Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.
Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường và bảo vệ môi trường đang là vấn đề quan trọng được toàn cầu quan tâm, đặc biệt là tại các nước đang phát triển như Việt Nam Ô nhiễm môi trường không chỉ là thách thức riêng của từng quốc gia mà là vấn đề chung của thế giới Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã phát triển kinh tế mạnh mẽ và chú trọng đến bảo vệ môi trường, thể hiện qua việc ban hành Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 Tỉnh Quảng Ninh, với nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đặc biệt là than đá chiếm 90% trữ lượng cả nước, đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng Nếu không có biện pháp xử lý chất thải từ khai thác than, chất lượng môi trường và đời sống người dân trong tỉnh sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
Tỉnh Quảng Ninh luôn chú trọng bảo vệ môi trường, chỉ đạo các sở và địa phương tăng cường quản lý và giám sát các chỉ số môi trường qua hệ thống trạm quan trắc tự động Đặc biệt, các doanh nghiệp khai thác và sản xuất than, tài nguyên chủ lực của tỉnh, cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về môi trường Tuy nhiên, hiện nay, các mỏ khai thác than đang xả thải hơn 100 triệu m³ nước thải mỗi năm, chứa nhiều kim loại nặng và chất độc hại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường.
Theo UNICEF, ô nhiễm môi trường đang gia tăng đáng kể trên toàn cầu, đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triển.
Thanh Lịch (2020), Thông điệp từ thiên nhiên “hãy bảo vệ môi trường!”, https://moitruongvaxahoi.vn/thong-diep-tu-thien- nhien-hay-bao-ve-moi-truong-1394860380.html, truy cập 5/5/2022
2 Văn Hữu Tập (2015), Khai thác than tác động đến môi trường, http://moitruongviet.edu.vn/khai-thac-than-tac-dong-den- moi-truong/, truy cập ngày 1/5/2022
3 Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (2020), Tiềm năng ngành khoáng sản ở Việt Nam, https://kinhtemoitruong.vn/tiem- nang-nganh-khoang-san-o-viet-nam-
14743.html#:~:text=Hi%E1%BB%87n%20nay%2C%20than%20%C4%91%C3%A1%20th%C6%B0%E1%BB%9Dng
%20ph%C3%A2n%20b%E1%BB%91%20ch%E1%BB%A7,tr%E1%BB%8Dng%20%C4%91%E1%BB%83%20ph%C 3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20%C4%91%E1%BA%A5t%20n%C6%B0%E1%BB%9B c., truy cập ngày 5/5/2022
4 Hiểu Trân (2021), Khắc phục ô nhiễm môi trường trong sản xuất than, https://baoquangninh.com.vn/khac-phuc-o-nhiem- moi-truong-trong-san-xuat-than-2916507.html, truy cập ngày 3/5/2022
Việc không xử lý chất thải công nghiệp nguy hại đúng cách có thể gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng Một ví dụ điển hình là Nhà máy xử lý chất thải công nghiệp nguy hại của Công ty Môi trường TKV, tọa lạc tại thôn Tân Tiến, xã Dương Huy, TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh Nhà máy này đã gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến nhiều người dân trong khu vực gặp phải các vấn đề về hô hấp, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của họ.
Nước thải công nghiệp từ ngành than gây ô nhiễm nguồn nước mặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống sông suối và hồ vùng ven biển Khai thác than cũng dẫn đến suy thoái và cạn kiệt nguồn nước ngầm, làm ô nhiễm các tầng chứa nước ngọt, đặc biệt là tại các hồ thủy lợi ở Đông Triều, ảnh hưởng đến chất lượng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp Hơn nữa, môi trường không khí tại các khu vực khai thác than như Cẩm Phả, Uông Bí, và Mạo Khê bị ô nhiễm bởi bụi, khí độc, khí nổ và tiếng ồn, gây tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng.
Hà Phong, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm bụi nghiêm trọng, với hàm lượng bụi tại các khu vực khai thác và chế biến than vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 đến 5,2 lần, trong khi khu dân cư lân cận cũng vượt tiêu chuẩn này tới 3,3 lần Thực trạng này đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự cần thiết phải thực hiện kinh doanh bền vững và bảo vệ môi trường tại địa phương.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường là nghĩa vụ pháp lý phát sinh giữa các bên, trong đó cá nhân hoặc tổ chức vi phạm quy định về bảo vệ môi trường phải bồi thường cho những người bị thiệt hại Các văn bản pháp luật đã ghi nhận rõ ràng về trách nhiệm này nhằm bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân.
Nhà máy xử lý chất thải công nghiệp nguy hại tại Tp Cẩm Phả, Quảng Ninh, do TKV quản lý, đang gây ra tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân Người dân địa phương bức xúc trước việc xả khí thải không kiểm soát, trong khi chính quyền chưa có những biện pháp hiệu quả để bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng Sự thiếu thấu hiểu và hành động từ phía chính quyền đang khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn.
6 Nguyễn Thị Huệ (2016), “Giải pháp bảo vệ môi trường trong khai thác than ở Quảng Ninh giai đoạn 2016 - 2020,” Tạp chí Môi trường, số 10, Hà Nội, tr.80
7 Nguyễn Thị Huệ (2016), “Giải pháp bảo vệ môi trường trong khai thác than ở Quảng Ninh giai đoạn 2016 - 2020,” Tạp chí Môi trường, số 10, Hà Nội, tr.83
Quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã có sự khác biệt trong cách thức, mức độ bồi thường và xác định thiệt hại từ xưa đến nay Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thực tế gặp nhiều khó khăn, liên quan đến các căn cứ phát sinh trách nhiệm, xác định thiệt hại, đặc biệt là thiệt hại về tinh thần, và lỗi của người gây thiệt hại Hệ thống pháp luật hiện tại về giải quyết xung đột và tranh chấp môi trường vẫn còn nhiều lỗ hổng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, như những bất cập trong nghĩa vụ chứng minh và giám định môi trường.
Để nâng cao công tác bảo vệ môi trường và thu hút đầu tư tại tỉnh Quảng Ninh, cần áp dụng công nghệ tiên tiến trong xử lý nước thải, cải thiện quy trình thu gom và xử lý rác thải tại các khu công nghiệp cũng như từ các phương tiện hoạt động trên biển Điều này không chỉ góp phần bảo vệ môi trường trong khai thác tài nguyên khoáng sản mà còn nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp Vì vậy, học viên đã chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh” làm Luận văn Thạc sĩ.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Research studies on environmental issues and responsibilities abroad, such as the publication "Compendium of Summaries of Judicial Decisions in Environment-Related Cases" by the South Asia Cooperative Environment Programme, highlight significant judicial approaches to environmental law.
SACEP và Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) đã phát hành vào năm 2001 một tài liệu tổng hợp các quyết định của tòa án liên quan đến môi trường Tài liệu này nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin về luật môi trường cho các thẩm phán và các bên liên quan pháp lý khác, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi.
Báo cáo “Liability for environmental damage in Eastern Europe,
Báo cáo "Caucasus and Central Asia (EECCA): Implementation of good international practices" (2012) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cung cấp một phân tích so sánh về trách nhiệm đối với thiệt hại môi trường giữa các nước OECD và các nước Đông Âu, Caucasus, Trung Á (EECCA) Báo cáo nêu rõ các phương pháp tiếp cận chính về trách nhiệm môi trường tại các nước OECD, dựa trên phân tích hệ thống pháp luật và thực tiễn ở Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu, cùng với đánh giá thực tiễn tại EECCA do Trung tâm Môi trường Khu vực EECCA thực hiện.
Luận văn “Problem of proof and causation in environmental litigation in Nigeria” (2015) của tác giả Hassan Abiodun Mazeedah, Đại học Lagos,
9 Đông Âu, Caucasus và Trung Á (EECCA), là một khối các quốc gia bao gồm Armenia, Azerbaijan, Belarus, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Liên bang Nga, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan
Nigeria đang nghiên cứu các nguyên nhân gây ra thách thức trong việc chứng minh thiệt hại môi trường và các biện pháp khắc phục liên quan đến yêu cầu bồi thường qua kiện tụng Qua việc phân tích các đạo luật chung và cụ thể, bài viết đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật hiện hành về chứng minh thiệt hại môi trường tại Nigeria.
Bài viết “Laws Regulating Water Pollution in Bangladesh” (2019) của nhóm tác giả Md Arifuzzaman và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu các luật môi trường hiện hành liên quan đến ô nhiễm nước tại Bangladesh Nghiên cứu đánh giá thực tiễn quản lý ô nhiễm nước và đề xuất các giải pháp toàn diện nhằm cải thiện chế độ quản lý và thể chế Các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các biện pháp quản lý hiệu quả để kiểm soát ô nhiễm nước, góp phần bảo vệ môi trường nước quốc gia.
Bài viết "Trách nhiệm về ô nhiễm trong vụ Vedan Việt Nam" của tác giả Alexandre Nikolaevich Chitov, đăng trong Tạp chí Khoa học Xã hội Pháp y, đã phân tích vụ ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại Việt Nam do Vedan Việt Nam, một nhà đầu tư nước ngoài, gây ra Tác giả đã xem xét các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến trách nhiệm môi trường trong bối cảnh này, từ góc độ pháp luật hình sự, hành chính đến dân sự.
Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Các công trình nghiên cứu về môi trường và trách nhiệm môi trường ở trong nước, chẳng hạn:
Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường”
Bài viết của tác giả Phạm Hữu Nghị (2002), đăng trong Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, tập XVIII, phân tích các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến ô nhiễm môi trường Nội dung bài viết đề cập đến chủ thể chịu trách nhiệm, điều kiện phát sinh trách nhiệm do ô nhiễm môi trường, cùng với các tiêu chí xác định ô nhiễm và phương pháp tính toán thiệt hại để xác định mức bồi thường thích hợp cho hành vi gây ô nhiễm.
Nghiên cứu khoa học cấp Trường tại Trường Đại học Luật Hà Nội đã tập trung vào hai đề tài quan trọng liên quan đến pháp luật môi trường Đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên tại Việt Nam" (2007) đã làm rõ các vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, từ đó góp phần hoàn thiện cơ chế bồi thường trong lĩnh vực bảo vệ môi trường Tiếp theo, đề tài "Pháp luật môi trường trong kinh doanh" (2011) do Vũ Thị Duyên Thuỷ chủ trì đã phân tích các vấn đề chung về pháp luật môi trường trong kinh doanh, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm bảo vệ hiệu quả môi trường sống trong bối cảnh hoạt động kinh doanh.
Luận án tiến sĩ của Bùi Kim Hiếu (2015) tập trung vào trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại Việt Nam Tác giả đã nghiên cứu lý luận và pháp luật liên quan đến vấn đề này, đồng thời phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành Qua đó, luận án đưa ra các đề xuất nhằm cải cách và bổ sung quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào pháp luật bảo vệ môi trường và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, nhưng tại tỉnh Quảng Ninh, số lượng công trình nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường theo Luật Bảo vệ Môi trường 2014 còn rất hạn chế Điều này càng trở nên quan trọng trong bối cảnh du lịch Quảng Ninh phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, cùng với sự ra đời của Luật Bảo vệ Môi trường 2020, đòi hỏi có thêm nhiều nghiên cứu chuyên sâu hơn về vấn đề này.
Các công trình đã được công bố sẽ là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu sinh trong việc thực hiện đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế.
Nghiên cứu này sẽ đánh giá thực trạng pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở Tỉnh Quảng Ninh Mục tiêu là đề xuất các phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại môi trường, nhằm nâng cao hiệu quả chấp hành pháp luật tại các doanh nghiệp trong tương lai.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm rõ lý luận và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, thông qua việc đánh giá thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở Tỉnh Quảng Ninh Luận văn sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty này Để đạt được mục tiêu, Luận văn xác định các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện.
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường;
Bài viết phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật cũng như việc thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh trong thời gian gần đây Qua đó, bài viết nêu rõ những ưu điểm và bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra nguyên nhân dẫn đến các vấn đề tồn tại trong việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại này.
Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh, cần đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Những giải pháp này bao gồm việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, cải thiện quy định về trách nhiệm bồi thường, đồng thời nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về nghĩa vụ bảo vệ môi trường Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ người dân trong việc khởi kiện và yêu cầu bồi thường khi bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm môi trường.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với tính chất và yêu cầu của đề tài như:
Phương pháp phân tích và tổng hợp là cách tiếp cận quan trọng trong việc xem xét các quy định pháp luật, đánh giá tình hình thực tế và xác định nguyên nhân của những vấn đề tồn tại Qua đó, chúng ta có thể đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm cải thiện và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Bài viết đề xuất 9 kết luận cho mỗi chương, nhằm đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh.
Phương pháp nghiên cứu tình huống là một cách tiếp cận hiệu quả để phân tích các vụ việc thực tế, nhằm làm rõ những bất cập trong việc thi hành pháp luật và đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật trong thực tiễn Phương pháp này giúp cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề pháp lý, từ đó đề xuất những giải pháp cải thiện.
Phương pháp diễn dịch và quy nạp là hai công cụ quan trọng trong việc phân tích và tổng hợp các khía cạnh lý luận, đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật.
Phương pháp phân tích và giải thích luật học là công cụ quan trọng để làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường Việc hiểu rõ các quy định này giúp xác định nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân trong việc bồi thường thiệt hại, đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ môi trường Qua đó, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Kết quả nghiên cứu
Luận văn này cung cấp cơ sở lý luận về pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra bởi các doanh nghiệp trong hoạt động khai thác than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh.
Bài luận văn này đánh giá thực trạng và nguyên nhân của những bất cập trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến hoạt động khai thác than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây.
Luận văn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện pháp luật Bảo vệ Môi trường trong khai thác than khoáng sản, nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Điều này không chỉ phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững mà còn góp phần xây dựng nền kinh tế xanh và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân tỉnh Quảng Ninh.
Tài liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc tổng kết thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả Luật Bảo vệ Môi trường trong hoạt động khai thác than khoáng sản.
Kết cấu Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường
Chương 2 trình bày thực trạng pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đặc biệt là tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh Bài viết phân tích các quy định pháp lý hiện hành và đánh giá mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường, từ đó nêu ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất giải pháp cải thiện.
Chương 3 đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tuân thủ các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh Nội dung chính tập trung vào việc cải thiện khung pháp lý, tăng cường giám sát và kiểm tra, cũng như nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về trách nhiệm bảo vệ môi trường Các giải pháp này không chỉ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường mà còn đảm bảo quyền lợi cho cộng đồng và thúc đẩy phát triển bền vững trong ngành công nghiệp than.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường
Khi cá nhân hoặc tổ chức khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại, chất lượng môi trường và lợi ích chung có thể bị lãng quên hoặc không được bảo vệ đầy đủ Thiệt hại về môi trường tự nhiên thường không thể tách rời khỏi thiệt hại về tài sản, sức khỏe và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, dẫn đến khó khăn trong việc xác định ai là người thiệt hại và ai được hưởng bồi thường Chẳng hạn, sự suy giảm nguồn lợi thủy sản ở một dòng sông ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn làm giảm thu nhập của người dân, nhưng việc phân định thiệt hại giữa Nhà nước và cá nhân do ô nhiễm là rất khó khăn.
1.2 Khái niệm, nội dung và vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường
Pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp, đã được chú trọng từ sớm với sự ra đời của Luật Bảo vệ Môi trường Bên cạnh đó, các điều khoản liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng được quy định trong luật dân sự và hình sự, nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại và tăng cường tính răn đe đối với các doanh nghiệp vi phạm.
Theo Luật Bảo vệ Môi trường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) là nghĩa vụ pháp lý của bên gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến tổn hại về chức năng và tính hữu ích của môi trường Họ phải bồi thường thiệt hại liên quan đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản và quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức do hậu quả của hành vi vi phạm gây ra.
Pháp luật là hệ thống quy tắc do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, quy định quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường nhằm điều chỉnh quan hệ bồi thường khi hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây thiệt hại cho người khác Nội dung của pháp luật này bao gồm các trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại, đối tượng được bồi thường, đối tượng phải bồi thường và quy trình giải quyết bồi thường trong lĩnh vực môi trường.
1.2.2 Nội dung của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường
Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường là một phần quan trọng của hệ thống pháp luật, mang đầy đủ các đặc điểm như tính quyền lực của Nhà nước, tính bắt buộc chung, tính quy phạm phổ biến, tính hệ thống và tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức Ngoài ra, nó còn có những đặc trưng cơ bản riêng, thể hiện sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và đảm bảo trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong việc gây ra ô nhiễm.
Lĩnh vực pháp luật này bao gồm các quy định về bảo vệ môi trường và các quy định liên quan đến bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Khi xem xét bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp, cần tuân thủ các nguyên tắc và quy định chung về bồi thường thiệt hại theo pháp luật dân sự.
19 Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.50
20 Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.55
Việc đánh giá mức độ, nguyên nhân và hậu quả của thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường từ các doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định của Luật Bảo vệ Môi trường Thẩm quyền xử lý và chế tài đối với những hành vi này cũng phải được thực hiện dựa trên các quy định pháp luật hiện hành để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong việc bảo vệ môi trường.
Chủ thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường bao gồm các tổ chức và cá nhân có hành vi gây ô nhiễm, dẫn đến suy giảm chức năng và tính hữu ích của môi trường, gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác Các thiệt hại này có thể được tính toán bằng tiền để thuận lợi cho việc giải quyết bồi thường Không phải mọi hành vi tác động đến môi trường đều bị điều chỉnh bởi pháp luật này, mà chỉ những hành vi gây ô nhiễm nghiêm trọng dẫn đến tổn hại quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và tổ chức khác, từ đó phải chịu hậu quả pháp lý.
Pháp luật về bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường không chỉ bao gồm các quy định pháp lý mà còn có các quy phạm kỹ thuật và nghiệp vụ để xác định thiệt hại Để xác định hành vi gây ô nhiễm có gây thiệt hại hay không, cần xem xét các dấu hiệu vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường và các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường, do các chuyên gia có kiến thức chuyên sâu thực hiện Khi thiệt hại đã được xác định, cần đánh giá mức độ thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường của các chủ thể gây ô nhiễm Do đó, việc thành lập cơ quan chuyên môn về kỹ thuật và nghiệp vụ môi trường là cần thiết để thực hiện quy trình này.
Pháp luật về bảo vệ môi trường đã tích hợp các điều ước và công ước quốc tế nhằm giảm thiểu ô nhiễm do hoạt động BTTH gây ra.
22 định về BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra) mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
1.2.3 Vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường Định hướng phát triển đất nước năm 2021 - 2030 đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, Việt Nam sẽ xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường Trong nền kinh tế xanh, các vấn đề kinh tế phải tính đến các vấn đề môi trường nhằm đảm bảo sự bền vững của môi trường Việc bảo vệ môi trường có hiệu quả thì không thể không sử dụng công cụ pháp luật bởi lẽ, với những đặc trưng của pháp luật như tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế và tính thích ứng, tự điều chỉnh nên nó trở thành biện pháp quản lý có hiệu quả nhất được sử dụng trong việc xác định trách nhiệm BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường Với mục tiêu phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường, pháp luật về trách nhiệm BTTH do gây ô nhiễm môi trường được đặt ra không chỉ giải quyết các tranh chấp môi trường, răn đe các chủ thể có vi phạm mà còn giúp phục hồi, cải thiện môi trường và bảo vệ môi trường khỏi những suy thoái, ô nhiễm Vì thế pháp luật về trách nhiệm BTTH do gây ô nhiễm môi trường có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật nói riêng, trong mục tiêu phát triển đất nước, phát triển xã hội nói chung
Thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp thường khó nhận biết và xác định chính xác mức độ cũng như hậu quả Để định lượng thiệt hại này, cần sử dụng máy móc và công nghệ hiện đại, nhưng nguồn lực tài chính hạn chế khiến việc này không phải lúc nào cũng khả thi Hơn nữa, tác động tiêu cực của kinh tế thị trường dẫn đến một số cán bộ thực thi không xử lý một cách khách quan và công bằng đối với các doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay đang tìm cách giảm thiểu trách nhiệm về các hành vi gây thiệt hại do ô nhiễm môi trường bằng cách nhờ người có thẩm quyền can thiệp Để ngăn chặn những hiện tượng này, pháp luật về bảo vệ môi trường cần thiết lập cơ sở pháp lý vững chắc, nhằm đảm bảo việc xử lý các hành vi gây thiệt hại một cách công bằng, khách quan và nghiêm minh.
Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường tại Việt Nam đã nội luật hóa các nguyên tắc cơ bản như quyền sống trong môi trường trong lành và trách nhiệm của người gây ô nhiễm Những nguyên tắc này được ghi nhận trong Tuyên bố về môi trường tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về môi trường lần thứ 2 tại Rio, nơi Việt Nam là một trong những quốc gia ký kết Việc nội luật hóa các nguyên tắc này trong Luật Bảo vệ Môi trường không chỉ khẳng định cam kết của Nhà nước Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế mà còn tạo ra các quy định pháp lý nhằm đảm bảo trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp khi gây ô nhiễm môi trường.
1.3 Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường tại Việt Nam
Trong lịch sử Việt Nam, các nhà nước phong kiến không có trách nhiệm pháp lý đối với người dân, vì quyền lực tối cao thuộc về nhà vua Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945) chứng kiến sự áp dụng đồng thời hai chế độ cai trị: chế độ phong kiến hà khắc và chế độ thực dân Trong bối cảnh này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chưa được quy định rõ ràng, mặc dù các trách nhiệm dân sự khác đã được nêu cụ thể trong Bộ dân luật Bắc kỳ (1931).
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN TUÂN THỦ PHÁP LUẬT TẠI CÁC CÔNG TY SẢN XUẤT THAN KHOÁNG SẢN, TỈNH QUẢNG NINH
Thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường
2.1.1 Các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường
Theo pháp luật dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường là một hình thức trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, phát sinh khi có đủ các điều kiện nhất định.
Thứ nhất, có hành vi trái pháp luật Hành vi này là hành vi vi phạm pháp
Luật Bảo vệ Môi trường quy định rõ ràng về các hành vi gây thiệt hại cho môi trường, ảnh hưởng đến con người và tài sản của cá nhân, tổ chức Những hành vi này có những đặc điểm khác biệt, như không trực tiếp xâm hại đến quyền sống và sức khỏe của công dân, mà thông qua việc làm suy giảm chức năng và tính hữu ích của các yếu tố môi trường Vi phạm pháp luật về môi trường có thể dẫn đến ô nhiễm và suy thoái môi trường, nhưng không phải tất cả hành vi gây thiệt hại đều được coi là vi phạm Các hành vi vi phạm pháp luật môi trường rất đa dạng, bao gồm những hành vi bị cấm theo Điều 6 của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, cũng như việc không thực hiện các nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, gây tổn hại đến các quyền cơ bản của con người được pháp luật bảo vệ.
Hành vi gây ô nhiễm môi trường dẫn đến thiệt hại, là điều kiện tiên quyết cho trách nhiệm bồi thường thiệt hại Mục tiêu của trách nhiệm này là khôi phục tài sản, sức khỏe cho người bị thiệt hại và phục hồi môi trường Thiệt hại thường biểu hiện dưới dạng tổn thất về tài sản hoặc sức khỏe.
34 thực tế do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của cá nhân, tổ chức, cụ thể như sau:
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm việc tài sản bị huỷ hoại hoặc hư hỏng, dẫn đến việc thu hẹp hoặc mất các lợi ích liên quan đến việc không thể sử dụng, khai thác tài sản Ngoài ra, thiệt hại còn bao gồm các chi phí phát sinh để ngăn chặn và khắc phục tình trạng này.
Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý cho việc chữa trị, chăm sóc và phục hồi sức khỏe, cũng như thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại hoặc người chăm sóc họ Khi môi trường sống bị ô nhiễm, như ô nhiễm nước, không khí hay đất, dẫn đến tình trạng nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm, người dân có thể mắc các bệnh về đường hô hấp Hệ quả là họ phải chi tiền cho việc khám và chữa bệnh, đồng thời thu nhập của họ giảm sút do không thể lao động như bình thường.
Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại bao gồm các chi phí cứu chữa và chăm sóc trước khi người bị thiệt hại qua đời, chi phí mai táng, và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà nạn nhân có nghĩa vụ hỗ trợ Những thiệt hại này thường xảy ra trong các sự cố môi trường nghiêm trọng, như tràn dầu, nổ xăng dầu, hoặc cháy rừng, có tác động lớn và mức độ nguy hiểm cao.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật môi trường và thiệt hại xảy ra là rất rõ ràng, trong đó hành vi vi phạm được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại Điều này là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại Nếu thiệt hại về môi trường hoặc con người xảy ra mà không phải do hành vi trái pháp luật, thì người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm Hơn nữa, trong trường hợp có nhiều hành vi tác động đến môi trường, việc xác định nguyên nhân chính cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân định trách nhiệm.
Trong trường hợp 35 tiếp gây thiệt hại được xác định là hành vi vi phạm pháp luật của một chủ thể, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của chủ thể khác và thiệt hại thực tế không tồn tại.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và thiệt hại môi trường thường khó xác định do các thiệt hại này không xảy ra ngay lập tức mà tích lũy dần theo thời gian.
Để chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây hại cho môi trường và các thiệt hại xảy ra, cần thực hiện hai bước chính: (i) xác định mối liên hệ giữa hành vi vi phạm pháp luật về môi trường với tình trạng suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, cũng như tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường; (ii) xác định mối liên hệ giữa ô nhiễm, suy thoái môi trường với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức.
Trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại là căn cứ quan trọng để xác định mức bồi thường Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không bị loại trừ ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi, trừ khi người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi hoặc thiệt hại phát sinh do sự kiện bất khả kháng Điều này có nghĩa là nếu người bị thiệt hại không có lỗi, trách nhiệm bồi thường vẫn luôn thuộc về người gây ô nhiễm Ngoài ra, trong một số trường hợp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được áp dụng mà không cần yếu tố lỗi, nhưng quy định này chỉ nên coi là ngoại lệ trong bối cảnh bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường Việc thiết kế lập pháp cần cân nhắc giữa yêu cầu điều kiện lỗi và việc loại bỏ yếu tố lỗi trong cấu thành bồi thường thiệt hại.
Bùi Thị Thu Trang (2020) đã chỉ ra rằng để khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật về môi trường, cần phải có những điều kiện pháp lý nhất định Bài viết được đăng trên Tạp chí Môi trường, số 4, tại Hà Nội, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ các quy định pháp luật trong lĩnh vực môi trường nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân và tổ chức bị thiệt hại.
25 Điều 602 Bộ Luật dân sự năm 2015
26 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015
Điều 36 sẽ bao gồm các trường hợp phát sinh ngoài dự liệu của nhà làm luật, vì một nguyên tắc khó có thể bao quát hết mọi tình huống để giải quyết vấn đề cụ thể Cần có những ngoại lệ được pháp luật công nhận nhằm điều tiết các quan hệ đặc thù để đạt được mục đích bù đắp thiệt hại Ở nhiều quốc gia như Mỹ, Anh (hệ thống Common Law) và Pháp, Đức, Nhật Bản (hệ thống Civil Law) đều tồn tại hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: trách nhiệm dựa trên lỗi và trách nhiệm không dựa trên lỗi Mặc dù Pháp phát triển mạnh mẽ chế định trách nhiệm nghiêm ngặt với nhiều quy phạm phong phú, nhưng nguyên tắc trách nhiệm dựa trên lỗi vẫn là nền tảng chính trong cả hai hệ thống pháp luật.
2.1.2 Quy định về chủ thể tham gia quan hệ bồi thường thiệt hại 2.1.2.1 Người có trách nhiệm bồi thường Điều 602 BLDS năm 2015 và Khoản 6 Điều 4 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 quy định chủ thể có trách nhiệm BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường là cá nhân và pháp nhân Theo đó, Điều 602 BLDS năm 2015 quy định:
Chủ thể gây ô nhiễm môi trường phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, ngay cả khi không có lỗi Điều này được quy định rõ trong khoản 6 của Điều luật liên quan.
Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản, tỉnh Quảng
2.2.1 Giới thiệu về các công ty sản xuất than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển ở vùng Đông Bắc Việt Nam, có diện tích 6.110,1 km² Tỉnh này nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội 125 km về phía Đông, và giáp với các tỉnh và thành phố như: phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Nam giáp thành phố Hải Phòng, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ, và phía Tây giáp các tỉnh Hải Dương, Lạng Sơn và Bắc Giang.
Quảng Ninh, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, nổi bật với nhiều điểm tham quan hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước Đặc biệt, vịnh Hạ Long được xem là vịnh có bờ biển đẹp nhất, thu hút đông đảo khách du lịch.
Quảng Ninh được xác định là hạt nhân của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế khu vực Tỉnh này không chỉ sở hữu tiềm năng du lịch phong phú mà còn có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội đầu tư và phát triển bền vững Sự phát triển của Quảng Ninh góp phần thúc đẩy kinh tế toàn vùng Bắc bộ, tạo động lực cho các ngành kinh tế khác.
Quảng Ninh thu hút khoảng 58.000 khách du lịch mỗi năm nhờ vào tài nguyên thiên nhiên phong phú và khoáng sản đa dạng Tỉnh này nổi bật với trữ lượng than đá lớn nhất cả nước, trở thành điểm khai thác than lý tưởng Theo thống kê, hàng năm, Việt Nam khai thác khoảng 30 đến 40 triệu tấn than, khẳng định vị thế quan trọng của Quảng Ninh trong ngành công nghiệp này.
Than đá Quảng Ninh có trữ lượng khoảng 3,6 tỷ tấn, chủ yếu là an-tra-xít với hàm lượng Cacbon ổn định trên 80% Khu vực khai thác than chủ yếu tập trung ở Hạ Long, Cẩm Phả và Uông Bí – Đông Triều, với sản lượng khai thác hàng năm dao động từ 40 triệu tấn.
Than Quảng Ninh đạt sản lượng 50 triệu tấn và được đánh giá là sạch, chất lượng cao với độ tinh khiết trên 65% Khả năng bốc cháy của than đã được nhiều doanh nghiệp xác nhận là rất tốt, với màu đen ánh và ít lỗ hổng Khi cầm, than thường có chút dầu mỡ và khó rửa, nhưng chất lượng của nó vượt trội nhất cả nước Đặc biệt, khi đốt than, bạn sẽ không cảm thấy mùi khó chịu do lượng lưu huỳnh rất thấp.
Quảng Ninh, với nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đặc biệt là than, đang chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng của các công ty khai thác khoáng sản Hiện tại, tỉnh có hơn 40 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác và kinh doanh than Một số công ty tiêu biểu bao gồm Tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam, Công ty Vietmindo, Công ty Tân Việt Bắc, Công ty TNHH sản xuất và thương mại Hùng Mạnh, và Công ty cổ phần than Hà Lầm – Vinacomin.
Hà Thành, Công ty cổ phần than Hà Tu, Công ty cổ phần Than Mông Dương, Tổng công ty Đông Bắc…
Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thuộc sở hữu của Nhà nước, với quy mô hoạt động lớn và vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản tại Việt Nam.
57 Báo Quảng Ninh (2016), Quảng Ninh phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, https://www.quangninh.gov.vn/pinchitiet.aspx?nidf536, truy cập 3/5/2022
Công ty Cổ phần Than Quảng Ninh (2020) đã cung cấp thông tin chi tiết về ngành công nghiệp khai thác than trên toàn cầu Tài liệu này có thể được truy cập tại địa chỉ http://www.thanquangninh.com.vn/cong-nghiep-khai-thac-than-tren-the-gioi.html, với ngày truy cập là 3/5/2022.
59 Tra cứu tại https://quang-ninh.congtydoanhnghiep.com/, truy cập 5/5/2022
Tập đoàn TKV, với 62 đơn vị thành viên và 4 đơn vị sự nghiệp độc lập, là một trong những ông lớn trong ngành khai thác than và khoáng sản tại Việt Nam Kể từ khi đi vào hoạt động vào năm 1995, sản lượng than của TKV đã gia tăng đáng kể, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn thúc đẩy xuất khẩu, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách quốc gia TKV đã đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, sản xuất tổng cộng 579 triệu tấn than trong 22 năm phát triển Tập đoàn cũng chú trọng đầu tư vào chế biến sâu, với nhiều dự án lớn như Nhà máy Kẽm Điện phân Thái
Công ty PT Vietmindo Energitama, một liên doanh 100% vốn Indonesia, chuyên khai thác, chế biến và xuất khẩu than, có trụ sở tại Uông Thượng, Quảng Ninh Được Chính phủ Indonesia chỉ định, công ty đã ký hợp đồng khai thác mỏ than Uông Thượng và Đồng Vông với Công ty Than Uông Bí, thuộc Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam Dự án khai thác than tại Việt Nam nằm trong khuôn khổ các hiệp định kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật và đầu tư giữa Chính phủ Indonesia và Việt Nam từ năm trước.
Từ năm 1978 đến 1991, dự án này được thành lập thông qua việc Vietmindo và Công ty Than Uông Bí đại diện cho Chính phủ Việt Nam ký kết Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC).
Dự án tại khu vực Đồng Vông - Uông Thượng có diện tích 1.300ha và thời hạn hoạt động là 30 năm kể từ ngày sản xuất Vietmindo sẽ chịu trách nhiệm đầu tư toàn bộ số vốn 27 triệu USD cho dự án này.
60 Truy cập https://vinacomin.vn/gioi-thieu-chung/don-vi-thanh-vien-201507041650281216.htm, ngày 5/5/2022
61 Thanh (2019), Các công ty khai thác than Việt Nam, https://tindoanhnghiep.net/chi-tiet-tin/cac-cong-ty-khai-thac-than- tai-viet-nam-209/, truy cập 4/5/2022.s
Công ty Than Uông Bí đóng góp toàn bộ trữ lượng than nguyên khai trong khu vực dự án, ước tính khoảng 36 triệu tấn, với cao độ +125m cho khu vực Uông Thượng và +330m cho khu vực Đồng Vông Lợi ích từ dự án sẽ được chia theo tỷ lệ 90/10 bằng sản phẩm.
Tính đến nay, Vietmindo đã khai thác 13,6 triệu tấn than nguyên khai, chế biến 10 triệu tấn than sạch và xuất khẩu 8,8 triệu tấn Công ty cam kết đầu tư và chia sẻ sản phẩm với Công ty Than Uông Bí, đồng thời áp dụng công nghệ hiện đại trong khai thác và chế biến than, tạo việc làm cho lao động địa phương Vietmindo đã nộp tổng cộng 158 triệu USD cho ngân sách nhà nước qua thuế và phí, đồng thời thực hiện chính sách việc làm và phúc lợi công bằng cho người lao động, duy trì việc làm cho khoảng nhiều lao động địa phương.
450 lao động với mức lương cạnh tranh
Sự cần thiết tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường
về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng xây dựng nền kinh tế xanh, kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ và phục hồi môi trường, như được nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng 13 Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên, nhằm tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường Điều này bao gồm việc sửa đổi, bổ sung các chế tài hành chính, kinh tế và hình sự để đảm bảo tính răn đe, đồng thời tăng cường thanh tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật Nghị quyết cũng nhấn mạnh trách nhiệm bồi thường của những người gây ô nhiễm, yêu cầu họ phải chi trả chi phí xử lý và cải tạo môi trường, đồng thời những người hưởng lợi từ tài nguyên cũng phải có nghĩa vụ đóng góp cho công tác quản lý và bảo vệ môi trường.
Việt Nam đang hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với thách thức ô nhiễm môi trường từ hoạt động đầu tư và sản xuất Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường sống Tuy nhiên, chế tài pháp lý hiện tại chưa đủ mạnh để răn đe và buộc các doanh nghiệp bồi thường cho những thiệt hại này Nhiều doanh nghiệp vẫn tìm cách né tránh trách nhiệm, trong khi quy định về xác định thiệt hại do ô nhiễm môi trường còn thiếu sót và không đồng bộ, gây khó khăn trong việc truy cứu trách nhiệm bồi thường.
Pháp luật Việt Nam đã xây dựng và áp dụng hiệu quả các nguyên tắc cơ bản trong việc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường Tuy nhiên, hiệu lực thi hành của pháp luật vẫn gặp nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu và đề ra các chính sách phù hợp để đưa các quy định vào thực tiễn Mục tiêu của việc áp dụng các nguyên tắc này là tạo sự liên kết hiệu quả giữa chính sách bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế Những nguyên tắc này, mặc dù được phát triển tại các quốc gia công nghiệp, vẫn có thể mang lại lợi ích cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Dựa trên các quy định pháp luật và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường, nhiều Bộ, Ngành đã ban hành quy chế bảo vệ môi trường riêng cho ngành mình Đồng thời, nhiều địa phương cũng đã thiết lập các quy định liên quan đến bảo vệ môi trường, và nhiều cơ sở sản xuất đã bắt đầu chú trọng đến vấn đề này.
Việc bảo vệ môi trường và đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho công tác này đang được chú trọng, với nhiều phong trào quần chúng như xây dựng thói quen sống sạch sẽ, phong trào xanh - sạch - đẹp, và các chiến dịch bảo vệ đa dạng sinh học Tuy nhiên, ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của các nhà sản xuất, quản lý và người dân vẫn còn thấp Doanh nghiệp thường chỉ tập trung vào sản xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến bảo vệ môi trường, dẫn đến việc kiểm soát môi trường lỏng lẻo Vi phạm pháp luật môi trường đã diễn ra phổ biến, gây ô nhiễm nguồn nước và không khí, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân và an ninh trật tự Mặc dù có nhiều vụ vi phạm được xử phạt, nhưng người dân gặp khó khăn trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do không xác định được mức độ thiệt hại kinh tế.
Nhiều địa phương đã thực hiện hiệu quả phong trào "Sử dụng và bảo quản nhà tiêu hợp vệ sinh" do Bộ Y tế phát động, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nông thôn mới Theo thông tin từ Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế (2019), phong trào này không chỉ nâng cao ý thức cộng đồng về vệ sinh mà còn cải thiện chất lượng sống của người dân tại các khu vực nông thôn Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trên trang web của Bộ Y tế.
Bài viết của Trần Nguyễn Tuyên (2021) đề cập đến một số vấn đề môi trường hiện nay ở Việt Nam, phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp cần thiết Tài liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình môi trường, nhấn mạnh những thách thức mà đất nước đang đối mặt và khuyến nghị các biện pháp cải thiện Để tìm hiểu chi tiết hơn, bạn có thể truy cập vào bài viết tại địa chỉ http://hdll.vn/vi/nghien-cuu -trao-doi/mot-so-van-de-ve-moi-truong-o-viet-nam-hien-nay thuc-trang-va-giai-phap.html, truy cập ngày 17/6/2022.
Bài viết của Trần Nguyễn Tuyên (2021) đề cập đến một số vấn đề môi trường hiện nay ở Việt Nam, phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp cần thiết Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình ô nhiễm, biến đổi khí hậu và những thách thức mà đất nước đang đối mặt Ngoài ra, tác giả cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và khuyến khích các hành động bền vững để cải thiện chất lượng sống cho người dân Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại http://hdll.vn/vi/nghien-cuu -trao-doi/mot-so-van-de-ve-moi-truong-o-viet-nam-hien-nay thuc-trang-va-giai-phap.html, truy cập ngày 17/6/2022.
Sở Tài nguyên và Môi trường đã áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính chủ yếu thông qua hình thức phạt tiền, cùng với các biện pháp bổ sung như thu hồi giấy phép khai thác và xả thải Doanh nghiệp cũng buộc phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu và quy định về bảo vệ môi trường Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường hiện nay là rất cần thiết.