải từ giá dầu mỏ, phí bảo hiểm, biến động của các đồng tiền mạnh như USD và Yên, cùng với sự thay đổi trong chính sách của các nước xuất khẩu nguyên liệu và chi phí cấp chứng chỉ rừng.
Chi phí sản xuất trong ngành chế biến lâm sản đang gia tăng do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, như thể hiện trong Hình 1 Tình trạng này không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn diễn ra tại các quốc gia sản xuất đồ gỗ hàng đầu như Mỹ, Ý, Đức, Nhật Bản, Anh, Canada và Pháp.
Hình 1 Chỉ số giá thành sản xuất đồ gỗ của EU năm 2004
THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
2.1.Thị trường xuất khẩu đồ gỗ
11 Nguyễn Nghía Biên 2003, Tổng quan ngành hàng lâm sản Việt Nam, trang 2829
Trong những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu lâm sản ở Việt Nam đã có những bước phát triển đáng khích lệ, đặc biệt là từ năm 1996 Mặc dù giai đoạn đầu thập kỷ 90, kim ngạch xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi chính sách đóng cửa rừng, nhưng từ năm 2004, xuất khẩu lâm sản đã phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ với mức tăng khoảng 10-15% mỗi năm Hiện tại, Việt Nam đứng thứ tư về xuất khẩu đồ gỗ trong khu vực Đông Nam Á, sau Malaysia, Indonesia và Thái Lan Đồ gỗ gia dụng đã thâm nhập vào 120 thị trường, trong đó Nhật Bản, Mỹ và EU chiếm 2/3 kim ngạch xuất khẩu, nhờ vào sức cạnh tranh cao và giá thành hợp lý.
0 200 400 600 800 1000 1200 n¨m 1996 n¨m 1997 n¨m 1998 n¨m 1999 n¨m 2000 n¨m 2001 n¨m 2002 n¨m 2003 n¨m 2004 Triệu USD kinh ngạch xuất khẩu (đơn vị tính: triệu USD)
Nguồn: Tổng cục hải quan, 2002 và Tạp chí thương mại
Biểu đồ cho thấy kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã tăng gần 7 lần trong 8 năm từ 1996 đến 2004, với tốc độ tăng trưởng đặc biệt nhanh trong những năm gần đây Cụ thể, kim ngạch ngành này tăng 28% vào năm 2002, 32% vào năm 2003, và đạt mức tăng 112% vào năm 2004, vượt qua mốc 1 tỷ USD so với kế hoạch đề ra.
13 Tạo lợi thế cho đồ gỗ xk, 8/12/2004
Sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã chuyển mình từ những mặt hàng thô như gỗ tròn và gỗ xẻ sang các sản phẩm chế biến tinh vi hơn, nhờ vào công nghệ tẩm, sấy và trang trí bề mặt Hiện nay, các mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu gỗ bao gồm bàn ghế ngoài trời bằng gỗ cứng và đồ nội thất bằng gỗ mềm, mang lại giá trị gia tăng về công nghệ và lao động.
Sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam thường mang thương hiệu của nhà nhập khẩu, bao gồm thiết kế, mẫu mã và quy cách do họ chỉ định Hiện tượng này dẫn đến việc rất ít sản phẩm mang thương hiệu gốc Việt Nam Quy trình sản xuất chủ yếu mang tính gia công, do đó mặc dù sản lượng tăng, lợi nhuận từ sản xuất và xuất khẩu vẫn còn hạn chế.
Thị trường xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam đang có sự chuyển biến mạnh mẽ, từ việc chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung chuyển như Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc, đến việc xuất khẩu trực tiếp đến tay người tiêu dùng Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận và phân phối sản phẩm của mình trực tiếp tới các thị trường tiêu dùng, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong chiến lược xuất khẩu.
Trong tầm nhìn trung và dài hạn, ngành xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam có tiềm năng phát triển nhanh chóng và bền vững, khi mà thị phần đồ gỗ xuất khẩu của nước ta chỉ chiếm 0,2% tổng kim ngạch nhập khẩu của EU, 0,86% của Mỹ và 7,3% của Nhật Bản Điều này cho thấy rằng còn rất nhiều cơ hội để mở rộng thị trường, với khoảng 20% thị phần mới là mức mà các quốc gia nhập khẩu bắt đầu thận trọng.
Năm 2004 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong xuất khẩu lâm sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, với giá trị tăng từ 11,9 triệu USD năm 2001 lên 73,2 triệu USD năm 2002 và 147 triệu USD năm 2003 Trong năm 2004, giá trị đồ gỗ nội thất chiếm 6,6% trong tổng số 5 tỷ USD xuất khẩu sang Mỹ, tương đương khoảng 300 triệu USD.
14 Trần Đức Sinh, Báo Nông nghiệp và phát triển Nông thôn só 1/2005
Mỹ tăng cường nhập khẩu đồ gỗ từ Việt Nam do Bộ Thương mại Hoa Kỳ đang điều tra việc bán phá giá đồ gỗ Trung Quốc Tuy nhiên, sự chuyển hướng này có thể chỉ là giải pháp tạm thời, vì xuất khẩu vào thị trường Mỹ tiềm ẩn nhiều rủi ro Các doanh nghiệp Mỹ có quyền khiếu nại bất kỳ doanh nghiệp nước ngoài nào về "bán phá giá", như đã xảy ra với mặt hàng thuỷ sản và đồ gỗ Trung Quốc, do đó không ai có thể đảm bảo rằng đồ gỗ Việt Nam sẽ không bị kiện trong tương lai gần.
Thị trường EU là một trong những thị trường xuất khẩu lớn và tiềm năng của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực đồ gỗ Trong các nước EU, Pháp chiếm tỷ lệ xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất từ Việt Nam với 29,1%, tiếp theo là Anh với 24,8% và Ý với 12,6% Các chuyên gia đánh giá rằng Việt Nam đang có cơ hội lớn để phát triển ngành xuất khẩu đồ gỗ, khi thị phần đồ gỗ nội thất tại châu Âu chủ yếu còn bỏ ngỏ cho hàng nhập khẩu Họ khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam nên chú trọng vào việc xuất khẩu đồ gỗ ngoài trời và các sản phẩm truyền thống độc đáo, như đồ gỗ khảm xà cừ, để tạo sự khác biệt so với hàng Trung Quốc và thu hút thị hiếu phương Tây Tuy nhiên, việc nhập khẩu qua một kênh phân phối hạn chế đã ảnh hưởng đến khả năng đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao giá bán của doanh nghiệp trong nước Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ Việt Nam chưa có chứng chỉ FSC được quốc tế công nhận, điều này ảnh hưởng lớn đến quá trình xuất khẩu.
Thị trường Nhật Bản đang mở ra cơ hội lớn cho ngành đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam Trong trung hạn và dài hạn, triển vọng phát triển nhanh và ổn định của mặt hàng này là rất khả quan Sự gia tăng nhu cầu từ Nhật Bản hứa hẹn sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững cho xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam.
16 Nguyễn Nghĩa Biên, 1/2005, Báo cáo năm 2004 ngành hàng lâm sản
Thị phần đồ gỗ Việt Nam tại Nhật Bản hiện chỉ đạt 7,3%, đứng thứ năm sau Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, cho thấy tiềm năng phát triển thị trường còn rất lớn Các nhà buôn lẻ Nhật Bản, với quy mô lớn, là nhóm khách hàng chủ yếu của các nhà buôn Việt Nam, tạo cơ hội cho sản phẩm Việt Nam xâm nhập thị trường Người Nhật thường bắt đầu từ những hợp đồng nhỏ, nhưng khi đã thiết lập mối quan hệ, có thể kỳ vọng vào những đơn hàng lớn và hợp tác lâu dài.
Nguồn nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu đã chuyển từ việc phụ thuộc vào rừng tự nhiên trong nước sang sử dụng chủ yếu gỗ nhập khẩu và gỗ từ rừng trồng Trong năm 1990, sản lượng khai thác từ rừng tự nhiên đạt trung bình 1,8 triệu m3/năm, nhưng từ năm 2000 đến nay, con số này chỉ còn 300.000 m3/năm, và năm 2004 giảm xuống còn 200.000 m3 Dự kiến, sản lượng khai thác gỗ tự nhiên sẽ tiếp tục giảm xuống còn 150.000 m3 vào năm tới.
Từ năm 2005, để khắc phục tình trạng thiếu hụt nguyên liệu, hàng năm Việt Nam nhập khẩu gần 1 triệu m³ gỗ từ nước ngoài và đồng thời gia tăng việc sử dụng gỗ từ rừng trồng trong sản xuất.
Hiện nay, nguyên liệu gỗ đang trở thành một thách thức lớn đối với ngành lâm sản xuất khẩu của Việt Nam, cần được Nhà nước chú trọng trong chiến lược phát triển Theo ước tính, để xuất khẩu 500 triệu USD, cần khoảng 1,3 triệu m³ gỗ tròn nguyên liệu, trong khi chính phủ chỉ cho phép khai thác khoảng 1 triệu m³ gỗ mỗi năm, bao gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng Để bù đắp sự thiếu hụt này, các doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ nhiều nguồn khác nhau Trong giai đoạn 2002-2003, tỷ trọng nguyên liệu và phụ liệu gỗ nhập khẩu chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu, và với xu hướng gia tăng xuất khẩu hiện tại, con số này dự kiến sẽ vượt 60%.
Nhập khẩu gỗ không chỉ làm giảm giá trị gia tăng sản phẩm mà còn khiến doanh nghiệp Việt Nam bị động trong kế hoạch sản xuất Mặc dù hiện tại việc nhập khẩu diễn ra thuận lợi, nhưng trong tương lai, các yếu tố như giá cả và chính sách quản lý rừng của các quốc gia xuất khẩu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu nguyên liệu Điều này dẫn đến sự thiếu chủ động về nguồn nguyên liệu, đe dọa sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu Ví dụ, vào năm 2004, chính sách kiểm soát khai thác gỗ của Malaysia và Indonesia đã làm giảm nguồn cung gỗ nguyên liệu trong khu vực, khi các nước này cấm xuất khẩu gỗ tròn để bảo vệ rừng Dù vậy, họ vẫn cho phép xuất khẩu gỗ đã qua chế biến, khiến doanh nghiệp Việt Nam phải tìm mua gỗ từ các quốc gia xa xôi như Nga và New Zealand.
Nhưng hiện ngành chế biến gỗ VN phụ thuộc đến 80% nguyên liệu nhập khẩu Hàng gỗ ngoài trời phải nhập khẩu 100% nguyên liệu Năm 2003,
MỘT SỐ VĂN BẢN CHÍNH SÁCH HIỆN HÀNH CÓ LIÊN QUAN.18 1 Chính sách khuyến khích phát triển rừng
4.1 Chính sách khuyến khích phát triển rừng
Chính sách đất đai tại Việt Nam đã trải qua nhiều lần cải cách trong thời kỳ đổi mới, với mục tiêu ngày càng hoàn thiện để phù hợp với điều kiện hiện tại Luật đất đai mới nhất, Luật số 13/2003-QH11, được ban hành ngày 26-11-2003, quy định rõ quyền lợi của người sử dụng đất Cụ thể, Điều 106 của luật này nêu rõ rằng người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, cũng như quyền thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Quyền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại Điều 67 của Luật Đất đai Thời gian cho thuê đất trồng cây hàng năm cho hộ gia đình, cá nhân không vượt quá 20 năm, trong khi thời hạn cho thuê đất trồng cây lâu năm và đất rừng sản xuất có thể lên đến 50 năm Nếu đất được sử dụng đúng quy định pháp luật, thời hạn sử dụng sẽ được tiếp tục.
Chính sách phát triển rừng ở Việt Nam trong những năm gần đây tập trung vào ba chương trình lớn, bao gồm Luật bảo vệ và phát triển rừng, cùng với Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc Những chính sách này nhằm tăng cường bảo vệ tài nguyên rừng và khôi phục môi trường sinh thái, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
25 Phạm Văn Chương, 2003, Xu hướng phát triển công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam
(Chương trình 327) trong giai đoạn 1993 - 1998, và Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng từ năm 1998 đến nay
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004: Luật số 29/2004/QH10 ngày
Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Nhà nước ban hành quy định về bảo vệ và phát triển rừng, nhằm thống nhất quản lý rừng và đất trồng rừng Nhà nước giao rừng và đất trồng rừng cho tổ chức, cá nhân để bảo vệ và phát triển bền vững theo quy hoạch Quyền hợp pháp của chủ rừng được Nhà nước bảo hộ, đồng thời khuyến khích đầu tư vào lao động, vật tư và công nghệ trong việc trồng, bảo vệ và khai thác rừng Việc xác định loại rừng và chuyển đổi mục đích sử dụng rừng thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước.
Quyết định số 327 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 15-9-1992 về Chương trình Phủ xanh Đất trống Đồi núi trọc nhằm mục tiêu trồng lại rừng, bảo vệ rừng tự nhiên, phát triển cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm, xây dựng cơ sở hạ tầng, và khuyến khích nông dân định canh định cư Chương trình khuyến khích doanh nghiệp, công ty cổ phần, và hộ tư nhân, bao gồm cả liên doanh với nước ngoài, đầu tư vào trồng trọt và chăn nuôi tại các vùng đất trống, đồi trọc, bãi bồi ven biển, và mặt nước.
Quyết định số 661/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/7/1998 đặt ra mục tiêu trồng mới 5 triệu ha rừng với hai nhiệm vụ chính: Thứ nhất, bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện có, đặc biệt là rừng tự nhiên, rừng đặc dụng và rừng phòng hộ ở các vùng xung yếu, đồng thời giao đất, giao rừng cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để thực hiện việc định canh, định cư và xóa đói giảm nghèo Thứ hai, triển khai trồng mới 2 triệu ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, cùng với 3 triệu ha rừng sản xuất.
Chính sách thuế sử dụng đất tại Việt Nam, theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước có hiệu lực từ 01/01/1995, quy định miễn nộp tiền sử dụng đất cho các dự án sản xuất lâm nghiệp và trồng rừng trong thời gian lên đến 15 năm Đặc biệt, các dự án trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng cây lâu năm trên đất hoang hóa được miễn thuế sử dụng đất trong suốt thời gian thực hiện dự án Ngoài ra, các doanh nghiệp trong lĩnh vực này được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất ưu đãi từ 15% đến 25%, miễn thuế từ 2 đến 4 năm và giảm 50% thuế từ 2 đến 9 năm tiếp theo, tùy thuộc vào địa bàn đầu tư Để khuyến khích đầu tư trồng rừng, mức giá thuê đất cho các dự án trồng cây công nghiệp được áp dụng ở mức thấp nhất trong khung giá quy định Đồng thời, các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực trồng rừng cũng được hưởng nhiều chính sách miễn, giảm tiền thuê đất, bao gồm miễn toàn bộ tiền thuê đất trong thời gian chưa có sản phẩm và giảm đến 90% tiền thuê đất theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Bộ Tài chính.
Chính sách đầu tư và tín dụng được ban hành trong giai đoạn đổi mới nhằm khuyến khích sự phát triển của ngành lâm nghiệp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình nghèo.
Ngành lâm sản Việt Nam được quy định bởi Quyết định 264/CT ngày 22/7/1992, cho phép chủ rừng vay vốn tín dụng đầu tư trong chu kỳ đầu với lãi suất ưu đãi từ 30-50% lãi suất bình thường, tùy thuộc vào loại cây và đặc điểm sinh thái từng vùng Vốn vay này nhằm trồng các loại cây có chu kỳ sản xuất dưới 20 năm, phục vụ nguyên liệu cho công nghiệp Sau chu kỳ đầu, chủ rừng phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi; từ chu kỳ thứ hai trở đi, nếu thiếu vốn, họ có thể vay với lãi suất bình thường Nhà nước cũng đầu tư ngân sách cho các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng sản xuất gỗ lớn, gỗ quý với chu kỳ sản xuất trên 20 năm, và yêu cầu chủ rừng hoàn trả vốn ngay khi khai thác sản phẩm, thực chất là áp dụng lãi suất bằng 0.
Nghị định 14-CP ngày 2-3-1993 quy định chính sách cho vay vốn nhằm phát triển nông-lâm-ngư nghiệp và kinh tế nông thôn, nhấn mạnh việc cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất với nguyên tắc hiệu quả kinh tế - xã hội, không phân biệt thành phần kinh tế và ưu tiên cho các dự án do Chính phủ quy định Đối với hộ nông dân nghèo không có tài sản thế chấp, có thể áp dụng hình thức tín chấp cho vay dài hạn trên 36 tháng để trồng và chăm sóc cây lâm nghiệp, chế biến lâm sản Ngoài ra, các hộ nghèo ở vùng núi cao, hải đảo, vùng xa, vùng sâu, và vùng kinh tế mới được hỗ trợ vay với lãi suất thấp hơn 15%.
Quyết định 661 thay thế quyết định 327 và có hiệu lực từ 01/01/1999
Chính sách đầu tư và tín dụng quy định rằng nhà nước sẽ tiếp tục khoán bảo vệ rừng đặc dụng và rừng phòng hộ rất xung yếu với mức hỗ trợ 50.000đ/ha/năm trong thời gian tối đa 5 năm Đối với khoán khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung, mức hỗ trợ không quá 1 triệu đồng/ha và thời hạn không quá 6 năm Ngoài ra, hỗ trợ bình quân 2 triệu đ/ha được dành cho các tổ chức và hộ gia đình tự bỏ vốn trồng rừng sản xuất với các loại cây gỗ quý hiếm có chu kỳ trên 30 năm Suất đầu tư cho việc trồng rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu là 2,5 triệu đ/ha.
Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 14/2000/TT-BTC ngày 14/8/2000 nhằm hướng dẫn chính sách tài chính để phát triển kinh tế trang trại Các chủ trang trại được hưởng nhiều ưu đãi về đầu tư, tín dụng và thuế, bao gồm miễn giảm thuế và huy động vốn theo quy định pháp luật Đặc biệt, những chủ trang trại đầu tư vào trồng rừng nguyên liệu, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản sẽ nhận được sự hỗ trợ từ quỹ phát triển của Nhà nước với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Chính sách khai thác sử dụng tài nguyên rừng Trong điều 56 và điều
Theo Điều 57 của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, việc khai thác rừng sản xuất, bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng từ ngân sách nhà nước, phải có hồ sơ thiết kế khai thác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt Trong trường hợp chủ rừng tự bỏ vốn để gây trồng, nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ rừng sản xuất, họ có quyền quyết định về việc khai thác mà không cần sự phê duyệt của cơ quan nhà nước.
Quy chế khai thác gỗ và lâm sản được quy định tại Quyết định số 04/02/2004/QĐ-BNN, ban hành ngày 02/02/2004 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quyết định này yêu cầu việc khai thác gỗ từ rừng tự nhiên phải tuân thủ phương án điều chế rừng và các thủ tục khai thác theo quy định, đồng thời phải tuân theo hạn mức khai thác hàng năm do Bộ NN&PTNT trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Theo Điều 5 chương 2, rừng tự nhiên thuộc diện sản xuất và rừng phòng hộ được giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải thực hiện khai thác theo phương án điều chế Đối với rừng của hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý và bảo vệ theo Quyết định 178, không yêu cầu xây dựng phương án điều chế.
1.1.2.Chính sách phát triển ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ
Ngày 1/6/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 19/2004/CT-TTg nhằm phát triển ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ Chỉ thị yêu cầu các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân tổ chức sản xuất trong nước và nhập khẩu để đáp ứng kịp thời nhu cầu nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Thực hiện mục tiêu này là trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan liên quan.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
Công ty Bắc Á, chính thức thành lập vào ngày 9-11-1995 theo quyết định số 2147/GP - UB của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, có tên đầy đủ là Công ty TNHH Bắc Á và tên giao dịch quốc tế là North Asian Co LTD.
Từ năm 1995, công ty đã tiên phong trong sản xuất và kinh doanh ván sàn cao cấp tại thị trường Nhật Bản, sử dụng nguyên liệu gỗ thông nhập khẩu trực tiếp từ Lào Ngoài ra, sản phẩm gỗ cũng được cung cấp cho thị trường nội địa, chủ yếu từ miền Trung đến các tỉnh miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội Doanh số của công ty tăng trưởng ổn định từ 20-25% mỗi năm.
Công ty đang nỗ lực mở rộng hoạt động sản xuất và kinh doanh, trở thành một nhà đầu tư chuyên nghiệp, đặc biệt tập trung vào các dự án tại các tỉnh lân cận Hà Nội Chiến lược của công ty là đầu tư xây dựng cơ bản, bao gồm tư vấn và thực hiện các dự án đầu tư cũng như phát triển hạ tầng cơ sở.
Nhà máy chế biến gỗ Bắc Sơn, một trong những dự án đầu tiên của Công ty Bắc Á, được xây dựng trên diện tích 1,3ha tại Khu công nghiệp Quế Võ - Bắc Ninh với tổng vốn đầu tư 1 triệu USD Đây là đơn vị thành viên đầu tiên của công ty, được hình thành dựa trên giấy phép đầu tư số 05/GPĐT - KCN - BN và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 24.4.000000.1 ngày 14-5-2002 Nhà máy tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm ván sàn gỗ thông Lào, chủ yếu phục vụ xuất khẩu, với dây chuyền máy móc hoàn toàn mới, bao gồm thiết bị nhập khẩu từ Đài Loan và một số máy móc Việt Nam Công ty cũng đang tiến hành các thủ tục cho giai đoạn hai của dự án, mở rộng nhà máy thêm 3ha với vốn đầu tư dự kiến 2 triệu USD, dự kiến khởi công vào cuối năm 2004 và hoàn thành vào cuối năm 2005 Dự án Nhà máy chế biến gỗ Bắc Sơn II đã được UBND tỉnh Bắc Ninh cấp giấy phép đầu tư số 53/GPĐT-KCN-BN ngày 8-8-2003, góp phần thúc đẩy sự phát triển của Nhà máy và nâng cao hiệu quả quản lý của Công ty Bắc Á.
Công ty dự kiến triển khai dự án xây dựng Nhà máy sản xuất ván sàn tại Lào vào năm 2010, sử dụng nguyên liệu chủ đạo là gỗ thông và gỗ hương, nguồn nguyên liệu truyền thống của Công ty Việc thành lập Nhà máy sẽ giúp Công ty tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú và trữ lượng lớn tại Lào, đồng thời hoàn thiện quá trình sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh tại đây Ngoài việc đầu tư vào Nhà máy, Công ty cũng sẽ tập trung vào việc mở rộng thị trường bán hàng tại Nhật Bản, Châu Âu, và có kế hoạch phát triển thêm thị trường Mỹ và Trung Quốc.
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÔNG TY
2.2.1 Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội
Công ty TNHH Bắc Á có trụ sở chính tại phòng 307 nhà CC2A, Bắc Linh Đàm, Hà Nội, cùng với đơn vị thành viên là Công ty nguyên liệu Bắc Á tại Cụm I Yên Sở, quận Hoàng Mai, Hà Nội Việc đặt trụ sở tại Hà Nội, một trung tâm văn hóa và kinh tế lớn, giúp Công ty thuận lợi trong giao dịch và tìm kiếm khách hàng, trong khi Công ty nguyên liệu Bắc Á hỗ trợ cung cấp sản phẩm chủ yếu cho thị trường nội địa, đặc biệt là Hà Nội.
Nhà máy chế biến gỗ Bắc Sơn, thành viên đầu tiên của Công ty, tọa lạc tại Khu Công Nghiệp Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh Khu vực này sở hữu nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giao lưu với bên ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông.
- Nằm giữa đường Quốc lộ 18 và Quốc lộ 18B Hạ Long - Nội Bài
- Cách Thủ đô Hà Nội 33km
- Cách Xa lộ 1A mới 2,5km
- Giáp cảng sông Cầu, cách cảng Cái Lân 110km
Con người Bắc Ninh nổi bật với truyền thống văn hóa phong phú, tinh thần hiếu khách, cùng sự cần cù và sáng tạo Họ sở hữu những bàn tay khéo léo trong các nghề truyền thống như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy và vẽ tranh dân gian Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo và sử dụng lao động trong khu vực.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty
Công ty sở hữu một cơ sở vật chất đa dạng, bao gồm một trụ sở văn phòng, một công ty nguyên liệu tại Hà Nội và Nhà máy chế biến gỗ Bắc Sơn tại KCN Quế Võ Trong đó, Nhà máy Bắc Sơn đóng vai trò quan trọng, là nơi tập trung chủ yếu nguồn nhân lực và vật lực của công ty.
Nhà máy Bắc Sơn, thuộc Bắc Á, là cơ sở sản xuất chính chuyên tập trung nguyên liệu và thiết bị cho xuất khẩu Được xây dựng trên diện tích 1,3ha, nhà máy bao gồm 3 xưởng sản xuất với tổng diện tích 3700m2 Phần còn lại của khu đất được quy hoạch cho nhà điều hành, khu sinh hoạt cho cán bộ công nhân viên và các tuyến đường đi lại.
Dựa trên bảng tình khấu hao tài sản cố định năm 2004 của công ty, tôi phân loại tài sản cố định thành ba nhóm chính: nhà cửa và vật kiến trúc, máy móc thiết bị, và dụng cụ quản lý.
Nguyên giá Giá trị hao mòn
Nhà cửa vật kiến trúc 4.231.049.524 848469802 3382579722 Máy móc thiết bị 2.202.522.562 602918193 1599604369 Phương tiện quản lý 51.238.334 25574167 25664167
Kết cấu TSCĐ của Công ty năm2004
(theo giá trị còn lại)
Nhà cửa vật kiến trúc Máy móc thiết bị Ph-ơng tiện quản lý
Theo Biểu 01 về tình hình tài sản cố định của Nhà máy, tài sản cố định của Công ty năm 2004 chủ yếu tập trung vào nhà cửa và vật kiến trúc, chiếm 67%, trong khi máy móc chỉ chiếm 32% Điều này cho thấy tỷ trọng giá trị của máy móc thiết bị quá nhỏ so với nhà cửa, không phù hợp với một Doanh nghiệp công nghiệp Tuy nhiên, việc điều tra thực tế tại Công ty cho thấy các chỉ tiêu này chưa phản ánh đúng thực trạng của Nhà máy.
Trong giai đoạn đầu phát triển, công ty đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà xưởng và nhà ở cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện cho việc đầu tư máy móc sau này Sau hơn hai năm hoạt động, vào năm 2002, nhà máy đã đầu tư dây chuyền sản xuất ván sàn và năm 2003 là dây chuyền sản xuất Platta Theo kế hoạch, năm 2005, nhà máy sẽ hoàn thiện các dây chuyền hiện có và đầu tư thêm máy móc mới mà không cần xây dựng thêm nhà xưởng, từ đó tỷ trọng máy móc thiết bị sẽ tăng lên Với đà phát triển hiện tại, công ty đang lên kế hoạch đầu tư vào dây chuyền công nghệ quy mô lớn.
Nhà máy Bắc Sơn hiện đang vận hành hai dây chuyền đa năng, cho phép sản xuất nhiều loại sản phẩm nhằm phục vụ cho kế hoạch đa dạng hóa sản phẩm trong tương lai Mặc dù vậy, mục tiêu chính của Nhà máy vẫn là hoàn thiện các loại sản phẩm ván sàn, hiện tại bao gồm T&G và S4S, với kế hoạch phát triển thêm các sản phẩm ván sàn ghép thanh trong tương lai Quy trình sản xuất ván sàn tại Nhà máy được thực hiện qua nhiều công đoạn khác nhau.
Tình hình tổ chức, quản lý, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công
Căn cứ vào thực tế tại Công ty tôi có sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty như sau Hình
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý công ty Bắc Á
Quan hệ tham mưu giúp việc Quan hệ kiểm tra giám sát a Văn phòng Bắc Á
*Ban giám đốc: gồm tổng giám đốc và một phó tổng giám đốc
Tổng giám đốc đóng vai trò là đại diện pháp nhân của Công ty, chịu trách nhiệm trước nhà nước và pháp luật về tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh Đồng thời, tổng giám đốc cũng cần quan tâm đến đời sống vật chất và văn hóa xã hội của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty.
- Phó tổng giám đốc tham mưu cho giám đốc trong quá trình quản lý và điều hành Công ty
*Các phòng ban chức năng
Phòng thị trường quốc tế có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty và nắm bắt nhu cầu thị trường nước ngoài Nhiệm vụ bao gồm xây dựng phương án kinh doanh, tìm kiếm khách hàng trong và ngoài nước, cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm Đồng thời, phòng cũng tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất xuất khẩu và tiêu thụ nội địa Ngoài ra, phòng còn có trách nhiệm xây dựng chương trình và định hướng sản phẩm cho xuất khẩu, cùng với việc quản lý các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử.
Phòng xuất nhập khẩu chịu trách nhiệm hoàn thành các bước trong quy trình xuất nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của Ban lãnh đạo Nhiệm vụ bao gồm đàm phán và soạn thảo hợp đồng xuất nhập khẩu, cũng như thực hiện thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu và thu hồi công nợ đối với hàng hóa xuất khẩu.
- Kế toán tổng hợp có nhiệm vụ tổng hợp những số liệu được báo cáo từ các bộ phận, các đơn vị thành viên của Công ty
Trợ lý kỹ thuật tại Nhà máy Bắc Sơn đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho Ban giám đốc về các vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc lựa chọn đầu tư dây chuyền công nghệ và kỹ thuật sản phẩm.
*Ban giám đốc: Gồm một giám đốc điều hành và một phó giám đốc
Giám đốc điều hành chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ hoạt động của nhà máy theo chỉ đạo từ Văn phòng Bắc Á, trong khi Phó giám đốc hỗ trợ và tư vấn cho giám đốc trong quá trình điều hành.
* Các phòng ban chức năng
Nhà máy có cơ cấu với 4 phòng ban và 3 xưởng
Phòng kế toán thống kê bao gồm 4 thành viên: kế toán trưởng, 1 thủ quỹ và 2 kế toán viên kiêm thủ kho Nhiệm vụ của phòng là hạch toán sản xuất dựa trên cân đối thu chi, quản lý tài sản tài chính, và lập kế hoạch thu chi hàng tháng, quý, năm cho Nhà máy Phòng cũng cung cấp thông tin về tài sản và tài chính cho ban giám đốc, giúp lãnh đạo đưa ra phương hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện hiện tại của Công ty.
Phòng kỹ thuật vật tư, với đội ngũ 4 thành viên, chịu trách nhiệm đảm bảo số lượng và chất lượng vật tư phục vụ sản xuất Đồng thời, phòng cũng nghiên cứu kỹ thuật sản phẩm, áp dụng công nghệ vào quy trình sản xuất và chuyển giao công nghệ cho các bộ phận liên quan Ngoài ra, phòng phối hợp chặt chẽ với phòng tổ chức hành chính để đào tạo công nhân, nâng cao hiệu quả làm việc.
Lập kế hoạch sửa chữa cho từng loại máy móc thiết bị, bao gồm sửa chữa lớn, vừa và nhỏ, nhằm khắc phục sự cố trong sản xuất Điều này giúp đảm bảo năng lực sản xuất tối đa của máy móc thiết bị.
Phòng kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc thu mua nguyên liệu trong nước để đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất Đồng thời, phòng cũng xây dựng quy hoạch bản đồ nguyên liệu trên toàn miền Bắc và thiết lập hồ sơ khách hàng nhằm tạo thuận lợi cho các giao dịch.
Phòng tổ chức hành chính có nhiệm vụ tư vấn cho lãnh đạo Công ty về quản lý và sử dụng lao động hợp lý, phù hợp với kế hoạch sản xuất Đơn vị này hoạch định chiến lược nhân sự dài hạn để đáp ứng nhu cầu lao động theo từng giai đoạn Ngoài ra, phòng còn thực hiện công tác lập kế hoạch lao động, tuyển dụng và đào tạo theo quy định của Nhà nước Phòng cũng tham mưu cho ban quản lý về các vấn đề kỷ luật, khen thưởng và giải quyết khiếu nại, đồng thời xây dựng nội quy Công ty và đôn đốc nhân viên trong quá trình làm việc.
- Các phân xưởng (gồm xưởng xẻ sấy, xưởng sản xuất ván sàn, xưởng IKEA)
Mỗi phân xưởng có một quản đốc và một phó quản đốc kiêm thống kê, chịu trách nhiệm theo dõi số lao động và chấm công cho công nhân Dựa trên việc chấm công, phó quản đốc sẽ tổng hợp và tính lương hàng tháng cho công nhân Ngoài ra, quản đốc và phó quản đốc còn đảm nhiệm việc kiểm nhận vật tư cho xưởng và đôn đốc công nhân thực hiện công việc.
Thuận lợi, khó khăn và phương hướng của Công ty trong những năm tới
Nhà máy của Công ty tại KCN Quế Võ được hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ UBND tỉnh Bắc Ninh, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đầu tư và hoạt động KCN Quế Võ có vị trí giao thông thuận tiện, hỗ trợ hiệu quả trong việc vận chuyển nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm Con người Bắc Ninh nổi bật với truyền thống văn hóa hiếu khách, cần cù và sáng tạo, cùng với những nghề thủ công truyền thống như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy và tranh vẽ dân gian, mang lại lợi thế trong việc đào tạo và sử dụng lao động.
Bắc Ninh sở hữu nguồn nguyên liệu rừng trồng phong phú nhờ vào diện tích rừng lớn từ các tỉnh lân cận như Bắc Giang và Thái Nguyên Điều này hứa hẹn mang lại lợi ích lớn cho các công ty trong tương lai, khi nhu cầu gỗ rừng trồng cho sản phẩm xuất khẩu ngày càng gia tăng.
Công ty có gần 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất và chế biến lâm sản xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững Trong thời gian qua, Công ty đã chuẩn bị kỹ lưỡng để hợp tác với các đối tác nước ngoài, nắm vững hiểu biết về thị trường xuất khẩu Đặc biệt, việc đầu tư xây dựng Nhà máy Bắc Sơn thể hiện cam kết của Công ty trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì Công ty cũng gặp phải một số khó khăn nhất định
Một trong những khó khăn lớn nhất mà Công ty gặp phải là vấn đề nguyên liệu sản xuất Do phần lớn nguyên liệu đều phải nhập khẩu, Công ty thường không thể chủ động trong việc đảm bảo nguồn cung Hơn nữa, thị trường nguyên liệu quốc tế đang trải qua những biến động tiêu cực, với giá nguyên liệu tăng cao và các chính sách xuất khẩu ngày càng nghiêm ngặt từ các quốc gia cung cấp.
Việc đầu tư vào xây dựng Nhà máy Bắc Sơn và tổ chức các điểm thu mua nguyên liệu bên Lào đã gây khó khăn tài chính cho Công ty Hiện tại, hoạt động của Nhà máy Bắc Sơn chưa ổn định và chưa đạt công suất mong muốn, dẫn đến việc thu hồi vốn đầu tư diễn ra chậm chạp.
Khó khăn thứ ba là sự gia tăng số lượng công ty chế biến lâm sản xuất khẩu tại miền Bắc, dẫn đến môi trường cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước.
2.4.3 Phương hướng của Công ty trong những năm 2005
Năm 2004, Công ty ghi nhận sự phát triển vượt bậc với sản lượng đồ gỗ xuất khẩu tăng mạnh, không chỉ ở thị trường Nhật Bản mà còn mở rộng sang thị trường Châu Âu Tuy nhiên, thành công này vẫn chưa phản ánh đúng tiềm năng thực sự của Công ty Trước những biến đổi trên thị trường sau khi Việt Nam gia nhập AFTA, WTO và ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Công ty đã xác định phương hướng hoạt động cho năm 2005.
Đầu tư vào việc mua sắm và hoàn thiện dây chuyền công nghệ là cần thiết để sản xuất đa dạng các loại sản phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường.
Tiếp tục công tác đào tạo thêm nhiều lao động có tay nghề cao bằng việc gửi 30 công nhân tới trường dạy nghề Hữu Lũng - Lạng Sơn
Chương trình nhập khẩu nguyên liệu:
Năm nay, chủng loại nguyên liệu nhập khẩu sẽ phong phú hơn so với các năm trước, bao gồm gỗ xây dựng như Lim, Chò, Dổi, Giáng Hương, Afromosia và Afxelia Ngoài ra, còn có các loại gỗ phục vụ sản xuất nội thất như Sồi, Beech, Maple, Poplar, cùng với gỗ keo và ván sàn phôi.
+ Thị trường nhập khẩu: Gỗ xây dựng (Châu Phi, Nam Mỹ, Châu á), gỗ nội thất(Châu Âu, Bắc Mỹ), gỗ keo (Malayxia), ván sàn phôi (Lào)
+Sản lượng nhập khẩu: Gỗ xây dựng là 800-1000M3/Năm tương đương 400.000USD, Gỗ nội thất 1500-2500M3/năm tương đương 500.000USD Chương trình xuất khẩu:
Sản phẩm xuất khẩu bao gồm ván sàn tinh chế với bề mặt sơn hoàn thiện, ván ghép xuất khẩu (FJ, FJL, EGB), đồ gỗ nội thất như bàn ghế ngoài trời và gỗ nguyên liệu.
+ Thị trường xuất khẩu: thị trường Nhật Bản, Châu Âu, Mỹ, Canada, Australia
Sản lượng xuất khẩu ván sàn đạt từ 800-1000m³, tương đương giá trị khoảng 1,5-1,8 triệu USD Hàng nội thất như bàn ghế ngoài trời có giá trị xuất khẩu khoảng 1 triệu USD, tương ứng với 1500 sản phẩm Ngoài ra, ván ghép xuất khẩu đạt từ 500.000 - 600.000 USD, tương đương với 500 - 600 m³ sản phẩm.