1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh

163 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Gây Ô Nhiễm Môi Trường - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Tại Các Công Ty Sản Xuất Than Khoáng Sản, Tỉnh Quảng Ninh
Tác giả Bùi Vũ Nghĩa
Người hướng dẫn TS. Hoàng Thị Minh Hằng
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 163
Dung lượng 7,62 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (9)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (13)
    • 2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài (15)
    • 2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước (16)
  • 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu (19)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (20)
    • 4.1. Đối tượng nghiên cứu (20)
    • 4.2. Phạm vi nghiên cứu (20)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (20)
  • 6. Kết quả nghiên cứu (21)
  • 7. Kết cấu Luận văn (21)
  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG (23)
    • 1.1. Ô nhiễm môi trường và thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường (0)
    • 1.2. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường (0)
      • 1.2.1. Khái niệm..............................................Error! Bookmark not defined. 1.2.2. Đặc điểm (35)
    • 1.3. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường (0)
      • 1.3.1. Khái niệm (0)
      • 1.3.2. Đặc trưng (0)
      • 1.3.3. Vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường (0)
      • 1.3.4. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường thiệt hại (0)
        • 1.3.4.1. Giai đoạn trước năm 2005 (0)
        • 1.3.4.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay (0)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN TUÂN THỦ PHÁP LUẬT TẠI CÁC CÔNG TY SẢN XUẤT THAN KHOÁNG SẢN, TỈNH QUẢNG NINH (51)
    • 2.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường (51)
      • 2.1.2. Quy định về chủ thể tham gia quan hệ bồi thường thiệt hại (56)
      • 2.1.3. Quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại (66)
      • 2.1.4. Quy định về thiệt hại được bồi thường và xác định thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường (69)
      • 2.1.5. Quy định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (76)
      • 2.1.6. Quy định về phương thức yêu cầu bồi thường thiệt hại do doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường (80)
      • 2.1.7. Quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường (83)
    • 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản, tỉnh Quảng (87)
      • 2.1.1. Giới thiệu về các công ty sản xuất than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh (0)
      • 2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh (92)
        • 2.2.2.1 Thành tựu (92)
        • 2.2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân (95)
  • CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG (0)
    • 3.1. Sự cần thiết tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường (108)
    • 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường từ thực tiễn thực hiện pháp luật tại các công ty sản xuất than tỉnh Quảng Ninh (112)
    • 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả tuân thủ pháp luật (0)
  • KẾT LUẬN (21)
  • PHỤ LỤC (148)

Nội dung

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh.

Tính cấp thiết của đề tài

Bảo vệ môi trường đang trở thành vấn đề trọng điểm toàn cầu, nhận được sự quan tâm của tất cả các quốc gia và cộng đồng quốc tế Ô nhiễm môi trường không chỉ là thách thức riêng của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam mà còn là vấn đề chung của toàn thế giới Với xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã có những bước phát triển kinh tế đáng kể và cũng chú trọng hơn đến vấn đề bảo vệ môi trường thông qua Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 Tuy nhiên, tại tỉnh Quảng Ninh, nơi giàu tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là than đá với trữ lượng lớn nhất cả nước, ô nhiễm môi trường do khai thác than khoáng sản đang diễn ra và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đến chất lượng môi trường và cuộc sống của người dân nếu không được xử lý kịp thời.

Tỉnh Quảng Ninh luôn chú trọng bảo vệ môi trường bằng cách chỉ đạo các sở và địa phương tăng cường quản lý, giám sát chỉ số môi trường qua hệ thống trạm quan trắc tự động tại các đơn vị sản xuất có nguy cơ ô nhiễm, đặc biệt là các doanh nghiệp khai thác và sản xuất than Tuy nhiên, các mỏ than tại tỉnh đang xả thải hơn 100 triệu m³ nước thải mỗi năm, chứa nhiều kim loại nặng và chất độc hại.

Theo UNICEF, ô nhiễm môi trường đang gia tăng trên toàn cầu, đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia đang phát triển.

Thanh Lịch (2020), Thông điệp từ thiên nhiên “hãy bảo vệ môi trường!”, https://moitruongvaxahoi.vn/thong-diep-tu-thien- nhien-hay-bao-ve-moi-truong-1394860380.html , truy cập 5/5/2022.

2 Văn Hữu Tập (2015), Khai thác than tác động đến môi trường, http://moitruongviet.edu.vn/khai-thac-than-tac-dong-den- moi-truong/ , truy cập ngày 1/5/2022.

Tiềm năng ngành khoáng sản ở Việt Nam rất lớn, với nhiều loại khoáng sản phong phú như than, quặng sắt và bauxite Ngành khoáng sản không chỉ đóng góp vào nền kinh tế quốc gia mà còn tạo ra hàng triệu việc làm cho người dân Tuy nhiên, việc khai thác cần được thực hiện một cách bền vững để bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên Chính phủ đang có những chính sách hỗ trợ để phát triển ngành khoáng sản một cách hiệu quả và bền vững.

%20ph%C3%A2n%20b%E1%BB%91%20ch%E1%BB%A7,tr%E1%BB%8Dng%20%C4%91%E1%BB%83%20ph%C 3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20%C4%91%E1%BA%A5t%20n%C6%B0%E1%BB%9B c.

4 Hiểu Trân (2021), Khắc phục ô nhiễm môi trường trong sản xuất than, https://baoquangninh.com.vn/khac-phuc-o-nhiem-

Việc xử lý chất thải công nghiệp nguy hại không đúng cách có thể gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của cộng đồng địa phương Một ví dụ điển hình là Nhà máy xử lý chất thải công nghiệp nguy hại của Công ty Môi trường TKV, được xây dựng tại thôn Tân Tiến, xã Dương Huy, TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh Nhà máy này đã gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến nhiều người dân trong khu vực gặp vấn đề về hô hấp, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của họ.

Nước thải công nghiệp từ ngành than gây ô nhiễm nguồn nước mặt, ảnh hưởng đến hệ thống sông suối và hồ ven biển Khai thác than cũng làm suy thoái và cạn kiệt nguồn nước ngầm, dẫn đến ô nhiễm các tầng chứa nước ngọt, như ở Đông Triều, ảnh hưởng đến chất lượng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp Ngoài ra, môi trường không khí tại các khu vực khai thác than như Cẩm Phả, Uông Bí và Hạ Long bị ô nhiễm nghiêm trọng do bụi, khí độc và tiếng ồn, với hàm lượng bụi vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 - 5,2 lần Tình trạng này đang cảnh báo về sự cần thiết phải kết hợp giữa hoạt động kinh doanh và bảo vệ môi trường tại địa phương.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường là nghĩa vụ pháp lý giữa các bên, trong đó người vi phạm quy định về bảo vệ môi trường phải bồi thường cho những người bị thiệt hại Các quy định pháp luật đã ghi nhận rõ ràng về vấn đề này.

Tại Tp Cẩm Phả, Quảng Ninh, nhà máy xử lý chất thải công nghiệp nguy hại của TKV đang gây ra tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của người dân Chính quyền địa phương có thực sự hiểu và quan tâm đến những tác động này hay không? Sự việc này đã thu hút sự chú ý của cộng đồng và cần được giải quyết kịp thời để bảo vệ môi trường và quyền lợi của người dân.

6 Nguyễn Thị Huệ (2016), “Giải pháp bảo vệ môi trường trong khai thác than ở Quảng Ninh giai đoạn 2016 - 2020,” Tạp chí Môi trường, số 10, Hà Nội, tr.80.

7 Nguyễn Thị Huệ (2016), “Giải pháp bảo vệ môi trường trong khai thác than ở Quảng Ninh giai đoạn 2016 - 2020,” Tạp

Quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Việt Nam có sự khác biệt trong phương thức, mức độ và cách xác định thiệt hại, cùng với việc xác định trách nhiệm bồi thường Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt hại gặp nhiều khó khăn, liên quan đến các căn cứ phát sinh trách nhiệm, xác định thiệt hại, đặc biệt là thiệt hại tinh thần, và lỗi của người gây thiệt hại Hệ thống pháp luật hiện hành về giải quyết xung đột và tranh chấp môi trường vẫn tồn tại nhiều lỗ hổng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, điển hình là những bất cập về nghĩa vụ chứng minh và giám định môi trường.

Để nâng cao công tác bảo vệ môi trường và thu hút đầu tư tại tỉnh Quảng Ninh, cần ứng dụng công nghệ tiên tiến trong xử lý nước thải, đồng thời cải thiện quy trình thu gom và xử lý rác thải tại các khu công nghiệp và cơ sở sản xuất Việc này không chỉ góp phần bảo vệ môi trường trong khai thác tài nguyên khoáng sản mà còn nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng và doanh nghiệp Do đó, học viên đã chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu.

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Research on environmental issues and responsibilities abroad includes publications like the "Compendium of Summaries of Judicial Decisions in Environment-Related Cases" by the South Asian Cooperative Environment Programme This resource highlights significant judicial rulings that address environmental concerns, underscoring the importance of legal frameworks in promoting environmental accountability.

SACEP và Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) đã phát hành vào năm 2001 một tài liệu tổng hợp các quyết định của tòa án liên quan đến môi trường Tài liệu này nhằm cung cấp thông tin cần thiết về luật môi trường cho các thẩm phán và các bên liên quan pháp lý khác, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi.

Báo cáo “Liability for environmental damage in Eastern Europe,

Báo cáo "Caucasus and Central Asia (EECCA): Implementation of good international practices" (2012) của OECD thực hiện một phân tích so sánh về trách nhiệm đối với thiệt hại môi trường giữa các nước OECD và khu vực EECCA Tài liệu này nêu rõ những cách tiếp cận chính về trách nhiệm môi trường, chủ yếu dựa trên phân tích hệ thống pháp luật và thực tiễn tại Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu Đặc biệt, báo cáo được chuẩn bị bởi Ban Thư ký Lực lượng Đặc nhiệm trong khuôn khổ chương trình Hành động Môi trường EAP (OECD, 2009) và đánh giá các thực tiễn hiện hành tại EECCA do Trung tâm Môi trường Khu vực EECCA thực hiện (REC, 2011).

Luận văn “Problem of proof and causation in environmental litigation in Nigeria” (2015) của tác giả Hassan Abiodun Mazeedah, Đại học Lagos,

9 Đông Âu, Caucasus và Trung Á (EECCA), là một khối các quốc gia bao gồm Armenia, Azerbaijan, Belarus, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Liên bang Nga, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan.

Nigeria đang nghiên cứu các nguyên nhân gây ra thách thức trong việc chứng minh thiệt hại môi trường và các biện pháp khắc phục trong quá trình yêu cầu bồi thường thông qua kiện tụng Nghiên cứu này tập trung vào các đạo luật chung và cụ thể, nhằm đưa ra giải pháp khắc phục những hạn chế của pháp luật hiện hành liên quan đến việc chứng minh thiệt hại tại Nigeria.

Bài viết "Laws Regulating Water Pollution in Bangladesh" (2019) của nhóm tác giả Md Arifuzzaman và các cộng sự đã đánh giá các luật môi trường hiện hành về ô nhiễm nước tại Bangladesh Nghiên cứu chỉ ra rằng cần có những thay đổi trong chế độ quản lý và cải thiện thể chế để giải quyết hiệu quả các vấn đề ô nhiễm nước Bài viết cũng đề xuất các biện pháp quản lý hiệu quả nhằm kiểm soát tình trạng ô nhiễm nước trong nước.

Bài viết "Trách nhiệm về ô nhiễm trong vụ Vedan Việt Nam" của tác giả Alexandre Nikolaevich Chitov, đăng trong Tạp chí Khoa học Xã hội Pháp y, đã phân tích vụ ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại Việt Nam do Vedan Việt Nam, một nhà đầu tư nước ngoài, gây ra Nghiên cứu tập trung vào các quy định pháp lý về trách nhiệm môi trường tại Việt Nam, xem xét từ góc độ pháp luật hình sự, hành chính và dân sự liên quan đến vụ việc này.

Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Các công trình nghiên cứu về môi trường và trách nhiệm môi trường ở trong nước, chẳng hạn:

Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường”

Bài viết của tác giả Phạm Hữu Nghị (2002) trong Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, tập XVIII, trình bày các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, bao gồm chủ thể chịu trách nhiệm, điều kiện phát sinh trách nhiệm, tiêu chí xác định ô nhiễm và phương pháp tính thiệt hại Năm 2007, Trường Đại học Luật Hà Nội đã nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật môi trường, cung cấp cơ sở lý luận để hoàn thiện quy định này trong bảo vệ môi trường Năm 2011, đề tài "Pháp luật môi trường trong kinh doanh" cũng được thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội, tiếp tục làm rõ các vấn đề liên quan đến pháp luật môi trường.

Dưới sự chủ nhiệm của Vũ Thị Duyên Thuỷ, nghiên cứu tại Hà Nội đã làm rõ những vấn đề cơ bản liên quan đến pháp luật môi trường trong kinh doanh Bài viết đánh giá thực trạng pháp luật môi trường hiện hành và đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm bảo vệ môi trường sống của con người trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Bùi Kim Hiếu (2015) về đề tài

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại Việt Nam hiện nay đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, bao gồm lý luận và pháp luật liên quan Bài viết phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng trong việc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, từ đó đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật Mặc dù có nhiều nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến bảo vệ môi trường, nhưng tại tỉnh Quảng Ninh, số lượng công trình nghiên cứu theo Luật Bảo vệ Môi trường 2014 còn hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh du lịch phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây.

Các công trình đã được công bố sẽ là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu sinh trong việc thực hiện đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế.

Nghiên cứu này sẽ đánh giá thực trạng pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở Tỉnh Quảng Ninh Mục tiêu là đề xuất các phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại môi trường và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tại các doanh nghiệp này trong tương lai.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của Luận văn là làm rõ lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, tập trung vào các công ty sản xuất than khoáng sản tại Tỉnh Quảng Ninh Nghiên cứu sẽ đánh giá thực trạng và từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại Luận văn xác định các nhiệm vụ cụ thể để đạt được mục tiêu nghiên cứu này.

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường;

Bài viết này phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật cùng việc thực thi các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh trong thời gian gần đây Qua đó, bài viết làm rõ những ưu điểm và bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong việc thực thi trách nhiệm bồi thường, từ đó đề xuất các giải pháp cải thiện tình hình.

Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh, cần đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Những giải pháp này bao gồm việc cải thiện quy định pháp lý, tăng cường công tác kiểm tra và giám sát, cũng như nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về trách nhiệm bảo vệ môi trường Đồng thời, cần thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả và minh bạch để đảm bảo quyền lợi cho người dân bị ảnh hưởng.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với tính chất và yêu cầu của đề tài như:

Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng để xem xét các quy định pháp luật liên quan, đánh giá thực trạng và xác định nguyên nhân tồn tại Qua đó, các kết luận sẽ được đưa ra cho từng chương, từ đó kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh.

Phương pháp nghiên cứu tình huống là kỹ thuật phân tích các vụ việc thực tiễn nhằm làm rõ những bất cập trong việc thi hành pháp luật và đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật trong thực tế Phương pháp này giúp minh chứng cho những vấn đề tồn tại, từ đó đưa ra những giải pháp cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật.

Phương pháp diễn dịch và quy nạp là công cụ quan trọng trong việc phân tích và tổng hợp các khía cạnh lý luận, đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật một cách hiệu quả.

Phương pháp phân tích và giải thích luật học giúp làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường Điều này không chỉ góp phần nâng cao nhận thức về luật pháp mà còn thúc đẩy việc thực thi các quy định nhằm bảo vệ môi trường Việc hiểu rõ trách nhiệm bồi thường sẽ hỗ trợ các cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình khi gây ra thiệt hại cho môi trường.

Kết quả nghiên cứu

Luận văn này cung cấp cơ sở lý luận về pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra bởi các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh Nội dung nghiên cứu tập trung vào việc phân tích các quy định pháp lý hiện hành và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi trách nhiệm bồi thường trong bối cảnh bảo vệ môi trường.

Luận văn này đánh giá thực trạng và nguyên nhân của những bất cập trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến hoạt động khai thác than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây.

Luận văn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện hiệu quả Luật Bảo vệ Môi trường trong hoạt động khai thác than khoáng sản, nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Mục tiêu là hướng tới phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế xanh và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân tỉnh Quảng Ninh.

Tài liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác than khoáng sản.

Kết cấu Luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

Chương 2: Phân tích thực trạng pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, cùng với việc đánh giá thực tiễn tuân thủ pháp luật tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh Nội dung này sẽ làm rõ những quy định hiện hành và thực trạng thực thi pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường.

Chương 3 đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả tuân thủ các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh Việc cải thiện khung pháp lý và tăng cường giám sát sẽ giúp đảm bảo rằng các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bồi thường, từ đó bảo vệ môi trường và quyền lợi của cộng đồng Các biện pháp này không chỉ tăng cường trách nhiệm của các công ty mà còn tạo ra môi trường kinh doanh bền vững, góp phần vào sự phát triển kinh tế địa phương.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

1.2.Khái niệm, nội dung và vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

Pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp, đã được hình thành từ sớm, với sự ra đời của Luật Bảo vệ Môi trường Bên cạnh đó, các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng được quy định trong luật dân sự và hình sự, nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại và tăng cường tính răn đe đối với các doanh nghiệp vi phạm.

Theo Luật Bảo vệ Môi trường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) là nghĩa vụ pháp lý của cá nhân hoặc tổ chức gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến suy giảm chức năng và tính hữu ích của môi trường Họ phải chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cũng như lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm.

Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường là hệ thống quy tắc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại từ hành vi vi phạm pháp luật môi trường Hệ thống này xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan, bao gồm các trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại, cũng như đối tượng được bồi thường và đối tượng phải bồi thường Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trình tự và thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường.

1.2.2 Nội dung của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường là một phần quan trọng của hệ thống pháp luật, mang những đặc điểm như quyền lực Nhà nước, tính bắt buộc chung, và quy phạm phổ biến Ngoài ra, nó còn thể hiện tính hệ thống và tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, đồng thời có những đặc trưng cơ bản riêng biệt, phản ánh sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và đảm bảo trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc gây ra ô nhiễm.

Lĩnh vực pháp luật này bao gồm quy định về bảo vệ môi trường và các điều khoản liên quan đến bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Khi xem xét bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp, cần tuân thủ các nguyên tắc và quy định chung của pháp luật dân sự.

19 Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.50.

Việc đánh giá mức độ, nguyên nhân và hậu quả của thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường Đồng thời, thẩm quyền và chế tài xử lý đối với các hành vi này cũng phải được xác định dựa trên các quy định pháp luật hiện hành.

Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường bao gồm tổ chức và cá nhân có hành vi gây ô nhiễm, dẫn đến suy giảm chức năng và tính hữu ích của môi trường, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác Các thiệt hại này có thể được xác định bằng tiền để thuận tiện cho việc giải quyết bồi thường Không phải mọi hành vi tác động đến môi trường đều bị điều chỉnh bởi pháp luật này, mà chỉ những hành vi gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và tổ chức khác, mới phải chịu trách nhiệm pháp lý.

Pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường không chỉ bao gồm các quy định pháp lý mà còn có các quy phạm kỹ thuật và nghiệp vụ để xác định thiệt hại Để xác định hành vi gây ô nhiễm có thiệt hại hay không, cần xem xét các dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cùng với các quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường Việc này cần được thực hiện bởi các chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về môi trường Khi thiệt hại đã được xác định, cần đánh giá mức độ thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường của các chủ thể gây ô nhiễm Do đó, việc thành lập cơ quan chuyên môn về kỹ thuật và nghiệp vụ môi trường là cần thiết.

Pháp luật về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên đã nội luật hóa các điều ước và công ước quốc tế liên quan đến môi trường, nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

30 định về BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra) mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.

1.2.3 Vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường Định hướng phát triển đất nước năm 2021 - 2030 đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, Việt Nam sẽ xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường Trong nền kinh tế xanh, các vấn đề kinh tế phải tính đến các vấn đề môi trường nhằm đảm bảo sự bền vững của môi trường Việc bảo vệ môi trường có hiệu quả thì không thể không sử dụng công cụ pháp luật bởi lẽ, với những đặc trưng của pháp luật như tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế và tính thích ứng, tự điều chỉnh nên nó trở thành biện pháp quản lý có hiệu quả nhất được sử dụng trong việc xác định trách nhiệm BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường Với mục tiêu phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường, pháp luật về trách nhiệm BTTH do gây ô nhiễm môi trường được đặt ra không chỉ giải quyết các tranh chấp môi trường, răn đe các chủ thể có vi phạm mà còn giúp phục hồi, cải thiện môi trường và bảo vệ môi trường khỏi những suy thoái, ô nhiễm Vì thế pháp luật về trách nhiệm BTTH do gây ô nhiễm môi trường có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật nói riêng, trong mục tiêu phát triển đất nước, phát triển xã hội nói chung.

Thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp rất khó nhận biết và xác định chính xác mức độ, hậu quả Việc định lượng thiệt hại này yêu cầu sử dụng máy móc và công nghệ hiện đại, nhưng nguồn lực tài chính hạn hẹp khiến việc này không phải lúc nào cũng khả thi Hơn nữa, sự tác động của kinh tế thị trường đôi khi làm cho một số cán bộ thực thi không khách quan, dẫn đến việc doanh nghiệp có thể tìm cách giảm mức độ xử lý vi phạm Do đó, cần có pháp luật rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường để đảm bảo việc xử lý công bằng và nghiêm minh các hành vi vi phạm.

Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường tại Việt Nam được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản, như quyền sống trong môi trường trong lành và trách nhiệm của người gây ô nhiễm Những nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Tuyên bố về môi trường tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về môi trường lần thứ 2 tại Rio, mà Việt Nam là một trong những quốc gia ký kết Việc nội luật hóa các nguyên tắc này trong Luật Bảo vệ Môi trường không chỉ khẳng định cam kết của Nhà nước Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế mà còn tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp.

1.3 Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường tại Việt Nam

Trong lịch sử Việt Nam, các nhà nước phong kiến không chịu trách nhiệm pháp lý đối với người dân do quyền lực tối cao thuộc về nhà vua Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945) chứng kiến sự áp dụng hai chế độ cai trị: chế độ phong kiến hà khắc và chế độ thực dân Trong bối cảnh này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn chưa được quy định rõ ràng, mặc dù các trách nhiệm dân sự khác đã được cụ thể hóa trong Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931.

21 Phạm Thị Lệ Quyên (2020), Một số bất cập của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi doanh nghiệp gây ô

32 nhiễm môi trường, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân, (07), Đà Nẵng, tr 112 – 116.

Trung kỳ (1936), Nam kỳ (1883) 22 Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH cũng chưa được quy định như là một chế định trong pháp luật.

Từ những bản Hiến pháp đầu tiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước chưa được quy định rõ ràng trong luật Theo tinh thần thực thi Hiến pháp năm 1959, vào ngày 23 tháng 3 năm

Năm 1972, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 173/UBTP nhằm hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Theo Thông tư này, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của một chủ thể, cần căn cứ vào bốn yếu tố quan trọng: (i) phải có thiệt hại xảy ra; (ii) phải có hành vi trái pháp luật.

Khái niệm, đặc trưng và vai trò của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

THAN KHOÁNG SẢN, TỈNH QUẢNG NINH 2.1 Thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

2.1.1 Các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

Theo quy định của pháp luật dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phát sinh khi các điều kiện nhất định được đáp ứng.

Thứ nhất, có hành vi trái pháp luật Hành vi này là hành vi vi phạm pháp

Luật Bảo vệ Môi trường quy định rõ ràng về các hành vi gây thiệt hại cho môi trường, ảnh hưởng đến con người và tài sản của cá nhân, tổ chức Những hành vi này thường không trực tiếp xâm hại đến quyền sống, sức khỏe và tài sản của

Hành vi gây ô nhiễm môi trường dẫn đến thiệt hại, tạo ra điều kiện tiên quyết cho trách nhiệm bồi thường thiệt hại Mục đích của trách nhiệm này là khôi phục tài sản và sức khỏe cho người bị thiệt hại, cũng như phục hồi môi trường bị ô nhiễm Thiệt hại thường biểu hiện dưới dạng tổn thất.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN TUÂN THỦ PHÁP LUẬT TẠI CÁC CÔNG TY SẢN XUẤT THAN KHOÁNG SẢN, TỈNH QUẢNG NINH

Thực trạng pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

2.1.1 Các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường

Theo quy định của pháp luật dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, thuộc loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, sẽ phát sinh khi có các điều kiện nhất định.

Thứ nhất, có hành vi trái pháp luật Hành vi này là hành vi vi phạm pháp

Luật Bảo vệ Môi trường quy định về những thiệt hại có thể xảy ra đối với môi trường, con người và tài sản của cá nhân, tổ chức Hành vi gây thiệt hại trong lĩnh vực môi trường có những đặc điểm riêng biệt, như việc không xâm hại trực tiếp đến quyền sống, sức khỏe và tài sản của công dân mà thông qua sự suy giảm chức năng và tính hữu ích của các yếu tố môi trường Không phải mọi hành vi gây thiệt hại cho môi trường đều vi phạm pháp luật, nhưng những hành vi vi phạm pháp luật môi trường rất đa dạng, bao gồm các hành vi bị cấm theo Điều 6 của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 và việc không thực hiện các quy định bắt buộc của pháp luật Những hành vi này có thể dẫn đến ô nhiễm, suy thoái môi trường và xâm phạm các quyền cơ bản của con người được pháp luật bảo vệ.

Hành vi gây ô nhiễm môi trường dẫn đến thiệt hại, tạo ra điều kiện tiên quyết cho trách nhiệm bồi thường thiệt hại Mục tiêu của trách nhiệm này là khôi phục tài sản và sức khỏe cho người bị thiệt hại, cũng như phục hồi môi trường bị ô nhiễm Thiệt hại thường biểu hiện dưới dạng tổn thất rõ rệt.

34 thực tế do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của cá nhân, tổ chức, cụ thể như sau:

Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm việc tài sản bị huỷ hoại hoặc hư hỏng, dẫn đến việc thu hẹp hoặc mất các lợi ích từ việc không thể sử dụng, khai thác tài sản Ngoài ra, còn có những chi phí phát sinh để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại liên quan đến tài sản đó.

Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý cho chữa trị, chăm sóc và phục hồi chức năng, cùng với thu nhập thực tế của người bị thiệt hại hoặc người chăm sóc họ bị mất do hành vi gây ô nhiễm môi trường Chẳng hạn, ô nhiễm nước, không khí và đất có thể dẫn đến nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm, gây ra bệnh hô hấp cho người dân, từ đó họ phải chi tiền cho khám và chữa bệnh, đồng thời thu nhập giảm sút do không thể lao động bình thường.

Thiệt hại do xâm hại tính mạng bao gồm chi phí cứu chữa, chăm sóc trước khi người bị thiệt hại qua đời, chi phí mai táng, và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà nạn nhân có nghĩa vụ hỗ trợ Những thiệt hại này thường xảy ra trong các sự cố môi trường quy mô lớn và nguy hiểm cao, như tràn dầu, nổ xăng dầu, hoặc cháy rừng.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật môi trường và thiệt hại xảy ra là rất rõ ràng; thiệt hại thực tế chính là kết quả trực tiếp từ các hành vi vi phạm này Điều này có nghĩa là, nếu thiệt hại về môi trường hoặc con người xảy ra mà không do hành vi trái pháp luật của chủ thể gây thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường sẽ không thuộc về họ Hơn nữa, trong trường hợp có nhiều hành vi tác động đến môi trường, việc xác định nguyên nhân trực tiếp là cần thiết để xác định trách nhiệm pháp lý.

Khi 36 hành vi gây thiệt hại được xác định là vi phạm pháp luật của một chủ thể, điều này có nghĩa là không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của chủ thể khác và thiệt hại thực tế đã xảy ra.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và thiệt hại môi trường thường khó xác định do thiệt hại thường không xảy ra ngay lập tức mà tích lũy dần theo thời gian.

Để chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây hại cho môi trường và các thiệt hại phát sinh, cần thực hiện hai bước chính: Thứ nhất, xác định mối liên hệ giữa hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và sự suy giảm chức năng cũng như tính hữu ích của môi trường, hoặc tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường Thứ hai, xác định mối liên hệ giữa ô nhiễm, suy thoái môi trường và những thiệt hại liên quan đến tính mạng, sức khỏe, và tài sản của cá nhân hoặc tổ chức.

Trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại là căn cứ quan trọng để xác định mức bồi thường Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không bị loại trừ ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi, trừ khi người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi hoặc thiệt hại phát sinh từ sự kiện bất khả kháng Điều này có nghĩa là nếu người bị thiệt hại không có lỗi, trách nhiệm bồi thường luôn thuộc về người gây ô nhiễm Quy định này cho thấy rằng trong một số trường hợp, trách nhiệm bồi thường có thể được xác lập mà không cần yếu tố lỗi, nhưng đây chỉ là ngoại lệ trong cấu thành bồi thường thiệt hại ngoài ô nhiễm môi trường Việc lập pháp cần cân nhắc giữa yêu cầu có yếu tố lỗi và việc loại bỏ yếu tố lỗi như điều kiện cấu thành.

Bùi Thị Thu Trang (2020) trong bài viết của mình đã phân tích các điều kiện pháp lý cần thiết để tiến hành khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Môi trường, số 4, tại Hà Nội, cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy trình pháp lý liên quan đến bảo vệ môi trường và quyền lợi của người bị thiệt hại.

25 Điều 602 Bộ Luật dân sự năm 2015

26 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015

Nguyên tắc trách nhiệm dựa trên lỗi vẫn là nền tảng của bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng, mặc dù một số quốc gia như Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản đều công nhận cả trách nhiệm dựa trên lỗi và trách nhiệm không dựa trên lỗi Tuy nhiên, trách nhiệm nghiêm ngặt xuất hiện ít hơn trong hệ thống Common Law so với Civil Law, và các quốc gia này vẫn không từ bỏ nguyên tắc cấu thành trách nhiệm dựa trên lỗi Việc công nhận cả hai loại trách nhiệm này cho phép pháp luật điều tiết các quan hệ đặc thù và đạt được mục đích cuối cùng của chế định BTTH là bù đắp thiệt hại.

2.1.2 Quy định về chủ thể tham gia quan hệ bồi thường thiệt hại

2.1.2.1 Người có trách nhiệm bồi thường Điều 602 BLDS năm 2015 và Khoản 6 Điều 4 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 quy định chủ thể có trách nhiệm BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường là cá nhân và pháp nhân Theo đó, Điều 602 BLDS năm 2015 quy định:

Theo quy định của pháp luật, các chủ thể gây ô nhiễm môi trường và gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường, ngay cả khi không có lỗi Điều này được nêu rõ trong khoản 6 Điều 4 của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường và khắc phục ô nhiễm, sự cố, suy thoái.

27 Don Mayer, Daniel Warner, George J Siedel, Jethro K Lieberman (2012), Law of Com,ercial Transactions, The Saylor Foundation, p 247.

28 CEES VAN DAM (2013), European tort law, The Second Edition, Oxford University Press, p 102.

31 Takashi Uchida (2011), Civil Law (The Third Edition) Special Provisions of ‘Obligation’, University of Tokyo Press, p 323.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường tại các công ty sản xuất than khoáng sản, tỉnh Quảng

2.2.1 Giới thiệu về các công ty sản xuất than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có diện tích 6.110,1 km² Tỉnh này cách trung tâm Hà Nội 125 km về phía Đông và giáp với nhiều địa phương: phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Nam giáp thành phố Hải Phòng, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ, và phía Tây giáp các tỉnh Hải Dương, Lạng Sơn và Bắc Giang.

Quảng Ninh, một trong những vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, nổi bật với nhiều điểm tham quan hấp dẫn dành cho du khách trong và ngoài nước Đặc biệt, vịnh Hạ Long được xem là vịnh có bờ biển đẹp nhất, thu hút đông đảo du khách đến khám phá và trải nghiệm.

Quảng Ninh đóng vai trò quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, với tiềm năng phát triển mạnh mẽ Báo Thế giới & Việt Nam đã chỉ ra rằng khu vực này là hạt nhân trong chiến lược phát triển kinh tế của miền Bắc, nhấn mạnh sự cần thiết phải khai thác các nguồn lực và cơ hội đầu tư Việc phát triển hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định để Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế năng động.

Quảng Ninh thu hút 59 nghìn khách du lịch mỗi năm nhờ vào vẻ đẹp tự nhiên và tài nguyên phong phú Tỉnh này nổi bật với trữ lượng than đá lớn nhất cả nước, trở thành điểm khai thác than lý tưởng Theo thống kê, Việt Nam khai thác khoảng 30 đến 40 triệu tấn than mỗi năm, khẳng định vị thế quan trọng của Quảng Ninh trong ngành công nghiệp khoáng sản.

Than đá Quảng Ninh có trữ lượng khoảng 3,6 tỷ tấn, chủ yếu là an-tra-xít với hàm lượng carbon ổn định trên 80% Khu vực khai thác chính bao gồm Hạ Long, Cẩm Phả và Uông Bí – Đông Triều, với sản lượng khai thác hàng năm từ 40 đến 50 triệu tấn Than Quảng Ninh được đánh giá là sạch và chất lượng cao, với độ tinh khiết trên 65% và khả năng bốc cháy tốt Than thường có màu đen ánh, ít lỗ hở rỗng, và khi cầm có chút dầu mỡ, khó rửa Đặc biệt, khi đốt than, người dùng thường không cảm thấy mùi khó chịu do lượng lưu huỳnh rất thấp, khẳng định chất lượng tốt nhất trên cả nước.

Tỉnh Quảng Ninh nổi bật với nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đặc biệt là than, dẫn đến sự gia tăng của các công ty khai thác khoáng sản Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có hơn 40 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác và kinh doanh than Một số công ty tiêu biểu bao gồm Tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam, Công ty Vietmindo, Công ty Tân Việt Bắc, Công ty Hùng Mạnh, Công ty cổ phần than Hà Lầm – Vinacomin, Công ty cổ phần Nhà Hà Thành, Công ty cổ phần than Hà Tu, Công ty cổ phần Than Mông Dương, và Tổng công ty Đông Bắc.

Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) là một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thuộc sở hữu của Nhà nước, với quy mô lớn trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản.

57 Báo Quảng Ninh (2016), Quảng Ninh phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, https://www.quangninh.gov.vn/pinchitiet.aspx?nidf536 , truy cập 3/5/2022.

Công ty Cổ phần Than Quảng Ninh (2020) đã cung cấp thông tin về ngành công nghiệp khai thác than toàn cầu trên trang web của họ Để tìm hiểu chi tiết về sự phát triển và tình hình của ngành này, bạn có thể truy cập vào đường dẫn http://www.thanquangninh.com.vn/cong-nghiep-khai-thac-than-tren-the-gioi.html, thông tin được cập nhật đến ngày 3/5/2022.

Công ty Vietmindo, được Chính phủ Indonesia chỉ định, đã ký Hợp đồng khai thác mỏ than Uông Thượng và Đồng Vông với Công ty Than Uông Bí, một thành viên của Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam Dự án khai thác than này nằm trong khuôn khổ các Hiệp định Kinh tế - Thương mại - Khoa học - Kỹ thuật - Đầu tư giữa hai chính phủ từ năm 1978 đến 1991 Vietmindo và Công ty Than Uông Bí đã được chỉ định đại diện cho Chính phủ Việt Nam trong việc ký kết Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC).

Dự án tại khu vực Đồng Vông - Uông Thượng có diện tích 1.300ha và thời hạn hoạt động 30 năm, do Vietmindo đầu tư 27 triệu USD Tập đoàn TKV, một ông lớn trong ngành khai thác than và khoáng sản, đã đóng góp tích cực từ năm 1995, giúp tăng sản lượng than và phát triển xuất khẩu, đóng góp vào ngân sách quốc gia TKV đã sản xuất 579 triệu tấn than trong 22 năm, đồng thời đầu tư vào chế biến sâu với nhiều dự án lớn như Nhà máy Kẽm Điện phân Thái Nguyên, Nhà máy Luyện đồng Lào Cai và Khu liên hợp Gang thép Cao Bằng, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Công ty PT Vietmindo Energitama là công ty Liên doanh với 100% vốn đầu tư của Indonesia, chuyên khai thác, chế biến và xuất khẩu than, có trụ sở

60 Truy cập https://vinacomin.vn/gioi-thieu-chung/don-vi-thanh-vien-201507041650281216.htm , ngày 5/5/2022.

Công ty Than Uông Bí đóng góp toàn bộ trữ lượng than nguyên khai trong khu vực dự án, với ước lượng khoảng 36 triệu tấn, tính từ các cao độ +125m tại Uông Thượng và +330m tại Đồng Vông Lợi ích của dự án được phân chia theo tỷ lệ 90/10.

Tính đến nay, Vietmindo đã khai thác 13,6 triệu tấn than nguyên khai, chế biến 10 triệu tấn than sạch và xuất khẩu 8,8 triệu tấn Công ty cam kết đầu tư và chia sẻ sản phẩm với Công ty Than Uông Bí, đồng thời sử dụng công nghệ hiện đại trong khai thác và chế biến than, tạo việc làm cho lao động địa phương Vietmindo đã đóng góp 158 triệu USD vào ngân sách nhà nước qua thuế và phí, đồng thời thực hiện chính sách việc làm và phúc lợi công bằng cho người lao động, duy trì khoảng 450 việc làm với mức lương cạnh tranh.

Kể từ giữa năm 2018, Vietmindo đã gặp phải nhiều khó khăn trong sản xuất do hành vi cản trở từ Công ty Tân Việt Bắc Mặc dù đã có nhiều sự kiện tranh chấp và nỗ lực đàm phán với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, tình hình vẫn chưa được giải quyết Hiện tại, Vietmindo buộc phải ngừng toàn bộ hoạt động sản xuất, dẫn đến việc khoảng 200 lao động bị nghỉ việc.

Công ty Cổ phần Than Hà Lầm – Vinacomin, một trong những công ty khai thác than lâu đời nhất tại Quảng Ninh với hơn 60 năm hoạt động, hiện là đơn vị sản xuất hàng hóa thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam Công ty chuyên khai thác than hầm lò và lộ thiên, sử dụng thiết bị thi công hiện đại nhập khẩu từ Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc, đảm bảo an toàn và phù hợp với khí hậu Việt Nam Năm 2007, Vinacomin đã đưa vào sử dụng lò chợ giá khung di động, nâng cao hiệu quả sản xuất.

Vào ngày 5 tháng 5 năm 2008, Công ty Vinacomin đã chính thức đưa vào hoạt động hệ thống xử lý nước thải GK-1600/1.6/2.4/HT, phục vụ cho quá trình khai thác Hệ thống này có khả năng xử lý nước thải với công suất 120m3/h, đảm bảo nước sau xử lý đạt tiêu chuẩn cho sử dụng trong công nghiệp.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG

Sự cần thiết tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường

về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng xây dựng nền kinh tế xanh, kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ và phục hồi môi trường, như được nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng 13 Để bảo vệ môi trường, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường được coi trọng, thể hiện qua Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013, trong đó nhấn mạnh việc hoàn thiện pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên Nghị quyết đề xuất xây dựng cơ chế pháp lý thuận lợi, giải quyết tranh chấp và xung đột liên quan đến môi trường, đồng thời sửa đổi các chế tài để đảm bảo tính răn đe trong quản lý tài nguyên Ngoài ra, Nghị quyết cũng khẳng định trách nhiệm bồi thường của cá nhân, tổ chức gây ô nhiễm môi trường, bao gồm cả ô nhiễm nguồn nước.

Cần thực hiện và áp dụng hiệu quả các nguyên tắc rằng người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm chi trả cho việc xử lý, khắc phục hậu quả và phục hồi môi trường Đồng thời, những người được hưởng lợi từ tài nguyên và môi trường cũng phải có nghĩa vụ đóng góp để tái đầu tư vào quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều thuận lợi, nhưng cũng đặt ra thách thức về nguy cơ ô nhiễm môi trường do hoạt động đầu tư, sản xuất - kinh doanh Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường tự nhiên và môi trường sống Tuy nhiên, chế tài pháp lý hiện hành vẫn còn hạn chế, chưa đủ sức răn đe và chưa đảm bảo tính nghiêm minh, dẫn đến nhiều doanh nghiệp cố tình tránh né trách nhiệm bồi thường Bên cạnh đó, các quy định về xác định thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường còn thiếu đầy đủ, chi tiết và đồng bộ, gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp.

Pháp luật Việt Nam đã thiết lập và áp dụng hiệu quả các nguyên tắc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, tuy nhiên, hiệu lực thi hành vẫn còn nhiều hạn chế Cần tiếp tục nghiên cứu và đề ra các chính sách phù hợp để đưa các quy định pháp luật vào thực tiễn Mục tiêu là tạo sự liên kết hiệu quả giữa các chính sách bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế Các nguyên tắc này, mặc dù được phát triển đầu tiên ở các quốc gia công nghiệp, vẫn có thể mang lại lợi ích cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

Dựa trên các quy định pháp luật và tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường, nhiều Bộ, Ngành đã ban hành quy chế bảo vệ môi trường riêng Đồng thời, nhiều địa phương cũng đã thiết lập quy định liên quan đến vấn đề này, thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng của các cơ sở sản xuất đối với công tác bảo vệ môi trường.

Việc bảo vệ môi trường và đầu tư hạ tầng kỹ thuật đang được chú trọng, với nhiều phong trào quần chúng tham gia như xây dựng thói quen sống sạch sẽ, phong trào xanh - sạch - đẹp và các chiến dịch bảo vệ đa dạng sinh học Tuy nhiên, ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của các nhà sản xuất và người dân vẫn còn thấp, khi các doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào hoạt động sản xuất mà bỏ qua trách nhiệm bảo vệ môi trường Hệ thống kiểm soát môi trường tại nhiều địa phương còn lỏng lẻo, chỉ khi môi trường ô nhiễm nghiêm trọng mới có hành động ứng phó Vi phạm pháp luật môi trường đã diễn ra phổ biến, gây ô nhiễm nguồn nước, không khí và ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm, dẫn đến lo ngại về an ninh trật tự Hầu hết các doanh nghiệp chỉ bị xử phạt hành chính khi gây ô nhiễm, trong khi người dân gặp khó khăn trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, tạo ra sự bức xúc trong cộng đồng.

Bộ Tài nguyên và Môi

Nhiều địa phương đã thực hiện hiệu quả phong trào "Sử dụng và bảo quản nhà tiêu hợp vệ sinh" do Bộ Y tế phát động, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nông thôn mới Thông tin chi tiết có thể tham khảo tại cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế.

Bài viết của Trần Nguyễn Tuyên (2021) đề cập đến một số vấn đề môi trường hiện nay ở Việt Nam, nêu rõ thực trạng và các giải pháp cần thiết Tình hình ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên và biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước Để giải quyết những vấn đề này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng nhằm đưa ra các biện pháp hiệu quả và bền vững.

Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng, bao gồm ô nhiễm không khí, nước và đất Các giải pháp cần thiết để cải thiện tình hình này bao gồm việc nâng cao ý thức cộng đồng, áp dụng công nghệ xanh và thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường hiệu quả Sự hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp và người dân là rất quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững cho đất nước.

79 trường hợp, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ yếu áp dụng biện pháp xử phạt hành chính thông qua hình thức phạt tiền, cùng với các biện pháp bổ sung như thu hồi giấy phép khai thác và xả thải Doanh nghiệp cũng buộc phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu và quy định về bảo vệ môi trường Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường là cần thiết.

Giải pháp nâng cao hiệu quả tuân thủ pháp luật

Phương pháp nghiên cứu tình huống là một cách tiếp cận quan trọng trong việc phân tích các vụ việc thực tiễn, nhằm chỉ ra những bất cập trong việc thi hành pháp luật Phương pháp này không chỉ giúp đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật trong thực tiễn mà còn cung cấp những minh chứng rõ ràng cho những vấn đề cần cải thiện trong hệ thống pháp lý.

Phương pháp diễn dịch và quy nạp là công cụ quan trọng trong việc phân tích và tổng hợp các khía cạnh lý luận cũng như nội dung đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật Những phương pháp này giúp làm rõ mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, từ đó nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật.

Phương pháp phân tích và giải thích luật học đóng vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường Việc áp dụng các phương pháp này giúp xác định rõ ràng các nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc bồi thường thiệt hại, đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng Thông qua việc phân tích các quy định hiện hành, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cơ chế pháp lý và các biện pháp xử lý vi phạm liên quan đến ô nhiễm môi trường.

Luận văn này cung cấp cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường mà các doanh nghiệp khai thác than khoáng sản gây ra tại tỉnh Quảng Ninh Nội dung nghiên cứu tập trung vào việc phân tích các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường Qua đó, luận văn góp phần xây dựng khung pháp lý vững chắc cho việc xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường trong ngành khai thác than.

Bài luận văn này đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân của những bất cập trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động khai thác than khoáng sản tại tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây.

Luận văn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện hiệu quả Luật Bảo vệ Môi trường trong hoạt động khai thác than khoáng sản, nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Mục tiêu là hướng tới phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế xanh và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân tỉnh Quảng Ninh.

Bài viết này đóng vai trò là tài liệu tham khảo quan trọng trong việc tổng kết thực tiễn và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác than và khoáng sản, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực này.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương, cụ thể như sau:

Ngày đăng: 03/10/2022, 05:33

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
25. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2012), Báo cáo“Liability for environmental damage in Eastern Europe, Caucasus and Central Asia (EECCA): Implementation of good international practices” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Liability for environmental damage in Eastern Europe, Caucasus andCentral Asia (EECCA): Implementation of good international practices
Tác giả: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
Năm: 2012
32. Nguyễn Thị Huệ (2016), “Giải pháp bảo vệ môi trường trong khai thác than ở Quảng Ninh giai đoạn 2016 - 2020,” Tạp chí Môi trường, số 10, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải pháp bảo vệ môi trường trong khai thácthan ở Quảng Ninh giai đoạn 2016 - 2020
Tác giả: Nguyễn Thị Huệ
Năm: 2016
33. Nguyễn Thị Kim Ngân (2017), Luận văn thạc sĩ Luật học “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo quy định của pháp luật Việt Nam” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệmbồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo quy định của pháp luậtViệt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Kim Ngân
Năm: 2017
34. Phạm Hữu Nghị, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường” (2002), Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, tập XVIII Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môitrường
Tác giả: Phạm Hữu Nghị, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường”
Năm: 2002
35. Nguyễn Minh Oanh (2009), “Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, Đề tài Nghiên cứu Khoa học cấp Trường Đại học Luật Hà Nội) “Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực tiễn” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khái niệm chung về trách nhiệm bồithường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, Đề tài Nghiêncứu Khoa học cấp Trường Đại học Luật Hà Nội) “Trách nhiệm dân sự do tàisản gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: Nguyễn Minh Oanh
Năm: 2009
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường “Pháp luật môi trường trong kinh doanh” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật môi trường trong kinh doanh
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Năm: 2011
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên tại Việt Nam”, Hà Nội.D. Website Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môitrường gây nên tại Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Năm: 2007
49. Thanh Loan (2008), Thủ tướng chỉ đạo xử lý nghiêm vụ "Vedan "bức tử" sông Thị Vải", https://cand.com.vn/Xa-hoi/Thu-tuong-chi-dao-xu-ly-nghiem-vu-Vedan-buc-tu-song-Thi-Vai-i66846/, truy cập 5/5/2022 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vedan "bứctử" sông Thị Vải
Tác giả: Thanh Loan
Năm: 2008
50. Thanh Lịch (2020), Thông điệp từ thiên nhiên “hãy bảo vệ môi trường!”, https://moitruongvaxahoi.vn/thong-diep-tu-thien-nhien-hay-bao-ve-moi-truong-1394860380.html, truy cập 5/5/2022 Sách, tạp chí
Tiêu đề: hãy bảo vệ môi trường
Tác giả: Thanh Lịch
Năm: 2020
52. Hải Phong, Thủy Chi (2022), Hạ Long (Quảng Ninh) – Bài 1: Dân “tố” mỏ đá Hưng Thịnh hoạt động khai thác đá gây ô nhiễm môi trường, https://moitruong.net.vn/ha-long-quang-ninh-bai-1-dan-to-mo-da-hung-thinh-hoat-dong-khai-thac-da-gay-o-nhiem-moi-truong/, truy cập 5/5/2022 Sách, tạp chí
Tiêu đề: tố
Tác giả: Hải Phong, Thủy Chi
Năm: 2022
60. Alexandre Nikolaevich Chitov, “Liability for Pollution in Vedan Vietnam Case” (2017), Tạp chí Khoa học xã hội Pháp y, Đại học Chiang Mai, số 1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Liability for Pollution in VedanVietnam Case
Tác giả: Alexandre Nikolaevich Chitov, “Liability for Pollution in Vedan Vietnam Case”
Năm: 2017
64. Md. Arifuzzaman, Mohammad Abdul Hannan, Md. Redwanur Rahman, Md. Atiqur Rahman, “Laws Regulating Water Pollution in Bangladesh”(2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Laws Regulating Water Pollution in Bangladesh
42. Lê Cường (2019), Sông Diễn Vọng đe dọa vịnh Hạ Long, https://diendandoanhnghiep.vn/song-dien-vong-de-doa-vinh-ha-long- Link
43. Cường Vũ (2020), Nhà máy xử lý chất thải nguy hại của TKV gây ô nhiễm môi trường, https://nongnghiep.vn/nha-may-xu-ly-chat-thai-nguy-hai-cua-tkv-gay-o-nhiem-moi-truong-d264003.html, truy cập 1/5/2022 Link
45. Bùi Kim Hiếu (2017), Thực trạng quy định của pháp luật về chủ thể được bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra và một số kiến nghị, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-quy-dinh-cua- Link
46. Lã Nghĩa Hiếu (2021), Quảng Ninh: Xanh hóa ngành than để bảo vệ môi trường, https://thanhnien.vn/quang-ninh-xanh-hoa-nganh-than-de-bao-ve- moi-truong-post1102442.html, truy cập 10/5/2022 Link
47. Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (2020), Tiềm năng ngành khoáng sản ở Việt Nam, https://kinhtemoitruong.vn/tiem-nang-nganh-khoang-san-o-viet-nam-14743.html, truy cập 01/5/2022 Link
48. Kình (2016), Chính phủ công bố chi tiết thiệt hại do Formosa gây ra, https://tuoitre.vn/chinh-phu-cong-bo-chi-tiet-thiet-hai-do-formosa-gay-ra-1145284.htm, truy cập 5/5/2022 Link
51. Ngọc Minh (2017), 'Đua nước rút' bồi thường thiệt hại do sự cố Formosa, https://thanhnien.vn/thoi-su/dua-nuoc-rut-boi-thuong-thiet-hai-do-su-co-formosa-850650.html, truy cập 5/5/2022 Link
53. Phóng viên (2021), TKV - 7 năm thực hiện công tác BVMT, https://www.quangninh.gov.vn/pinchitiet.aspx?nid=45134, truy cập 5/5/2022 Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Một số hình ảnh thực tiễn trong công tác cải tạo phục hồi môi trường - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh
t số hình ảnh thực tiễn trong công tác cải tạo phục hồi môi trường (Trang 156)
Hình 1. TKV đã đầu tư mạnh hệ thống phun nước và xe tưới nước dập bụi các tuyến đường vận chuyển than - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh
Hình 1. TKV đã đầu tư mạnh hệ thống phun nước và xe tưới nước dập bụi các tuyến đường vận chuyển than (Trang 158)
Hình 2. Cây xanh ngày càng nhiều tại các công ty, nhà máy, phân xưởng sản xuất, tiêu thụ than. - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tại các công ty sản xuất than khoáng sản, Tỉnh Quảng Ninh
Hình 2. Cây xanh ngày càng nhiều tại các công ty, nhà máy, phân xưởng sản xuất, tiêu thụ than (Trang 159)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w