1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới

86 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Kiểm Định Các Nhân Tố Tác Động Đến Khả Năng Khủng Hoảng Ngân Hàng Tại Việt Nam Dựa Trên Kinh Nghiệm Của Thế Giới
Tác giả Nguyễn Quốc Thắng
Người hướng dẫn PGS.TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2013
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 369,16 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI (15)
    • 1.1 Lý thuyết tổng quan (15)
      • 1.1.1 Từ khóa chính (0)
      • 1.1.2 Lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng … (0)
    • 1.2 Nghiên cứu thực nghiệm (24)
    • 1.3 Tóm tắt chương 1 (29)
  • CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ THU THẬP DỮ LIỆU (31)
    • 2.1 Lựa chọn mô hình nghiên cứu (31)
    • 2.2 Lý thuyết mô hình và mô hình chi tiết (35)
      • 2.2.1 Lý thuyết mô hình (35)
      • 2.2.2 Mô hình chi tiết (36)
        • 2.2.2.1 Biến Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (Growth) (36)
        • 2.2.2.2 Biến lãi suất thực (real interest) (37)
        • 2.2.2.3 Biến tỷ giá hối đoái (exchange rate) (37)
        • 2.2.2.4 Biến lạm phát (inflation) (38)
        • 2.2.2.5 Biến tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (terms of trade) (38)
        • 2.2.2.6 Biến tấn công tiền tệ (M2/Reserve) (0)
        • 2.2.2.7 Biến bảo hiểm tiền gửi (deposit) (39)
        • 2.2.2.8 Biến tự do hóa tài chính (credit) (40)
    • 2.3 Ƣớc lƣợng và kiểm định mô hình đề nghị (0)
    • 2.4 Nguồn dữ liệu và trích lọc dữ liệu… (43)
    • 2.5 Kết quả hồi quy và kiểm định các giả thuyết (0)
      • 2.5.1 Xây dựng mô hình (44)
      • 2.5.2 Ý nghĩa của các biến giải thích (52)
    • 3.1 Khủng hoảng Thái Lan (0)
    • 3.2 Khủng hoảng tại Uruguay (0)
    • 3.3 Áp dụng mô hình nghiên cứu trong các trường hợp tại Thái Lan và (0)
    • 3.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam (62)
      • 3.4.1 Thực trạng hệ thống ngân hàng tại Việt Nam … (62)
      • 3.4.2 Những thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam (65)
      • 3.4.3 Các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng của Ngân hàng nhà nước (0)
      • 3.4.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng và sự cần thiết của việc xây dựng mô hình cảnh báo sớm (68)
      • 3.4.5 Xây dựng mô hình (70)
  • CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (74)
    • 4.1 Kết luận (74)
    • 4.2 Kiến nghị (0)
  • Tài liệu tham khảo (81)
  • Phụ lục (44)

Nội dung

LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI

Lý thuyết tổng quan

1.1.1 Khái niệm: Khủng hoảng ngân hàng

Các cuộc khủng hoảng ngân hàng có tác động tiêu cực lớn đến sự phát triển kinh tế của quốc gia, buộc chính phủ phải chi nhiều chi phí để phục hồi nền kinh tế Mặc dù các nền kinh tế có thể có những cách ứng phó khác nhau, nhưng khi thị trường tài chính bị ảnh hưởng xấu, chính phủ cần can thiệp để tránh sụp đổ Các nhà kinh tế học như Friedman và Schwartz đã liên kết khủng hoảng tài chính với khủng hoảng ngân hàng, cho rằng sự ổn định của hệ thống ngân hàng là yếu tố quan trọng để ngăn chặn khủng hoảng Sự sụp đổ của một tập đoàn tài chính lớn có thể dẫn đến rút tiền hàng loạt tại ngân hàng, khiến người gửi tiền hoảng loạn và rút hết tiền gửi Nếu không có sự can thiệp kịp thời của ngân hàng trung ương, ngay cả những ngân hàng hoạt động tốt cũng có thể gặp khó khăn Sự đổi mới tài chính và hội nhập thị trường tài chính toàn cầu đã tạo ra những yếu tố và mối quan ngại mới, khiến các cuộc khủng hoảng gần đây trở nên khác biệt so với trước đây, với sự lan truyền và hệ lụy khó nắm bắt hơn Ngày nay, khủng hoảng ngân hàng thường được xem là một phần của khủng hoảng tài chính rộng lớn hơn, có thể xảy ra độc lập hoặc đồng thời với khủng hoảng tiền tệ và nợ.

Theo Ergungor và Thomson (2005), khi vốn của hệ thống ngân hàng bị xói mòn và chi phí ứng phó khủng hoảng quá cao, nguy cơ xảy ra khủng hoảng ngân hàng sẽ tăng cao Một cú sốc trong hệ thống tài chính có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, dẫn đến các hành động ứng phó từ các nhà hoạch định chính sách tiền tệ, từ đó hình thành khủng hoảng ngân hàng Kaminsky và Reinhart (1996) cũng nhấn mạnh rằng khủng hoảng ngân hàng có thể được nhận diện qua các hoạt động của ngân hàng nhà nước, như sự gia tăng đột biến trong việc rút tiền gửi, cũng như các hoạt động như đóng cửa, sáp nhập, mua lại hoặc sự can thiệp của chính phủ đối với các tổ chức tài chính, như trường hợp của Venezuela.

Năm 1993, nếu không xảy ra việc rút tiền gửi đột biến, thì các hành động như đóng cửa, sáp nhập, mua lại hoặc trợ giúp lớn từ chính phủ đối với một tổ chức tài chính quan trọng (hoặc nhóm tổ chức) có thể đánh dấu sự khởi đầu cho một chuỗi kết quả tương tự ở các tổ chức tài chính khác.

Theo nghiên cứu năm 1998 của Demirguc-Kunt và Detragrache, khủng hoảng ngân hàng được xác định khi các khoản nợ xấu chiếm ít nhất 10% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng, đồng thời chi phí cứu trợ ngân hàng vượt quá 2% GDP Tình trạng này thường đi kèm với nhiều vấn đề nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng, dẫn đến nhu cầu quốc hữu hóa rộng rãi.

2 tác giả Ergungor và Thomson (2005)

1.1.2 Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng

Nhiều nghiên cứu toàn cầu đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng, nhưng không có lý thuyết nào đủ mạnh để giải thích toàn diện các vấn đề này Để hiểu rõ hơn về các cuộc khủng hoảng ngân hàng, cần xem xét nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác nhau Bài viết này sẽ giới thiệu các khung lý thuyết chính về khủng hoảng ngân hàng thông qua các nghiên cứu của Ergungor và Thomson (2005) cùng với Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a), vì đây là những nghiên cứu cập nhật và dễ hiểu Tôi sẽ bắt đầu với khung lý thuyết của các tác giả thuộc trường phái cổ điển, tiếp theo là quan điểm của Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a), và cuối cùng là quan điểm của Ergungor và Thomson (2005).

Theo quan điểm cổ điển, khủng hoảng hệ thống ngân hàng xuất phát từ chuỗi sự kiện bất ổn kinh tế vĩ mô, trong đó tình trạng mất khả năng chi trả của một ngân hàng có thể dẫn đến việc người gửi rút tiền hàng loạt tại các ngân hàng khác Các lý thuyết như của Kindleberger (1978) và Diamond, Dybvid (1983) cho rằng sự không thanh khoản của tài sản ngân hàng và tâm lý bầy đàn của khách hàng có thể gây ra tổn thương cho hệ thống tài chính, ảnh hưởng tiêu cực đến cả những ngân hàng hoạt động tốt Nếu không có sự bảo lãnh từ chính sách tiền tệ, sự mất khả năng thanh toán sẽ lan rộng, có thể dẫn đến sụp đổ toàn bộ hệ thống ngân hàng Cuộc tháo chạy rút vốn thường diễn ra do thông tin bất cân xứng, khiến người gửi không phân biệt được ngân hàng tốt xấu, cùng với sự thiếu kế hoạch phòng ngừa thanh khoản từ các nhà quản trị ngân hàng Ergungor và Thomson (2005) cũng đồng ý rằng quan điểm cổ điển giải thích hợp lý các vấn đề nội tại của khủng hoảng, nhưng chưa giải thích được nguồn gốc của các cuộc khủng hoảng ngân hàng gần đây Bên cạnh đó, các cú sốc về lãi suất, tỷ giá hối đoái và suy thoái kinh tế tại các nước đang phát triển cũng có thể góp phần gây ra khủng hoảng cho hệ thống ngân hàng, dẫn đến hạn chế thanh khoản và sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống.

Các yếu tố vi mô có thể đóng vai trò quan trọng trong sự suy sụp của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là chất lượng của khuôn khổ thể chế quốc gia Quy chế thị trường yếu kém, hành vi không minh bạch, quản trị công ty kém, bảo hiểm tiền gửi không đầy đủ và hệ thống giám sát yếu có thể dẫn đến thông tin lệch lạc, quản lý ngân hàng kém và tạo ra những điểm yếu dễ bị tổn thương, từ đó gây ra khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.

Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán và quản lý vốn cho nền kinh tế, chủ yếu nhận tiền gửi từ khách hàng để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ tài chính Hoạt động của ngân hàng truyền thống dựa vào sự chênh lệch kỳ hạn, huy động tiền gửi ngắn hạn và cho vay dài hạn, tuy nhiên, khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra khi niềm tin của người gửi tiền bị lung lay Khi ngân hàng gặp khó khăn thanh toán do nợ xấu gia tăng, việc rút tiền đột ngột có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, làm giảm giá trị tài sản ngân hàng và vốn cơ sở Mặc dù ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro tín dụng qua đa dạng hóa danh mục đầu tư và yêu cầu tài sản thế chấp, rủi ro này vẫn tồn tại do khó khăn trong đánh giá giá trị tài sản và biến động thị trường Do đó, bất kỳ cú sốc bất lợi nào đối với người vay đều có thể dẫn đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

Một yếu tố quan trọng làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng là tỷ suất lợi nhuận không tương xứng với chi phí huy động vốn Nhiều ngân hàng huy động tiền gửi ngắn hạn và cho vay dài hạn, dẫn đến rủi ro thanh khoản do đầu tư vào các dự án có tính thanh khoản thấp Họ thường kết hợp giữa ngân hàng truyền thống và ngân hàng đầu tư, chủ yếu thu hút vốn qua việc phát hành chứng khoán nợ ngắn hạn, trong khi đầu tư vào các tài sản không có giá trị cố định Điều này khiến ngân hàng phải đối mặt với rủi ro khi giá trị thị trường tài sản giảm xuống bằng hoặc thấp hơn giá trị nợ tiền gửi, do biến động lãi suất, vỡ nợ, hay thay đổi quy chế Khi lãi suất tiền gửi tăng, ngân hàng buộc phải tăng chi phí vốn, trong khi các khoản cho vay dài hạn thường cố định, khó điều chỉnh, dẫn đến khó khăn cho khách hàng trong việc tiếp cận vốn vay và gia tăng nợ xấu Sự gia tăng lãi suất ngắn hạn có thể do chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc các biện pháp thúc đẩy tự do tài chính của chính phủ.

Tính an toàn của hệ thống ngân hàng phụ thuộc vào các nguy cơ từ tiền gửi nước ngoài, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động ngân hàng Tự do hóa tài chính mang lại lợi ích dài hạn cho các nước đang phát triển, nhưng cũng tạo ra rủi ro mới, có thể dẫn đến khủng hoảng ngân hàng Việc ngân hàng vay ngoại tệ và NHNN phá giá mạnh tỷ giá hối đoái có thể làm giảm lợi nhuận Để giảm thiểu rủi ro tỷ giá, ngân hàng cần huy động tiền gửi tiết kiệm trong nước, nhưng trong nền kinh tế mở, rủi ro này vẫn tồn tại Các nhà quản trị ngân hàng cần nắm bắt và phân tích nguyên nhân biến động tỷ giá, dự báo chính xác và áp dụng các giải pháp quản lý rủi ro phù hợp, nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng và duy trì sự ổn định, bền vững trong tăng trưởng.

Cuộc rút vốn hàng loạt của nhà đầu tư nước ngoài sau thời gian dài đầu tư gây ra bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng, theo Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) Sự gia tăng dòng vốn vào trong nước được thúc đẩy bởi tự do hóa tài chính và lãi suất đồng nội tệ cao Khi nhà đầu tư mất niềm tin hoặc lãi suất ngoại tệ tăng, họ sẽ rút tiền gửi, dẫn đến tình trạng kém thanh khoản cho các ngân hàng nội địa Tại các quốc gia, việc nhà đầu tư tài chính trong nước chuyển đổi sang ngoại tệ do lo ngại mất giá đồng nội tệ cũng làm tăng nguy cơ khủng hoảng Krugman đã chỉ ra rằng nhà đầu tư thường chọn sử dụng đồng nội tệ để mua ngoại tệ từ các nền kinh tế phát triển nhằm tránh tổn thất Theo Sach et al (1996), khi khách hàng giảm tiền gửi tại ngân hàng, hệ thống ngân hàng sẽ đối mặt với vấn đề thanh khoản nghiêm trọng.

Quá trình thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng, cùng với việc tự do hóa tài chính, đã góp phần gây ra khủng hoảng tài chính (Ergungor và Thomson, 2005) Hệ thống tài chính ngày càng quốc tế hóa mang lại cả cơ hội và thách thức cho các ngân hàng Giannetti (2006) cho rằng, tự do hóa tài chính giúp các công ty dễ dàng tiếp cận nguồn vốn qua trái phiếu doanh nghiệp và thương phiếu, thay vì phụ thuộc vào ngân hàng Tuy nhiên, sự cạnh tranh gia tăng khiến thị trường tiền gửi thu hẹp, buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để thu hút khách hàng, dẫn đến giảm lợi nhuận và tăng chi phí Kết quả là, các tổ chức ngân hàng yếu kém có nguy cơ thua lỗ, sụp đổ hoặc phải sáp nhập.

Chính sách tiền tệ nới lỏng và lãi suất thấp kéo dài có thể dẫn đến khủng hoảng ngân hàng do tăng trưởng tiền tệ quá mức Điều này thường làm gia tăng giá trị tài sản như bất động sản, cổ phiếu và khoản vay tiêu dùng Các ngân hàng mở rộng thị phần khi giá tài sản tăng, cho thấy đầu tư trên thị trường đang diễn ra và rủi ro ở mức thấp Xu hướng này tiếp tục khi các nhà đầu tư tin tưởng vào sự gia tăng giá trị tài sản trong tương lai.

Mặc dù các ngân hàng nhận thức được rằng xu hướng cho vay hiện tại không bền vững, họ vẫn tiếp tục cho vay với hy vọng có thể gỡ bỏ các khoản nợ xấu trước khi thị trường sụp đổ Nghiên cứu "Bubbles in Real Estate Markets" của Herring và Wachter (2002) chỉ ra rằng động cơ cho vay và đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro đã làm tăng giá thị trường bất động sản do các cú sốc kinh tế không thường xuyên xảy ra, khiến ngân hàng khó dự đoán được tác động Sự tự tin thái quá và đánh giá thấp các cú sốc không dự đoán đều có thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng, với kết quả cuối cùng thường không thay đổi.

Nền kinh tế đối mặt với lạm phát cao do gia tăng giá tài sản và bùng nổ tín dụng, buộc chính phủ phải can thiệp mạnh mẽ Các chính sách quy định lãi suất và hạn chế vay mượn được áp dụng nhằm làm nguội nền kinh tế Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế chậm lại, giảm giá trị tài sản, làm giảm khả năng trả nợ của người vay, kéo theo lợi nhuận ngân hàng giảm và gia tăng nợ xấu, ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống ngân hàng.

Nghiên cứu thực nghiệm

Trong nghiên cứu của Roberto et al (2005) về mô hình khủng hoảng kinh tế và tài chính, các tác giả đã chỉ ra rằng mô hình logic và mô hình probit là những công cụ hiệu quả để dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng thông qua việc phân tích các chỉ số cảnh báo Mô hình này sử dụng một biến khủng hoảng giả làm biến phụ thuộc và xây dựng các biến giải thích liên quan đến lĩnh vực tài chính và kinh tế vĩ mô Roberto et al (2005) cho rằng phương pháp này được ưa chuộng hơn các phương pháp khác nhờ vào hiệu quả cao và khả năng ước lượng tác động của các biến giải thích lên biến phụ thuộc Hơn nữa, nó còn có thể dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng trong tương lai.

Trong nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến khủng hoảng ngân hàng, Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) đã phát triển lý thuyết khủng hoảng ngân hàng bằng cách phân tích vai trò của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế và các vấn đề tài chính của ngân hàng Họ áp dụng phương pháp nghiên cứu này để xác định các nhân tố quan trọng gây ra khủng hoảng ngân hàng Sử dụng mô hình logit, các tác giả đã kết nối các biến giải thích nhằm xác định khả năng xảy ra khủng hoảng, trong đó biến giả đại diện cho khủng hoảng ngân hàng nhận giá trị 1 khi khủng hoảng xảy ra và 0 khi không có khủng hoảng Các tham số của hàm logit được ước lượng bằng phương pháp hợp lý cực đại.

Theo Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a), nguyên nhân khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ sự phản ứng của người gửi tiền đối với thông tin bất đối xứng với ngân hàng Khi niềm tin vào hệ thống ngân hàng bị lung lay, ví dụ do các ngân hàng gặp khó khăn thanh toán, có thể xảy ra hiện tượng rút tiền đột ngột, dẫn đến khủng hoảng thanh khoản và giảm hiệu quả hệ thống ngân hàng Việc rút vốn đồng loạt có thể không ngay lập tức gây ra khủng hoảng, nhưng trong những điều kiện nhất định, sẽ dẫn đến rút vốn dây chuyền, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hệ thống Để giảm nguy cơ hoảng loạn ngân hàng, thiết lập cơ chế bảo hiểm tiền gửi là cần thiết, giúp củng cố niềm tin của công chúng và ngăn ngừa rút tiền ồ ạt Bảo hiểm tiền gửi cũng cho phép các ngân hàng yếu kém rút lui một cách có trật tự, nhưng có thể dẫn đến rủi ro đạo đức, khi người gửi tiền không còn giám sát hoạt động của ngân hàng Kane (1989) chỉ ra rằng, ở nhiều quốc gia, việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi mà không chuẩn bị cho tự do hóa tài chính đã tạo điều kiện cho các cuộc khủng hoảng ngân hàng, như tại Brazil, Chile và Mexico.

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) đã nghiên cứu các yếu tố quyết định khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng, dựa trên lý thuyết khủng hoảng ngân hàng, bao gồm các yếu tố kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP thực, biến động tỷ giá thương mại, lãi suất thực và tỷ lệ thặng dư ngân sách của chính phủ so với GDP Họ cũng xem xét các biến tài chính như tỷ lệ cung tiền M2 so với dự trữ ngoại hối và tỷ lệ tín dụng khu vực tư nhân so với GDP, cùng với các yếu tố thể chế như bảo hiểm tiền gửi và GDP thực bình quân đầu người Nghiên cứu sử dụng dữ liệu vĩ mô từ 45 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1980-1994, chủ yếu lấy từ IFS (International Financial Statistics), sau khi loại trừ một số quốc gia do thiếu dữ liệu cần thiết.

Kết quả hồi quy cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ lạm phát cao và quản lý kinh tế vĩ mô yếu kém là những nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng Bên cạnh đó, lãi suất thực cao cũng góp phần vào vấn đề này, trong khi việc thực thi pháp luật yếu kém liên quan chặt chẽ đến rủi ro khủng hoảng.

Các cuộc khủng hoảng ngân hàng có tác động ngược lại đến các yếu tố kinh tế, như được nhấn mạnh bởi Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) Họ chỉ ra rằng tỷ lệ tín dụng trên GDP thường giảm sau khủng hoảng, dẫn đến những hệ lụy tiêu cực cho các biến kinh tế khác, chẳng hạn như sự sụt giảm GDP Ngoài ra, lãi suất thực cũng có thể bị ảnh hưởng, với khủng hoảng ngân hàng thường xuất phát từ lãi suất thực thấp do chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc các biện pháp cứu trợ ngân hàng Tác giả nhấn mạnh rằng các kết quả hồi quy cần loại trừ quan sát sau khủng hoảng, nhưng việc xác định thời điểm kết thúc khủng hoảng có thể gặp khó khăn.

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) chỉ ra rằng các quốc gia đã từng trải qua khủng hoảng có khả năng đối mặt với khủng hoảng cao hơn so với những quốc gia chưa có kinh nghiệm Do đó, họ đề xuất rằng các mô hình ước lượng nghiên cứu nên bổ sung thêm các biến như số lượng khủng hoảng trong quá khứ và thời gian kể từ khủng hoảng gần nhất.

Một kỹ thuật quan trọng trong dự báo khủng hoảng ngân hàng được phát triển bởi Roberto et al (2005) là phương pháp dựa trên các dấu hiệu cảnh báo, yêu cầu xây dựng giá trị ngưỡng cho mỗi biến giải thích, gọi là ngưỡng an toàn Khả năng xảy ra khủng hoảng tăng lên khi các chỉ số vượt qua ngưỡng này Kaminsky và Reinhart (1996) đã nghiên cứu khủng hoảng ngân hàng thông qua tỷ lệ dấu hiệu cảnh báo tối thiểu, với tỷ lệ này càng nhỏ, hiệu quả dự báo càng cao Họ đã thay thế các giá trị ngưỡng khác nhau để tìm ra tỷ lệ cảnh báo tối ưu Mặc dù phương pháp của Roberto et al (2005) giúp xác định nguồn gốc khủng hoảng, nhưng nó không tính đến tương tác giữa các biến và thiếu một khuôn khổ cho thử nghiệm thống kê và dự đoán khả năng khủng hoảng tương lai.

Trong nghiên cứu của Kaminsky và Reinhart (1996) về hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng, các tác giả đã phân tích các chính sách của ngân hàng trung ương trong thời kỳ khủng hoảng Họ chỉ ra rằng khủng hoảng ngân hàng thường liên quan đến các hoạt động của ngân hàng nhà nước, như việc người gửi tiền rút tiền gửi một cách đột ngột Điều này có thể dẫn đến các tình huống như đóng cửa, sáp nhập, mua lại, hoặc sự can thiệp của chính phủ đối với một hoặc nhiều tổ chức tài chính.

Bài viết của Kaminsky và Reinhart (1996) có một số hạn chế đáng chú ý, bao gồm việc đề cập đến các cuộc khủng hoảng tài chính có thể diễn ra quá muộn, khi các vấn đề đã bắt đầu trước khi ngân hàng phải đóng cửa hoặc sát nhập Ngược lại, bài viết cũng có thể đưa ra nhận định quá sớm, khi những tác động tiêu cực nhất của khủng hoảng chưa bộc lộ Thêm vào đó, nghiên cứu này gặp khó khăn trong việc thu thập dữ liệu, chỉ liệt kê danh sách khủng hoảng ngân hàng của hơn 20 quốc gia, điều này gây trở ngại cho các nghiên cứu tiếp theo trong việc mở rộng phạm vi nghiên cứu.

Trong nghiên cứu về khủng hoảng ngân hàng, Caprio và Klingebiel (1996b) định nghĩa khủng hoảng ngân hàng là khi giá trị thực của hệ thống ngân hàng gần như bị loại bỏ hoàn toàn, khác với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ngân hàng vẫn có vấn đề dù có dấu hiệu lạc quan Họ cho rằng việc xác định khủng hoảng ngân hàng dễ dàng hơn khi kết hợp với tình trạng mất khả năng thanh toán Khi các ngân hàng nắm giữ quá nhiều nợ xấu, điều này có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến vốn của hệ thống Dựa trên dữ liệu từ các ngân hàng ở các nước đang phát triển trong thập niên 1980, họ chỉ ra rằng tỷ lệ nợ xấu tối thiểu 5% tổng số nợ vay đủ để gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng Nghiên cứu của họ xem xét hơn 80 cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn cầu và phát hiện rằng 75% các nước gặp khủng hoảng đều ghi nhận tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu giảm gần 10% trong những năm trước khủng hoảng.

Tóm tắt chương 1

Các cuộc khủng hoảng ngân hàng được xác định bởi ba nhóm yếu tố chính: yếu tố vĩ mô như khó khăn của người vay và lãi suất danh nghĩa, yếu tố tài chính như các cuộc tấn công đầu cơ và tự do hóa tài chính, và yếu tố thể chế liên quan đến chất lượng quản trị ngân hàng và chính sách bảo hiểm tiền gửi Những yếu tố này tương tác phức tạp, làm khó khăn trong việc đánh giá tác động riêng biệt của từng yếu tố Bài viết sẽ tiếp tục thảo luận về các phương pháp phân tích tác động của từng yếu tố đến khủng hoảng, đồng thời xem xét các nghiên cứu thực nghiệm để đưa ra hai giải pháp: mô hình logit và mô hình tỷ lệ dấu hiệu cảnh báo tối thiểu Mỗi phương pháp có những ưu điểm và nhược điểm riêng, do đó cần lựa chọn mô hình nghiên cứu một cách cẩn trọng trong chương tiếp theo.

MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ THU THẬP DỮ LIỆU

Lựa chọn mô hình nghiên cứu

Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng đã làm rõ ảnh hưởng của các biến vĩ mô đến sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng, cung cấp một khuôn khổ quan trọng cho việc áp dụng các phương pháp thống kê nhằm dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng.

Bài nghiên cứu này xem xét các phương pháp xác định giá trị giới hạn cho từng biến nhằm giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng Phương pháp đầu tiên dựa trên tỷ lệ dấu hiệu cảnh báo tối thiểu, cho phép hiểu rõ hơn cách hạn chế tần suất khủng hoảng theo Kaminsky và Reinhart (1996) Tuy nhiên, phương pháp này chỉ đạt được kết quả chấp nhận được trong việc giảm thiểu khả năng khủng hoảng Do đó, mô hình logit đa biến được lựa chọn là phương pháp tối ưu, vì nó đánh giá tác động biên của từng biến đến khả năng xảy ra khủng hoảng, từ đó giúp giảm thiểu rủi ro Hơn nữa, mô hình này có thể được xử lý bằng các phần mềm kinh tế như Sata và Eviews, giúp rút ngắn thời gian xử lý dữ liệu.

Mô hình logit nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố nguy cơ và đối tượng phân tích, như khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng liên quan đến các yếu tố kinh tế vĩ mô, tài chính và thể chế Trong mô hình này, các đối tượng nghiên cứu thường được biểu diễn qua các biến nhị phân như xảy ra/không xảy ra Việc sử dụng mô hình hồi quy thông thường không đảm bảo rằng giá trị dự đoán sẽ nằm trong khoảng 0 và 1, điều này có thể dẫn đến những kết quả không chính xác về khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

Mô hình logit, dựa trên hàm phân phối xác suất logistic, được trình bày trong Bài kinh tế lượng cơ bản của Gujarati (2003) Công thức tính toán mô hình này cho phép phân tích các biến số định tính một cách hiệu quả.

Do đó có thể viết lại công thức trên dưới dạng:

Với Zi=β1+ β2X2+…+ βkXk+Ui (2.2) Công thức có thể được viết lại như sau: z

Không khó để nhận thấy trong khi Zi nhận các giá trị (-∞, +∞) thì Pi nhận các giá trị trong khoảng (0,1) và Pi có quan hệ phi tuyến với Zi.

Với Pi là khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng và (1-Pi) là khả năng không xảy ra khủng hoảng, công thức có thể viết

Tỷ số nguy cơ (Odds Ratio - OR), được tính bằng Pi/(1-Pi), là một chỉ số thống kê quan trọng trong hồi quy logit Nó thể hiện khả năng xảy ra của một sự kiện, cụ thể là tỷ số giữa xác suất p (biến phụ thuộc nhận giá trị 1) và xác suất 1-p (biến phụ thuộc nhận giá trị 0).

Lấy ln cả hai vế, phương trình:

L không chỉ có tính tuyến tính đối với biến số mà còn với các tham số Khi Z thay đổi trong khoảng từ -∞ đến +∞, P sẽ biến thiên từ 0 đến 1, trong khi L lại có thể thay đổi từ -∞ đến +∞ Điều này cho thấy mặc dù P chỉ nhận giá trị trong khoảng (0, 1), nhưng L không bị giới hạn trong bất kỳ khoảng nào.

Trong mô hình logit, các nhà kinh tế tập trung vào ảnh hưởng của các biến độc lập đến khả năng xảy ra khủng hoảng thay vì tác động trực tiếp đến biến phụ thuộc Việc thay đổi một đơn vị của các biến giải thích không làm thay đổi khả năng xảy ra khủng hoảng, mà các hệ số thể hiện tác động của chúng lên hàm log của tỷ số odd Điều này có nghĩa là tác động biên của mỗi biến sẽ thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào các hệ số của nó Hình dạng S của hàm logic chỉ ra rằng tác động của các biến giải thích lên khả năng xảy ra khủng hoảng khác nhau tùy thuộc vào tình trạng ban đầu Cụ thể, nếu khả năng xảy ra khủng hoảng ở mức thấp, tác động biên của các biến độc lập sẽ không đáng kể, nhưng sẽ mạnh hơn nếu các nước có dấu hiệu cảnh báo khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.

Lý thuyết mô hình và mô hình chi tiết

Trong cuốn sách về kinh tế, Gujarati (2003) nhấn mạnh rằng việc xây dựng mô hình cần kết hợp lý thuyết kinh tế, hành vi con người, nghiên cứu trước đó và kinh nghiệm thực tiễn Tuy nhiên, sai số trong nghiên cứu có thể phát sinh do thiếu biến liên quan hoặc mô hình không phù hợp Nhiều tác giả thừa nhận rằng phương trình logit là thích hợp để nghiên cứu xác suất khủng hoảng ngân hàng Nghiên cứu này áp dụng phương pháp lập mô hình từ tổng quát đến đơn giản để đạt được kết quả đáng tin cậy Mặc dù có thể xuất hiện các biến không phù hợp, nhưng nghiên cứu sẽ dần hướng tới mô hình không chệch với các hệ số ước lượng chính xác Việc kiểm định giả thuyết và ước lượng sai số cũng sẽ được thực hiện liên tục Tuy nhiên, sự hiện diện của các biến không cần thiết có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của dự báo Qua các phương pháp kiểm định, mô hình phù hợp sẽ được xác định, cho thấy rằng phương thức từ tổng quát đến đơn giản là lựa chọn tối ưu trong trường hợp này.

Để xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng, cần tập hợp tất cả các biến có sẵn Dựa trên khung lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng và dữ liệu hiện có, mô hình nghiên cứu trong bài viết này được đề xuất như sau: Phương trình (2.7).

  Ex   Inflatio n   TOT M 2 / Re se i 1 P  1 1

Với: Growth là đại diện của biến các yếu tố tăng trưởng của một quốc gia Real interest là đại diện của biến nhân tố lãi suất

Trong nghiên cứu kinh tế, tỷ giá (Ex) đại diện cho biến nhân tố tỷ giá, trong khi lạm phát (Inflation) là yếu tố chính của biến nhân tố lạm phát Tỷ giá thương mại (TOT) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích các yếu tố kinh tế M2/Reserve thể hiện các nhân tố tấn công tiền tệ, trong khi tiền gửi (Deposit) đại diện cho các nhân tố bảo hiểm tiền gửi Cuối cùng, tăng trưởng tín dụng (Creditgrowth) phản ánh các nhân tố tự do hóa thương mại.

Và u là đại diện các biến không quan sát được và góp phần gây ra khủng hoảng ngân hàng.

2.2.2.1 Biến Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (Growth)

Biến tỷ lệ tăng trưởng GDP thực là yếu tố đầu tiên trong mô hình nghiên cứu, thể hiện rằng khủng hoảng ngân hàng có thể gây ra những tác động tiêu cực đến tình hình tài chính của người vay và hệ thống ngân hàng, dẫn đến gia tăng nợ xấu và nguy cơ khủng hoảng Mặc dù đa dạng hóa đầu tư có thể là giải pháp giảm rủi ro, trong bối cảnh kinh tế trì trệ, biện pháp này không còn hiệu quả Nghiên cứu này sử dụng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trong nước (GDP) để ghi nhận các cú sốc kinh tế vĩ mô, với dữ liệu từ dòng 99bvp của IFS, đo lường bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP thực qua các năm.

2.2.2.2 Biến Lãi suất thực (real interest) Đây là biến thứ hai được đề cập đến trong mô hình đề nghị (2.1) Như đã thảo luận ở trên, việc gia tăng đột ngột lãi suất thực trong ngắn hạn sẽ tác động xấu lên tình trạng tài chính của cả người đi vay và người cho vay Qua đó, cũng góp phần làm gia tăng khả năng xảy ra khủng hoảng cho hệ thống ngân hàng Theo lý thuyết đã đề cập, việc gia tăng lãi suất thực trong ngắn hạn chỉ ra rằng hệ thống ngân hàng bị đặt dưới áp lực thanh khoản, việc này có thể là hậu quả của cuộc tấn công tiền tệ của các nhà đầu cơ hoặc các chính sách tiền tệ mở rộng trong dài hạn hoặc do việc thực hiện chính sách tự do hóa tài chính của chính phủ Nói cách khác, sử dụng biến này để dự báo khả năng khủng hoảng ngân hàng là rất cần thiết bởi vì nó đại diện cho các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến cuộc khủng hoảng Đây được kỳ vọng là biến sẽ có tác động mạnh trong các yếu tố cần nghiên cứu trong bài nghiên cứu này Biến này sử dụng dữ liệu từ dòng 60L, trong bộ dữ liệu của IFS. Biến này đo lường tỷ lệ phần trăm thay đổi của lãi suất thực (lãi suất danh nghĩa loại bỏ đi tỷ lệ lạm phát) qua các năm của các quốc gia

2.2.2.3 Biến Tỷ giá hối đoái (exchange rate)

Biến tỷ giá hối đoái có thể làm tăng rủi ro khủng hoảng khi cả người gửi và ngân hàng đều có nợ nước ngoài lớn Một sự mất giá đột ngột của đồng nội tệ sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ, khiến khu vực tài chính dễ sụp đổ Bài nghiên cứu này sẽ kiểm nghiệm giả thuyết này bằng cách sử dụng tỷ lệ mất giá của tỷ giá hối đoái, được đo lường bằng phần trăm thay đổi hàng năm so với đồng đôla Mỹ, với dữ liệu được chiết xuất từ dòng ae của IFS.

Một yếu tố quan trọng trong mô hình nghiên cứu dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng là lạm phát Nghiên cứu của Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) chỉ ra rằng tỷ lệ lạm phát phản ánh hoạt động quản lý yếu kém của chính phủ, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và các doanh nghiệp Lạm phát cao kéo dài có thể làm suy giảm tình hình kinh tế quốc gia, từ đó tác động xấu đến hoạt động của ngân hàng Do đó, lạm phát được kỳ vọng sẽ làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng Yếu tố này được đo lường qua tỷ lệ thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng hàng năm, sử dụng dữ liệu từ dòng 64.x trong bộ dữ liệu IFS.

2.2.2.5 Biến Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (Terms Of Trade)

Biến động tỷ giá thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc gia, đặc biệt khi tỷ giá giảm, buộc quốc gia phải tăng xuất khẩu để duy trì mức nhập khẩu Sự thay đổi này không chỉ gây lo ngại về khả năng khủng hoảng ngân hàng mà còn làm khó khăn cho khách hàng trong việc tìm kiếm nguồn vốn vay Chỉ số tỷ giá thương mại xuất khẩu có mối tương quan mạnh mẽ với các cuộc khủng hoảng tài chính, đặc biệt ở các nước đang phát triển, nơi ngân hàng chưa chú trọng vào lĩnh vực công nghiệp Dữ liệu về biến động này được thu thập từ WDI 2012, cho thấy sự thay đổi tỷ lệ thương mại của từng quốc gia qua các năm.

2.2.2.6 Biến Tỷ lệ cung tiền trên dự trữ ngoại hối (M2/Reserve) đại diện cho biến các hoạt động tấn công tiền tệ

Nghiên cứu của Sachs et al (1996) chỉ ra rằng lo ngại về tỷ giá mất giá có thể dẫn đến việc tháo vốn khỏi ngân hàng, đặc biệt khi quốc gia có dự trữ ngoại hối thấp, khiến người nắm giữ đồng nội tệ chuyển sang đồng ngoại tệ Xu hướng này có thể gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng, dẫn đến tình trạng người gửi tiền đồng loạt rút tiền và ngân hàng có nguy cơ mất khả năng thanh toán Nghiên cứu của Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) sử dụng tỷ lệ M2 trên lượng dự trữ ngoại hối để đánh giá tác động của cuộc tấn công tiền tệ lên hệ thống ngân hàng, trong khi Calvo (1996) coi tỷ lệ này là yếu tố quyết định dự đoán khủng hoảng ngân hàng do mất cân đối cán cân thanh toán Dữ liệu cho biến M2 được thu thập từ dòng 34-35 của bộ dữ liệu IFS, đo lường tiền và các khoản tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại so với lượng dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương qua từng năm.

2.2.2.7 Biến Bảo hiểm tiền gửi (Deposit)

Bảo hiểm tiền gửi tại các quốc gia có thể tồn tại dưới hai dạng: rõ ràng và không rõ ràng Theo Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a), bảo hiểm rõ ràng xảy ra khi ngân hàng mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi hoặc khi chính phủ cam kết bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng gặp khó khăn Biến này được xem là một biến giả trong nghiên cứu, với giá trị 1 nếu quốc gia có hệ thống bảo hiểm rõ ràng và 0 nếu không Mặc dù dự đoán rằng bảo hiểm tiền gửi sẽ hạn chế khủng hoảng ngân hàng, mối quan hệ giữa chúng lại không rõ ràng Bảo hiểm tiền gửi có thể làm giảm lo sợ về sự hoảng loạn, nhưng hiệu quả của nó sẽ bị ảnh hưởng khi xảy ra rủi ro đạo đức, khi ngân hàng đầu tư vào các khoản có rủi ro cao Biến này được chiết xuất từ báo cáo thường niên của IADI (2012).

2.2.2.8 Biến Tự do hóa tài chính (credit)

Biến đại diện cho tự do hóa tài chính tại mỗi quốc gia được đề xuất trong mô hình nghiên cứu này Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng cho thấy rằng sau khi tự do hóa lĩnh vực tài chính, thị trường tiền gửi trở nên cạnh tranh hơn khi nhà đầu tư nước ngoài cung cấp vốn với chi phí thấp, buộc các ngân hàng phải tăng chi phí hoạt động để giữ khách hàng Khi thu nhập giảm, ngân hàng có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ Allegret et al (2003) chỉ ra ba kênh mà tự do hóa tài chính ảnh hưởng đến sự bền vững của ngân hàng: mở cửa hệ thống tài chính, bãi bỏ quy định lãi suất và bãi bỏ quy định về khoản nợ vay Galbis (1993) cho rằng lãi suất thực là đại diện tốt nhất cho tự do hóa tài chính, nhưng lãi suất thực cao có thể do các yếu tố khác như tấn công tiền tệ hoặc chính sách thắt chặt tiền tệ Do đó, bài viết này đánh giá tác động của hai kênh còn lại thông qua các biến tin cậy, sử dụng tỷ lệ tín dụng trong nước trên GDP và tốc độ tăng trưởng tín dụng trong nước làm biến giải thích cho tự do hóa tài chính, với dữ liệu thu thập từ bộ dữ liệu IFS.

2.3 Ƣớc lƣợng và kiểm định mô hình đề nghị

Trong phần trước, mô hình từ tổng quát đến đơn giản được coi là phương pháp hiệu quả nhất để xây dựng mô hình phù hợp với yêu cầu Để đạt được mục tiêu này, quá trình được thực hiện qua bốn bước cụ thể.

Để xác định mô hình tổng quát, trước tiên cần áp dụng các lý thuyết kinh tế, nghiên cứu trước đây và kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời xem xét tất cả các hệ số hồi quy liên quan có thể.

- Ước lượng mô hình đề xuất.

Bước tiếp theo trong quá trình nghiên cứu là loại bỏ các tham số không có ý nghĩa thống kê, bắt đầu từ những biến có ý nghĩa thấp nhất.

Việc loại bỏ các biến không có ý nghĩa thống kê có thể nâng cao mức ý nghĩa của các biến còn lại Do đó, các biến không phù hợp được loại bỏ một cách từng bước.

Nguồn dữ liệu và trích lọc dữ liệu…

Nghiên cứu của Caprio-Klingebiel (1996b) về các cuộc khủng hoảng ngân hàng, cùng với dữ liệu từ Honohan et al (2005), cung cấp nguồn thông tin chính để phân tích biến khủng hoảng Bài nghiên cứu này tổng hợp dữ liệu mới về các cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn cầu từ năm 1970 đến 2010, đồng thời xem xét các chính sách của chính phủ nhằm giải quyết vấn đề này.

Biến bảo hiểm tiền gửi (biến dummy) được lấy từ nghiên cứu của Demirgüç-Kunt et al (2006b) và Tổ chức thế giới về bảo hiểm tiền gửi IADI (2012) Nghiên cứu của Demirgüç-Kunt et al cung cấp thông tin chi tiết về việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi tại hơn 180 quốc gia, bao gồm năm đầu tiên hệ thống bảo hiểm được công bố và tên các tổ chức chính phủ thực hiện Dữ liệu này được IADI cập nhật thông qua một bảng câu hỏi với hơn 160 câu hỏi, bao gồm 14 lĩnh vực liên quan đến bảo hiểm tiền gửi như thông tin cơ bản, mục tiêu, nhiệm vụ, quyền hạn và nguồn nhân lực, nhằm đánh giá hiệu quả thực hiện bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia.

Kết quả hồi quy và kiểm định các giả thuyết

Kê tài chính quốc tế (International Financial Statistic - IFS) là nguồn dữ liệu đáng tin cậy từ tổ chức IMF, được cung cấp qua CD-ROM và Internet Bộ dữ liệu này bao gồm thông tin thống kê của hơn 200 quốc gia, với khoảng 32.000 chỉ tiêu kinh tế xã hội được cập nhật thường xuyên Người dùng có thể truy xuất dữ liệu theo thông tin quốc gia, thông tin toàn cầu hoặc các chỉ tiêu so sánh giữa các quốc gia.

Bài viết này trình bày các biến được rút trích từ IFS, bao gồm tỷ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất thực, tốc độ tăng trưởng, tín dụng cá nhân trên GDP, và M2 trên GDP Thông tin chi tiết về các biến này được thể hiện trong bảng phụ lục.

Dữ liệu nghiên cứu bắt nguồn từ danh sách 180 quốc gia thực hiện bảo hiểm tiền gửi, trong đó 75 quốc gia bị loại do thiếu dữ liệu kinh tế vĩ mô và tài chính Tiếp theo, 22 quốc gia thành viên OECD (quốc gia có thu nhập cao) bị loại vì nghiên cứu chỉ tập trung vào các quốc gia đang phát triển Cuối cùng, 3 quốc gia (Argentina, Brazil và Bolivia) cũng bị loại do không thu thập được dữ liệu về lạm phát và tỷ lệ lãi suất thực Sau quá trình lọc, mẫu nghiên cứu được giới hạn trong 80 quốc gia đang phát triển, với danh sách các quốc gia được trình bày trong bảng phụ lục.

2.5 Kết quả hồi quy và kiểm định các lý thuyết

2.5.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu về các tác nhân tác động đến khủng hoảng ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển

Khi xây dựng mô hình hồi quy, mục tiêu chính là ước lượng hệ số hồi quy sao cho đạt được tính không thiên lệch, tính nhất quán và hiệu quả cao nhất Để có được mô hình phù hợp nhất, cần kết hợp giữa kinh nghiệm thực tiễn, lý thuyết kinh tế và các kiểm định thống kê Mô hình kỳ vọng cần đảm bảo có ý nghĩa thống kê và phù hợp với các tiêu chuẩn lý thuyết đã đề ra Do đó, trước khi tiến hành ước lượng, việc thảo luận về dấu hiệu và sự tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến giải thích là rất quan trọng, dựa trên lý thuyết kinh tế, trực quan và kinh nghiệm quá khứ.

Mô hình nghiên cứu dự kiến phương trình (2.7):

Growth Re al int erest   Ex   Inflatio n   TOT M 2 / Re serve i 1 P  1 1

Theo các lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến khủng hoảng Sự tác động tiêu cực từ kinh tế vĩ mô có thể làm suy giảm nền kinh tế, trong khi việc hệ thống ngân hàng không thực hiện đa dạng hóa có thể dẫn đến gia tăng nợ xấu Điều này đồng nghĩa với việc khả năng xảy ra khủng hoảng cũng tăng lên.

Trong lĩnh vực ngân hàng, các tác động từ tấn công tiền tệ, chính sách mở rộng tiền tệ dài hạn và tự do hóa tài chính có thể dẫn đến cuộc đua lãi suất ngắn hạn giữa các ngân hàng, tạo ra áp lực thanh khoản Do đó, lãi suất ngắn hạn được dự đoán sẽ phản ánh nguy cơ khủng hoảng ngân hàng, với kỳ vọng rằng hệ số 2 sẽ có giá trị dương, cho thấy hiệu ứng tích cực trong bối cảnh này.

Khi thị trường vốn quốc tế không còn tin tưởng vào thị trường nội địa, người gửi tiền có thể rút vốn hàng loạt khỏi ngân hàng, gây ra bất ổn tài chính và làm tăng biến động tỷ giá hối đoái Vì vậy, hệ số  3 kỳ vọng sẽ có xu hướng âm.

Tại các thị trường mới nổi, tự do hóa tài chính do các nhà hoạch định chính sách áp dụng đã dẫn đến việc bãi bỏ một số quy định trong lĩnh vực tài chính, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng trong nước Dưới áp lực cạnh tranh, những ngân hàng hoạt động kém có thể phải đối mặt với việc sáp nhập hoặc phá sản Theo lý thuyết, việc tự do hóa tài chính gia tăng nguy cơ đổ vỡ của ngân hàng, làm tăng hệ số rủi ro trong ngành.

 8 quan dương với xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng. được kỳ vọng có tương

Lạm phát không chỉ phản ánh khả năng quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ mà còn ảnh hưởng đến lãi suất, với hệ số 4 có xu hướng tương đồng với hệ số lãi suất thực 2, dự đoán sẽ có tương quan dương với khả năng xảy ra khủng hoảng Tỷ lệ thay đổi tỷ giá hối đoái và tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu có thể giải thích tình trạng khó khăn của ngân hàng, khi sự mất giá của tỷ giá hối đoái làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài và suy giảm giá trị thương mại xuất khẩu giảm khả năng tài chính của người vay Mặc dù có sự khác biệt trong tác động của các yếu tố này đến ngân hàng, nhưng kết quả chung là làm tăng nguy cơ đổ vỡ Hệ số tỷ giá hối đoái 6 được kỳ vọng là dương, trong khi hệ số tỷ giá thương mại 5 có mối tương quan âm Cuối cùng, theo lý thuyết khủng hoảng ngân hàng, ảnh hưởng của bảo hiểm tiền gửi không rõ ràng; nó có thể hạn chế khủng hoảng nhưng cũng có thể khuyến khích ngân hàng thực hiện các dự án rủi ro cao hơn Nghiên cứu của Demirguc-Kunt và Detragrache (2002) cho thấy rủi ro ngân hàng gia tăng ở các quốc gia có bảo hiểm tiền gửi, trong khi Hagen và Ho (2003) không tìm thấy kết quả thuyết phục nào liên quan đến yếu tố này.

DẤU HIỆU KỲ VỌNG CÁC BIẾN TRONG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Tên biến Nội dung Đơn vị tính

Dấu hiệu kỳ vọng Nguồn

Growth Tỷ lệ thay đổi GDP thực - IFS dòng 99bvp

Biến bảo hiểm tiền gửi (Biến

Dummy trong mô hình logit

(biến giả) nhận giá trị là 1 khi quốc gia thực hiện bảo hiểm tiền gửi, và ngược lại giá trị 0)

International association of deposit insurance (2012)

Biến tự do hóa tài chính (Tỷ lệ tín dụng trên GDP) + GDP- IFS dòng 99B.

Biến tấn công tiền tệ (Tỷ lệ

M2 trên dự trữ ngoại tệ của ngân hàng nhà nước)

M2, IFSdòng 34+35, dự trữ ngoại tệ từ dòng IFS 1d.d

Lãi suất thực (Lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát) % + IFS- dòng 60L trừ tỷ lệ lạm phát từ WDI 2012

Biến tỷ giá hối đoái (tỷ lệ thay đổi của tỷ giá)

IFS-dòng ae (tỷ giá cuối năm của đồng tiền 1 QG so với đola Mỹ

Inflation Biến tỷ lệ lạm phát (Tỷ lệ thay đổi của chỉ số giá tiêu dung)

TOT Biến tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu - WDI 2012

Kết quả mô hình nghiên cứu

Bảng 1: Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến khủng hoảng ngân hàng:

Loại bỏ các quan sát ngay sau các năm kết thúc khủng hoảng

Biến Hệ số Kết quả sau bỏ biến M2 khi

Kết quả sau bỏ biến M2 khi và Credit

Kết quả sau bỏ biến M2 khi và TOT

Kết quả sau bỏ biến M2, khi Credit và TOT GROWTH -0.02344*** -0.02533** -0.01056 -0.02644** -0.02698**

- Một, hai và ba sao (*) chỉ các mức ý nghĩa lần lượt của 10%, 5% và 1%

- Kết quả hồi quy có được của (1) với đầy đủ các hệ số, (2) sau khi lượt bỏ biến M2/Reserve, (3) sau khi lượt bỏ biến M2/Reserve và Credit growth,

(4) sau khi lượt bỏ các biến M2/Reserve và TOT, (5) sau khi loại bỏ các biến M2/Reserve, Credit growth và TOT

Bảng 1 trình bày các bước thực hiện mô hình từ tổng quát đến đơn giản, bắt đầu bằng việc loại bỏ các hệ số không có ý nghĩa để đạt được mô hình không chệch tốt nhất Kết quả hồi quy cho thấy các biến tỷ giá, tấn công tiền tệ và tự do hóa tài chính có p-value > 10%, do đó có khả năng bị loại trừ vì ít ảnh hưởng đến khủng hoảng ngân hàng Tất cả các hệ số của các biến đều phù hợp với kỳ vọng ngoại trừ biến Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (TOT), vốn dự kiến có dấu hiệu âm do sự sụt giảm của nó có thể làm tăng nợ xấu và rủi ro khủng hoảng Biến TOT cũng có khả năng bị loại khỏi mô hình nghiên cứu, như đã chỉ ra bởi các tác giả Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a), Caprio và Klingebiel (1996c), những người cho rằng biến này không phải là yếu tố quan trọng trong khủng hoảng ngân hàng, và cần được loại bỏ ngay cả khi p-value nhỏ.

Theo kết quả hồi quy (2), biến tự do hóa tài chính đã bị loại bỏ khỏi mô hình do có mức ý nghĩa cao nhất là 38% Các hệ số của các biến khác đã cải thiện so với hồi quy (1), trong đó biến Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (TOT) có dấu dương (+) và mức ý nghĩa tăng từ 15,65% lên 20,86%, trái với kỳ vọng ban đầu Mặc dù hệ số McFadden R-squared giảm từ 0,056 xuống 0,047, nhưng những thay đổi này không làm giảm giá trị của mô hình Trước khi chuyển sang hồi quy (3), cần chú ý đến hai biến có thể bị loại bỏ tiếp theo là Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (TOT) và tự do hóa tài chính với mức ý nghĩa lần lượt là 21,96% và 20,86% Phương pháp từ tổng quát đến đơn giản yêu cầu loại bỏ các hệ số ít có ý nghĩa thống kê để tối ưu hóa mô hình Tuy nhiên, sau khi loại bỏ biến tự do hóa tài chính, mô hình nghiên cứu đã trở nên xấu đi, với hồi quy (3) chỉ ra rằng các yếu tố như tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu, lãi suất thực và lạm phát không còn có ý nghĩa thống kê với p-value tăng đột biến.

Mức giảm mạnh của McFadden R-squared xuống còn 0.0019 cho thấy việc loại bỏ biến tự do hóa tài chính có thể là một sai lầm nghiêm trọng trong nghiên cứu.

Để tối ưu hóa mô hình, tôi đã loại bỏ hai biến là tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu và biến tấn công tiền tệ (M2/Reserve) khỏi mô hình tổng quát ban đầu Kết quả cho thấy hầu hết các biến trong mô hình dự kiến đều có mức ý nghĩa dưới 5%, ngoại trừ biến tự do hóa tài chính (Credit), với hệ số McFadden R-squared đạt 0.0458 Sau đó, biến tự do hóa tài chính cũng cần được loại bỏ Kết quả hồi quy sau khi loại bỏ các biến M2, TOT và Credit cho thấy các biến còn lại đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và phù hợp với kỳ vọng ban đầu Các chỉ số LR test và McFadden R-squared đạt mức ý nghĩa thống kê cao So với mô hình tổng quát ban đầu, mô hình hồi quy (5) dường như là mô hình tối ưu nhất, với các yếu tố phù hợp với giả thuyết đã đề cập và đều có ý nghĩa thống kê Mặc dù hệ số McFadden R-squared giảm nhẹ, mô hình (5) vẫn được xem là tốt nhất vì nó không chỉ dựa vào hệ số này mà còn phải phù hợp với lý thuyết Do đó, mô hình (5) được chọn để đi đến các kết luận chung và sử dụng cho các chương tiếp theo.

Mô hình nghiên cứu tốt nhất của đề tài được chọn theo phương pháp từ tổng hợp đến đơn giản, phương trình (2.8) :

Ln 0.02698Growth 0.0181Re al int erest 0.00017Ex

2.5.2 Ý nghĩa của các biến giải thích

Kết quả hồi quy cho thấy lãi suất thực và lạm phát có ý nghĩa thống kê cao, cho thấy hệ thống ngân hàng ở các nước đang phát triển không ổn định trước các cú sốc kinh tế Nếu không quản lý rủi ro lãi suất hiệu quả, các ngân hàng thương mại có thể chịu thiệt hại lớn Tỷ giá hối đoái cũng có tác động đáng kể đến khả năng gây ra khủng hoảng ngân hàng, đặc biệt trong nền kinh tế có mức độ đôla hóa cao, dẫn đến những phản ứng thái quá từ thị trường Bảo hiểm tiền gửi được xem là công cụ hữu ích để giảm thiểu rủi ro ngân hàng, nhưng vẫn có nhiều quan điểm trái chiều trong giới nghiên cứu Nghiên cứu của Demirguc-Kunt và Detragrache (2002) cho thấy rủi ro hệ thống ngân hàng có thể tăng ở các quốc gia thực hiện bảo hiểm tiền gửi, trong khi Hagen và Ho (2003) không tìm thấy kết quả thuyết phục nào về yếu tố này Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng khủng hoảng ngân hàng thường xảy ra ở các quốc gia có lạm phát cao và tăng trưởng GDP thấp, trong khi tỷ giá hối đoái là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu khủng hoảng ngân hàng Tuy nhiên, biến tấn công tiền tệ không thực sự hỗ trợ cho nghiên cứu này, điều này khác với nghiên cứu của Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) do sự khác biệt trong mẫu nghiên cứu Các quốc gia đang phát triển thường phải đối mặt với khó khăn trong việc thực hiện tỷ giá linh hoạt, dẫn đến việc giảm thiểu rủi ro tỷ giá do hoạt động đầu cơ.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

DỰA TRÊN KINH NGHIỆM THẾ GIỚI

Các cuộc khủng hoảng ngân hàng ở Đông Á và Mỹ Latinh đã thu hút sự chú ý đặc biệt từ các nhà kinh tế, không chỉ vì chi phí khôi phục kinh tế mà còn vì khả năng lây lan đến các quốc gia lân cận Mô hình logit có thể dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng, nhưng vẫn tồn tại những hạn chế về dữ liệu và tác động ngược đến các chỉ số trong quá trình xây dựng mô hình Để làm rõ điều này, bài viết sẽ phân tích hai cuộc khủng hoảng điển hình tại Thái Lan và Uruguay, từ đó so sánh kết quả dự báo Kết hợp với các nghiên cứu thực nghiệm, mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tối ưu sẽ được áp dụng cho Thái Lan, Uruguay và Việt Nam, nhằm kiểm định khả năng dự báo khủng hoảng ngân hàng.

2003), đây là giai đoạn được ghi nhận có xảy ra các cuộc khủng hoảng ngân hàng tạiThái Lan (năm 1997) và Uruguay (2002).

Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam

3.4.1 Thực trạng hệ thống ngân hàng tại Việt Nam

Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong sự biến động của nền kinh tế quốc gia, là ngành đầu tiên chịu tác động khi kinh tế khó khăn và cũng là ngành phục hồi nhanh chóng để hỗ trợ sự ổn định của nền kinh tế Sau khi hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu như tăng số lượng ngân hàng thương mại, nâng cao vốn điều lệ, tài sản và tổng tín dụng Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng vẫn còn gặp nhiều hạn chế cần khắc phục.

Hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn phát triển khiêm tốn so với các nước trong khu vực và thế giới Ngoại trừ các ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần đều khởi đầu từ con số không và đã nỗ lực để đạt được quy mô hiện tại Tuy nhiên, đóng góp của các ngân hàng nhỏ sẽ ít hiệu quả hơn so với nhu cầu trong nước, và ngay cả những "ông lớn" trong ngành cũng gặp khó khăn trong việc tài trợ cho các tập đoàn quốc gia Năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) được thể hiện qua quy mô vốn tự có, mà hiện nay vẫn còn rất nhỏ bé, đặc biệt là qua chỉ tiêu quy mô vốn điều lệ, thành phần chính của vốn chủ sở hữu.

Bảng 6: So sánh vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của các ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam (tại thời điểm tháng 5/2013) Đơn vị tính: tỷ đồng

Ngân hàng Vốn điều lệ Vốn chủ sở hữu

Nguồn: từ nguồn số liệu tổng hợp của tác giả

Quy mô của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam nhỏ hơn nhiều so với các NHTM trong khu vực ASEAN và còn khiêm tốn hơn khi so sánh với các ngân hàng lớn tại châu Á Sự chênh lệch này càng rõ rệt khi xem xét bảng xếp hạng các ngân hàng lớn nhất ASEAN do tạp chí The Banker, một thành viên của Finance Times, công bố vào năm 2010.

Bảng 7: Quy mô vốn của các ngân hàng hàng đầu khu vực ĐNA năm 2010 Đơn vị tính: trUSD

STT Tên Ngân hàng Quốc gia Vốn điều lệ

5 Krung Thai Bank Thái Lan 1.337

12 Bank of the Philippine Island Philippines 937

14 Siam City Bank Thái Lan 735

17 Bank of Ayudhya Thái Lan 550

Quy mô vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo khả năng chống đỡ của ngân hàng trước rủi ro hoạt động và môi trường kinh doanh Ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn sẽ có khả năng ứng phó tốt hơn với những cú sốc từ thị trường, điều này càng trở nên cần thiết trong bối cảnh kinh doanh đầy biến động và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế Hơn nữa, vốn tự có cũng ảnh hưởng đến khả năng đầu tư vào công nghệ của ngân hàng, vì ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn này cho mục đích đầu tư Do đó, quy mô vốn tự có nhỏ sẽ là một bất lợi lớn trong ngành ngân hàng.

Thứ hai, việc quản lý và giám sát của NHTW còn bộc lộ nhiều thiếu sót, theo

“báo cáo về phát triển tài chính” của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì chỉ số về

“độ chặt chẽ của tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán” của Việt Nam xếp hạng thứ 59/60.

Hạn chế trong khung pháp lý, công nghệ và tiêu chuẩn an toàn đã làm giảm hiệu quả và sự nhạy bén trong quản lý và giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM).

Hệ thống bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam hiện chưa hoạt động hiệu quả, mặc dù đây là công cụ quan trọng giúp giảm rủi ro cho người gửi tiền và các ngân hàng thương mại Nhiều ý kiến cho rằng mức bảo hiểm tiền gửi còn thấp, trong khi chính sách quản lý và hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh các tổ chức tín dụng phát triển nhanh chóng và hội nhập quốc tế Dù đã có sự đổi mới trong các quy định và chuẩn mực an toàn hoạt động ngân hàng theo hướng quốc tế, nhưng tốc độ cải cách vẫn chậm, khiến Việt Nam tụt hậu so với các ngân hàng trong khu vực Các tiêu chuẩn cấp phép và an toàn vẫn chưa chặt chẽ, không kiểm soát được rủi ro gia tăng, dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của hệ thống tổ chức tín dụng cùng với việc tích lũy rủi ro ngày càng lớn.

3.4.2 Những thách thức đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam

Thứ nhất, tình hình thanh khoản của các NHTM đôi lúc còn bấp bênh: năm

Từ năm 2011, tỷ lệ sử dụng vốn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã vượt quá 100%, dẫn đến tình trạng thiếu thanh khoản Hiện tại, mặc dù tình hình có chút cải thiện, nhưng vẫn chưa ổn định Trong khi các ngân hàng thương mại hàng đầu thế giới chỉ duy trì tỷ lệ sử dụng vốn từ 30-70%, thì các ngân hàng Việt Nam chủ yếu đầu tư vào tín dụng Tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại ngày càng giảm, thể hiện qua tỷ lệ tổng vốn tín dụng so với tổng vốn huy động liên tục tăng, trong khi nguồn vốn huy động lại có xu hướng giảm Tại nhiều quốc gia châu Á, tỷ lệ này thường dưới 80%, trong khi Việt Nam có thời điểm lên đến hơn 130% Để khắc phục tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định tỷ lệ tối đa là 80% cho các ngân hàng và 85% cho các tổ chức tín dụng khác, nhưng tỷ lệ này vẫn chưa giảm Đồng thời, tỷ lệ tín dụng cho vay trên vốn huy động cũng đang có xu hướng gia tăng, từ 0,95% năm 2008 lên 1,03% năm 2011, cho thấy tín dụng tăng trưởng nhanh hơn vốn huy động, điều này không tốt cho tính thanh khoản trong hoạt động cho vay của ngân hàng.

Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái đang gia tăng do bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước và toàn cầu, đặc biệt là lạm phát cao và chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiểm soát lạm phát Những biến động đột ngột về lãi suất cùng với các biện pháp điều hành hành chính khiến các ngân hàng thương mại phải thường xuyên đối phó, dẫn đến việc tăng lãi suất huy động và giữ lãi suất cho vay cao để phòng ngừa rủi ro Hệ quả là hiện tượng vượt trần lãi suất trở nên phổ biến, làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ và ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức kinh doanh trong hệ thống ngân hàng.

Tình hình nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam đang ở mức cao, với tỷ lệ nợ xấu tăng trong 9 tháng đầu năm 2012 Nợ xấu tại một số ngân hàng như ACB tăng từ 0,9% lên 2,1%, Sacombank từ 0,57% lên 1,4%, BaoVietBank từ 4,56% lên 6,13%, và NaviBank từ 2,92% lên 3,97% Một số ngân hàng như Techcombank và KienLongBank có mức tăng nợ xấu không đáng kể, trong khi PGBank đã giảm nợ xấu từ 3,06% xuống 2,96% Agribank báo cáo nợ xấu toàn hệ thống lên tới 27.800 tỷ đồng, tương đương 5,8%, trong khi BIDV và Vietcombank lần lượt có tỷ lệ nợ xấu 2,77% và 2,25% Tuy nhiên, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng các con số này chưa chính xác, thực tế có thể cao hơn Văn phòng Chính phủ cũng thông báo nợ xấu đã giảm từ 8% xuống còn 6%, nhưng ngành ngân hàng vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.

3.4.3 Các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng ngân hàng của Ngân hàng nhà nước trong thời gian qua Để đối phó với các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Á năm 1997, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện các biện pháp đối phó trong các năm từ 1997-1999, từng bước phá giá VNĐ va tiến tới thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá, trong các năm 1999-2000, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, thực hiện giảm lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buột bằng VNĐ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buột bằng USD Trong năm 2000, NHNN củng cố năng lực điều hành chính sách tiền tệ, bằng việc đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, thực hiện một bước tự do hóa lãi suất, chuyển sang áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận bằng VNĐ Trong năm 2000, NHNN đưa vào hoạt động thị trường mở, đây được xem là bước tiến mới trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, góp phần điều tiết vốn của các tổ chức tín dụng.

Giữa năm 2004-2007, nhằm ứng phó với tình trạng lạm phát gia tăng do dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện các biện pháp như nâng biên độ tỷ giá, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và kiểm soát dòng vốn từ hệ thống ngân hàng sang thị trường chứng khoán.

NHNN đã triển khai các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn hệ thống tài chính Các biện pháp này bao gồm tăng cường thanh tra các ngân hàng thương mại, thực hiện cơ cấu lại đối với các ngân hàng cổ phần hoạt động không hiệu quả, và thực hiện mua lại, sáp nhập, hợp nhất một số ngân hàng Ngoài ra, NHNN yêu cầu tăng vốn điều lệ, áp dụng các biện pháp ngăn ngừa nợ xấu phát sinh, và thực hiện cổ phần hóa các ngân hàng nhà nước Đồng thời, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, đảm bảo phù hợp với tốc độ huy động vốn thực tế.

3.4.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng Việt Nam và sự cần thiết của việc xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng

Tại Việt Nam, hiện vẫn thiếu các mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng được áp dụng chính thức, và rất ít cá nhân hoặc tổ chức nghiên cứu và phát triển các mô hình này Các nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở việc phân tích khủng hoảng tiền tệ thông qua các mô hình của nước ngoài, mà chưa đi sâu vào các yếu tố tác động đến khủng hoảng ngân hàng Tuy nhiên, sau các cuộc khủng hoảng tài chính gần đây trong khu vực, công tác dự báo đã trở nên quan trọng hơn và ngày càng được hoàn thiện, góp phần bảo đảm ổn định tiền tệ quốc gia và an toàn cho hệ thống tài chính.

Chi phí ngân sách của các quốc gia để giải quyết các cuộc khủng hoảng ngân hàng rất cao, trung bình chiếm khoảng 13,3% GDP và có thể lên tới 55,1% GDP Cụ thể, trong giai đoạn 1980-1990, Mỹ đã chi khoảng 2-3% GDP cho khủng hoảng các tổ chức tiết kiệm và cho vay; các nước Bắc Âu từ 2-8% GDP; Tây Ban Nha chi 17% GDP cho cuộc khủng hoảng từ 1977-1985; và Argentina trên 25% GDP cho khủng hoảng ngân hàng Cuộc khủng hoảng Đông Á từ 1997-1999 cũng tốn kém đáng kể, với Hàn Quốc khoảng 15-16% GDP, Thái Lan ước tính 32% GDP và Indonesia từ 48-50% GDP.

Hình 2: Tính nghiêm trọng của khủng hoảng ngân hàng

Ngày đăng: 04/10/2022, 13:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Báo điện tử, Đảng Công Sản Việt Nam, “Nhận diện khủng hoảng ngân hàng”, tại http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?d=30363&cn_id=34015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhận diện khủng hoảng ngânhàng
2. Lê Thị Nguyệt Anh – Nguyễn Tuấn Anh, “Khủng hoảng ngân hàng và chính sách bảo hiểm tiền gửi”, báo điện tử luật tài chính http://luattaichinh.wordpress.com/2009/04/28/kh%E1%BB%A7ngho%E1%BA%A3ng-ngn-hng-v-chnh-sch-b%E1%BA%A3o-hi%E1%BB%83m-ti%E1%BB%81ng%E1%BB%ADi/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khủng hoảng ngân hàng và chính sách bảo hiểm tiền gửi
3. Nguyễn Kim Lân, “mô hình cảnh báo sớm và chính sách hướng tới ổn định kinh tế vi mô” Sách, tạp chí
Tiêu đề: mô hình cảnh báo sớm và chính sách hướng tới ổn địnhkinh tế vi mô
4. Nguyễn Thị Kim Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước, “đánh giá, dự báo khủng hoảng tiền tệ - ngân hàng, những biện pháp phòng ngừa”, tại Diễn đàn kinh tế và tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: đánh giá, dự báo khủng hoảng tiền tệ - ngân hàng, những biện pháp phòngngừa
6. Vũ Thị Kim Thanh, “Đánh giá và các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tiền tệ và hệ thống ngân hàng”, diễn đàn kinh tế và tài chính họp lần thứ 7 năm 2008Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá và các biện pháp phòng ngừa khủng hoảngtiền tệ và hệ thống ngân hàng
13. Dominic Barton, Roberto Neweill, và Gregory Wilson, “Hệ thống cảnh bảo sớm các khủng hoảng tài chính”, Trích từ cuốn sách "Các thị trường nguy hiểm, cung cấp các chỉ số nhằm phát hiện các cơn bão sắp xảy ra"Thu Hà (biên dịch) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hệ thống cảnhbảo sớm các khủng hoảng tài chính”, Trích từ cuốn sách "Các thị trường nguy hiểm,cung cấp các chỉ số nhằm phát hiện các cơn bão sắp xảy ra
5. Trang web dữ liệu của Ngân hàng thế giới (WB):http://data.worldbank.org/country/vietnam Link
7. Caprio, G. & Klingebiel, D., 1996b, Bank Insolvency: Bad Luck, Bad Policy, or Bad Banking?. [online]. Tại www.siteresources.worldbank.org/DEC/Resources/187 Khác
8. Caprio, G., Klingebiel, D., Laeven, L., and Noguera, G., 2008, Systemic Banking Crises: A New Database. IMF Working Paper Khác
9. Demirgỹỗ-Kunt, A. & Detragiache, E., 1998, The Determinants of Banking Crises in Developing and Developed Countries, IMF staff paper, 45, pp. 81- 109 Khác
10. Demirgỹỗ-Kunt, A. & Detragiache, E., 1998, Financial Liberalization and Financial Fragility, IMF Working Paper,Trang.1-36,1998.Tại www.worldbank.org/html/rad/abcde/demirguc.pdf [accessed june 17 2009] Khác
11. Diamond, D.,W., & Dybvig, P., H., 1983, Bank Run, Deposit insurance, and Liquidity, Journal of Political Economy, University of Chicago Press, vol. 91(3), pages 401-19. Tại www.minneapolisfed.org/Research/qr/qr2412.pdf, [accessed May 20 2009] Khác
12. Diamond D.,W, 2007, Banks and liquidity creation: a simple exposition of the Diamond-Dybvig model, Economic Quarterly - Federal Reserve Bank of Richmond.Available at www.rich.frb.org/publications/research/economic.../diamond.pdf, [accessed june 30 2009] Khác
14. Ergungor, O., E., & Thomson, J.,B., 2005, Systemic Banking Crises, Policies discussion papers of Federal Reserve Bank Of Cleveland. Available at www.clevelandfed.org/research/POLICYDIS/No9Jan05.pdf, accessed on 04 Aug, 2009.Burke Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

nữa, mô hình logit cịn có thể được xử lý bằng các phần mềm kinh tế như: Sata, Eviews…nhờ đó q trình xử lý dữ liệu được rút ngắn - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
n ữa, mô hình logit cịn có thể được xử lý bằng các phần mềm kinh tế như: Sata, Eviews…nhờ đó q trình xử lý dữ liệu được rút ngắn (Trang 32)
Hình 1: Đường cong Logit - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Hình 1 Đường cong Logit (Trang 35)
2.2.2 Mơ hình chi tiết - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
2.2.2 Mơ hình chi tiết (Trang 36)
DẤU HIỆU KỲ VỌNG CÁC BIẾN TRONG MƠ HÌNH NGHIÊN CỨU - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
DẤU HIỆU KỲ VỌNG CÁC BIẾN TRONG MƠ HÌNH NGHIÊN CỨU (Trang 48)
Kết quả mơ hình nghiên cứu - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
t quả mơ hình nghiên cứu (Trang 49)
Bảng 1: Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến khủng hoảng ngân hàng: Loại bỏ các quan sát ngay sau các năm kết thúc khủng hoảng - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 1 Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến khủng hoảng ngân hàng: Loại bỏ các quan sát ngay sau các năm kết thúc khủng hoảng (Trang 49)
Bảng 2: Tỷ giá hối đoái bình qn năm 1996-1997 khu vực Đơng Nam Á - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 2 Tỷ giá hối đoái bình qn năm 1996-1997 khu vực Đơng Nam Á (Trang 57)
Bảng 3: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính các nƣớc trong khu vực Đơng Nam Á(trong năm tài chính từ 01/04/1997 đến 31/03/1998) - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 3 Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính các nƣớc trong khu vực Đơng Nam Á(trong năm tài chính từ 01/04/1997 đến 31/03/1998) (Trang 57)
Bảng 4: Tăng trƣởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng tài chính năm 1997 tại khu vực Đơng Nam Á - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 4 Tăng trƣởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng tài chính năm 1997 tại khu vực Đơng Nam Á (Trang 58)
gửi (deposit) được thu thập từ bảng tổng hợp dữ liệu nghiên cứu của các quốc gia đang phát triển. - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
g ửi (deposit) được thu thập từ bảng tổng hợp dữ liệu nghiên cứu của các quốc gia đang phát triển (Trang 60)
Bảng 5: Bảng tổng hợp số liệu nghiên cứu trƣởng hợp của Thái Lan và Uruguay giai đoạn (1996-2003) - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 5 Bảng tổng hợp số liệu nghiên cứu trƣởng hợp của Thái Lan và Uruguay giai đoạn (1996-2003) (Trang 61)
Bảng 6: So sánh vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của các ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam (tại thời điểm tháng 5/2013) - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 6 So sánh vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của các ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam (tại thời điểm tháng 5/2013) (Trang 63)
Bảng 7: Quy mô vốn của các ngân hàng hàng đầu khu vực ĐNA năm 2010 - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 7 Quy mô vốn của các ngân hàng hàng đầu khu vực ĐNA năm 2010 (Trang 64)
Hình 2: Tính nghiêm trọng của khủng hoảng ngân hàng - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Hình 2 Tính nghiêm trọng của khủng hoảng ngân hàng (Trang 69)
Bảng 8: Kết quả kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam (giai đoạn 1996-2011) - Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng tại việt nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới
Bảng 8 Kết quả kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam (giai đoạn 1996-2011) (Trang 72)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w