1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

110 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Cấu Trúc Sở Hữu Đến Giá Trị Doanh Nghiệp Niêm Yết Trên Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
Tác giả Ninh Thị Thương
Người hướng dẫn TS Lê Trung Thành
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 110
Dung lượng 2,72 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (10)
    • 1.1 Tính cấp thiết của đề tài (10)
    • 1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu (12)
    • 1.3 Mục tiêu nghiên cứu (15)
    • 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (17)
    • 1.4 Phương pháp nghiên cứu (17)
    • 1.5 Bố cục của đề tài (18)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU (20)
    • 2.1 Tổng quan về cấu trúc sở hữu và giá trị của doanh nghiệp (20)
    • 2.2 Khái quát về công ty cổ phần (25)
    • 2.3 Các lý thuyết nền tảng liên quan đến đề tài (31)
    • 2.4 Một số nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến giá trị doanh nghiệp (41)
    • 2.5 Tác động của cấu trúc sở hữu tới giá trị doanh nghiệp (51)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (58)
    • 3.1 Xây dựng các giả thuyết nghiên cứu (58)
    • 3.2 Lựa chọn mô hình hồi quy (62)
    • 3.3 Mô tả biến – Giải thích các biến của mô hình (64)
    • 3.4 Lựa chọn mẫu dữ liệu (68)
    • 3.5 Phương pháp hồi quy (69)
  • CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (71)
    • 4.1 Phân tích dữ liệu nghiên cứu (71)
    • 4.2 Kết quả hồi quy và giải thích (77)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ CHÍNH SÁCH HÀM Ý (86)
    • 5.1 Kết luận (86)
    • 5.2 Hàm ý chính sách (87)
    • 5.3 Hạn chế của bài nghiên cứu (90)

Nội dung

Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Tính cấp thiết của đề tài

Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu (CTSH) và giá trị doanh nghiệp (GTDN) đang thu hút sự quan tâm lớn từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài Việt Nam, thể hiện tầm quan trọng của CTSH đối với giá trị doanh nghiệp GTDN không chỉ là tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp mà còn phản ánh giá trị thực tế so với các đối thủ trong cùng ngành, giúp nhà đầu tư đánh giá quy mô thực tế của công ty Nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, chính trị, cấu trúc vốn và quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng đến GTDN, trong đó CTSH là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất, đặc biệt đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính, thể hiện qua việc huy động vốn trên thị trường sơ cấp và quy mô vốn hóa gia tăng Số lượng công ty niêm yết ngày càng tăng cùng với kết quả kinh doanh tích cực, cho thấy tính thanh khoản và quy mô của thị trường đang được cải thiện Tham gia thị trường chứng khoán giúp các công ty dễ dàng tiếp cận nguồn vốn để phát triển và tạo ra lợi nhuận Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh trở nên cấp bách, khi các chính sách hạn chế đã làm đình trệ nền kinh tế Thị trường chứng khoán không chỉ là kênh huy động vốn hiệu quả mà còn thể hiện sự minh bạch và công khai của doanh nghiệp, nâng cao uy tín và giá trị thương hiệu.

Mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp không chỉ là tối đa hoá lợi nhuận mà là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp Mặc dù lợi nhuận cao thường đi kèm với rủi ro lớn, nhưng các chủ sở hữu công ty không cho phép quản lý thực hiện những chiến lược có thể gây ra rủi ro quá mức Do đó, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp trở thành mục tiêu chính trong chiến lược tài chính, giúp phân tích và dự đoán sự phát triển tương lai của doanh nghiệp từ góc độ giá trị.

Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và bùng nổ thị trường chứng khoán gần đây đã dẫn đến sự gia tăng hoạt động niêm yết, tăng vốn điều lệ và phát hành cổ phần, cùng với sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư nước ngoài Việc gia nhập các tổ chức quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC và WTO đã thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh Một trong những xu hướng tích cực là thuê các nhà quản trị chuyên nghiệp, làm nổi bật tầm quan trọng của quản trị doanh nghiệp tại Việt Nam và sự phân tách rõ rệt giữa sở hữu cổ phần và quản trị công ty.

Cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng đáng kể đến doanh nghiệp, vì vậy nghiên cứu này là rất quan trọng Nó cung cấp hướng dẫn rõ ràng cho các nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư trước khi đưa ra quyết định Do đó, tác giả đã chọn đề tài "Tác động của cấu trúc sở hữu" để thực hiện nghiên cứu này.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng cấu trúc sở hữu (CTSH) có ảnh hưởng lớn đến hoạt động và hiệu quả của doanh nghiệp, đặc biệt trong việc tối đa hóa giá trị doanh nghiệp Nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu đối với năng suất của các doanh nghiệp công nghiệp Nga khẳng định rằng CTSH ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp (Earle, 1998) Phân tích so sánh giữa các loại chủ sở hữu tư nhân, bao gồm người trong cuộc (nhà quản lý và nhân viên) và người bên ngoài (nhà đầu tư cá nhân và tổ chức), cho thấy sự cần thiết phải xem xét các tác động lựa chọn trong quá trình tư nhân hóa Earle (1998) đã khảo sát các công ty tư nhân hóa và công ty có vốn nhà nước vào năm 1994, cho thấy mặc dù quyền sở hữu của nhân viên có ưu thế do chính sách tư nhân hóa, nhưng cơ cấu sở hữu ở Nga vẫn không đồng nhất với vai trò lớn của nhà nước và tiềm năng cho các nhà đầu tư bên ngoài Ước tính hồi quy OLS cho thấy rằng việc cá nhân nắm giữ cổ phần có ảnh hưởng tích cực đến năng suất lao động, chủ yếu nhờ vào quyền sở hữu của các nhà quản lý và quyền sở hữu của người lao động không do quản lý, trong khi những người bên ngoài chỉ có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê từ việc nắm giữ cổ phần cá nhân.

Nghiên cứu của Claessens và Djanko (1999) về tập trung quyền sở hữu và hiệu quả hoạt động của công ty tại Cộng hòa Séc cho thấy rằng sở hữu tập trung có tác động tích cực đến doanh thu và năng suất lao động Mặc dù không tìm thấy nhiều bằng chứng cho thấy mối quan hệ này bị ảnh hưởng bởi đặc điểm công ty, nhưng họ phát hiện rằng các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và quỹ phi ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến cải tiến hiệu suất Kết quả cho thấy mức độ tập trung quyền sở hữu và loại hình nhà đầu tư ảnh hưởng đến lợi nhuận và năng suất lao động Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc phân phối cổ phiếu cho nhiều cá nhân có thể làm giảm khả năng kiểm soát quyền sở hữu, đặt ra câu hỏi về hiệu quả của việc này trong môi trường hiện tại Lập luận cho việc tư nhân hóa hàng loạt là các quỹ đầu tư sẽ tập trung cổ phiếu, điều này đã được chứng minh xảy ra tại Cộng hòa Séc, cho thấy quyền sở hữu tại đây là bước chuyển tiếp từ sở hữu nhà nước đến cấu trúc sở hữu mới.

Cơ cấu cổ đông đóng vai trò quan trọng trong việc tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, vì nó ảnh hưởng đến quyền kiểm soát và cam kết của chủ sở hữu Quyền sở hữu cổ phần của nhà quản lý khuyến khích họ hành động theo lợi ích của nhà đầu tư, từ đó cải thiện hiệu suất và gia tăng giá trị doanh nghiệp Nghiên cứu thực nghiệm trên các công ty niêm yết tại Indonesia Stock Exchange (ISX) từ năm 2006 đến 2008 cho thấy quyền quyết định của Ban quản lý càng lớn, công ty càng có xu hướng nâng cao hoạt động vì lợi ích của cổ đông Kết quả cho thấy quyền sở hữu của người quản lý có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của công ty (Siallagan & Machfoedz, 2006).

Nghiên cứu của Ramli (2010) phân tích tác động của cổ đông lớn nhất đối với chính sách cổ tức tại Malaysia từ 2002 đến 2006, nơi có cấu trúc sở hữu tập trung Kết quả cho thấy cổ đông lớn nhất hoặc nhóm cổ đông nắm giữ khoảng 40% vốn góp, trong khi cổ đông lớn thứ hai cũng có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định cổ tức Các nghiên cứu trước đó chủ yếu tập trung vào các công ty ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, trong khi chỉ một số ít xem xét mối quan hệ này ở quốc gia đơn lẻ Cấu trúc sở hữu có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu xung đột lợi ích giữa cổ đông và ban lãnh đạo, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp và chính sách cổ tức.

Nghiên cứu về mối tương quan giữa VCSH, CTSH, cơ cấu vốn và GTDN tại Việt Nam đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học Một nghiên cứu nổi bật là của Trần Quốc Trung (2020), điều tra ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến việc sử dụng giám đốc độc lập trong bối cảnh TTCK mới nổi Tác giả đã áp dụng mô hình hồi quy logit và tobit để phân tích tác động của cấu trúc sở hữu đối với xu hướng và số lượng giám đốc độc lập trong ban quản lý Kết quả cho thấy quyền sở hữu nội bộ và việc sử dụng giám đốc độc lập có mối quan hệ phi tuyến tính, dựa trên mẫu 1.318 quan sát từ 192 công ty niêm yết trong giai đoạn 2008.

Nghiên cứu năm 2017 cho thấy mối quan hệ giữa quyền sở hữu nội bộ và việc bổ nhiệm giám đốc độc lập có hình chữ U, với tác động tích cực khi người trong cuộc nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu nhỏ, nhưng tiêu cực khi tỷ lệ cổ phiếu lớn Hơn nữa, sự hiện diện của cổ đông nhà nước và cổ đông nước ngoài cũng ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định bổ nhiệm giám đốc độc lập trong các công ty.

Câu hỏi nghiên cứu là cấu trúc sở hữu ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Dựa trên lý thuyết về cấu trúc sở hữu và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, tác giả nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp của 143 công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn 2010-2018 Giả thuyết được đặt ra là có mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Giả thiết H1 –Sở hữu nhà nước có tác động tích cực lên giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết tại Việt Nam

Giả thiết H2: Mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu nhà nước và giá trị doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam là đường cong có dạng chữ U ngược

Giả thiết H3: Sở hữu nước ngoài có tác động tích cực lên giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết tại Việt Nam

Tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết tại Việt Nam Nghiên cứu cho thấy rằng sự tham gia của cổ đông tổ chức không chỉ tạo ra niềm tin cho nhà đầu tư mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và quản trị doanh nghiệp Do đó, việc tăng cường tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức có thể là một yếu tố quan trọng trong việc cải thiện giá trị doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục đích của nghiên cứu này là phân tích tác động của các yếu tố đến giá trị của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhằm đưa ra các đề xuất và giải pháp cho cơ quan quản lý, nhà quản trị và cổ đông trong việc ra quyết định tài chính Nghiên cứu thực nghiệm tập trung vào ảnh hưởng của CTSH đối với giá trị của 143 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HoSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 2010-2018, với tổng cộng 1.287 quan sát, nhằm cung cấp bằng chứng cho lý thuyết Đại diện.

Tác giả đưa ra các giả thuyết về ảnh hưởng của sở hữu nhà nước đến giá trị doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, trong đó giả thuyết cho rằng sở hữu nhà nước có tác động tích cực và mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu nhà nước với giá trị doanh nghiệp là đường cong U ngược Ngoài ra, tác giả cũng giả định rằng sở hữu nước ngoài và tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức đều có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp Dựa trên các giả thuyết này, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu với biến phụ thuộc là giá trị doanh nghiệp được đo bằng chỉ tiêu Tobin’s Q, cùng với các biến độc lập là cấu trúc sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tổ chức và sở hữu nước ngoài Mô hình còn bao gồm các biến kiểm soát liên quan đến đặc trưng công ty như tỷ suất cổ tức, quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính và khả năng sinh lời.

Tác giả đã lựa chọn mẫu từ 1287 quan sát của 143 công ty niêm yết trên sàn HoSE và HNX trong giai đoạn 2010-2018 Để nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp Pooled OLS với hiệu ứng cố định theo ngành và năm, đồng thời sử dụng lệch robust trên phần mềm Stata 14 để khắc phục hiện tượng phương sai sai số thay đổi, nhằm đảm bảo tính chính xác của kết quả Dựa trên kết quả mô hình, tác giả đưa ra các kết luận và từ đó đề xuất giải pháp cho các cơ quan có thẩm quyền, nhà quản trị và cổ đông trong việc đưa ra quyết định tài chính.

Nghiên cứu này cung cấp cơ sở khoa học giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư vào cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam Tác giả hy vọng rằng nghiên cứu sẽ góp phần vào kho tàng học thuật về mối quan hệ giữa Chiến lược Tăng trưởng và Giá trị Doanh nghiệp tại Việt Nam.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu : Giá trị của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt

Nam thông qua chỉ tiêu Tobin’s Q

Về mặt không gian: Chủ đề phân tích 143 doanh nghiệp niêm yết phi tài chính trên

Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HoSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) (với 1.287 quan sát)

Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu dữ liệu trong giai đoạn 2010-2018.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu định lượng áp dụng mô hình hồi quy bội với chỉ tiêu Tobin’s Q làm biến phụ thuộc, nhằm đại diện cho giá trị doanh nghiệp Các biến độc lập bao gồm tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư tổ chức, tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng kiểm soát các đặc điểm riêng của từng công ty để phân tích tác động của các yếu tố này đến giá trị của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.

Nghiên cứu được tiến hành chủ yếu theo trình tự:

Nghiên cứu các chính sách và bài báo trên các tạp chí tài chính liên quan đến vốn chủ sở hữu (VCSH), cấu trúc vốn và giá trị doanh nghiệp, đồng thời tham khảo tài liệu từ các nhà khoa học trong và ngoài Việt Nam thông qua cơ sở dữ liệu Proquest, các tạp chí khoa học và các trang web uy tín.

Để xây dựng mô hình kinh tế lượng phù hợp cho thị trường chứng khoán (TTCK) tại Việt Nam, cần tìm hiểu các đặc thù riêng của thị trường này Tiếp theo, xác định những nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp (GTDN) và đặt ra giả thuyết nghiên cứu dựa trên những yếu tố đã được phân tích.

Đề tài nghiên cứu thu thập và xử lý dữ liệu các biến phụ thuộc, biến độc lập và biến kiểm soát Cụ thể, nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ bộ dữ liệu báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, với thông tin tài chính được lấy từ website Vietstock Ngoài ra, dữ liệu về cơ cấu tổ chức hội đồng quản trị (HĐQT) cũng được cung cấp từ Vietstock.

Phân tích tác động của các yếu tố đã xác định đến giá trị của doanh nghiệp niêm yết được thực hiện thông qua mô hình hồi quy bội và các kỹ thuật kinh tế lượng, sử dụng phần mềm Stata 14.

Bố cục của đề tài

Đề tài "Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam" được trình bày với năm phần chính, nhằm phân tích mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và giá trị doanh nghiệp Nghiên cứu sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức mà các yếu tố sở hữu ảnh hưởng đến hiệu suất tài chính và định giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu

Trong chương đầu tiên, tác giả trình bày tính cấp thiết của nghiên cứu về ảnh hưởng của VCSH và CTSH đến giá trị doanh nghiệp, dựa trên tổng quan kết quả nghiên cứu từ các tác giả trong và ngoài nước Chương này nêu rõ mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, tạo nền tảng cho cái nhìn tổng quan về đề tài.

Chương 2: Cơ sở lý thuyết

Trong chương 2, tác giả trình bày lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và giá trị doanh nghiệp Dựa trên lý thuyết này, tác giả tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đó liên quan đến ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp tại Việt Nam.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Trong chương này, tác giả trình bày các giả thuyết nghiên cứu, nguồn dữ liệu và quy trình lựa chọn mẫu Ngoài ra, tác giả cũng thảo luận về mô hình hồi quy và phương pháp hồi quy được áp dụng trong nghiên cứu Cuối cùng, tác giả mô tả và giải thích các biến phụ thuộc, biến độc lập và biến kiểm soát, cùng với kỳ vọng về dấu hiệu của các biến này trong mô hình.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu Ở chương này người viết trình bày tóm tắt dữ liệu thống kê, phân tích dữ liệu nghiên cứu của 1.287 quan sát Tiếp theo, người viết thực hiện kiểm tra đánh giá hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình, tiếp theo trình bày kết quả hồi quy của mô hình dựa trên kết quả chạy trên phần mềm Stata 14, giải thích ý nghĩa thống kê của các biến, từ kết quả đó tác giả nêu lên quan điểm riêng của mình, sau đó so sánh với các bài nghiên cứu trước Cuối cùng người viết thực hiện kiểm định khiếm khuyết mô hình bằng kiểm định VIF để kiểm tra đa cộng tuyến

Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách

Chương 5 sẽ tổng kết vấn đề nghiên cứu và thảo luận về các hàm ý chính sách nhằm tối ưu hóa hoạt động cho các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Tác giả cũng đưa ra gợi ý cho các nhà đầu tư dựa trên đặc điểm của CTSH, đồng thời đề xuất các giải pháp cho cơ quan quản lý và lãnh đạo để phát triển doanh nghiệp hiệu quả Cuối cùng, người viết chỉ ra những hạn chế trong nghiên cứu và định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo, bao gồm phạm vi và phương pháp xử lý dữ liệu.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Tổng quan về cấu trúc sở hữu và giá trị của doanh nghiệp

Cấu trúc sở hữu doanh nghiệp (CTSH) là yếu tố quan trọng trong quản trị doanh nghiệp, ảnh hưởng đến động lực của nhà quản lý và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp CTSH được xác định qua tỷ lệ nhà đầu tư có quyền biểu quyết và danh sách cổ đông, bao gồm cổ đông tổ chức, cổ đông nước ngoài và cổ đông Nhà nước Cổ đông tổ chức có ảnh hưởng tích cực đến việc giám sát và kỷ luật hoạt động của người quản lý, từ đó nâng cao chất lượng báo cáo tài chính Cổ đông nước ngoài có thể mang lại những đóng góp tiên tiến, trong khi các công ty có vốn Nhà nước thường tuân thủ quy định công bố thông tin tốt hơn Sự tập trung quyền lực trong tay các cổ đông lớn, những người nắm giữ từ 5% cổ phần trở lên, cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông thiểu số Doanh nghiệp có ít cổ đông lớn sẽ cần ít giám sát hơn và có xu hướng công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán sớm hơn.

Cổ đông nắm giữ từ 5% cổ phần trở lên có động cơ giám sát quản lý công ty, và sự hiện diện của các cổ đông lớn có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh Điều này cũng góp phần làm tăng độ tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) (Shleifer & Vishny, 1986).

CTSH được phân loại thành hai loại dựa trên chủ sở hữu: bên trong và bên ngoài doanh nghiệp Chủ sở hữu bên trong bao gồm các thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc và ban kiểm soát, trong khi chủ sở hữu bên ngoài là những cổ đông không giữ chức vụ trong công ty Những người nắm giữ vị trí bên trong thường hiểu rõ tình hình hoạt động của doanh nghiệp và có xu hướng đưa ra quyết định vì lợi ích cá nhân, trong khi chủ sở hữu bên ngoài thường gặp bất lợi do thông tin không cân xứng Do đó, các công ty cần có hệ thống CTSH phù hợp và chiến lược hoạt động hiệu quả để cân bằng lợi ích giữa các bên trong việc tiếp cận thông tin kế toán và tài chính.

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau của cơ cấu tài sản chủ sở hữu (CTSH) và hiệu quả hoạt động của công ty cho thấy kết quả không đồng nhất Cụ thể, nghiên cứu của Demsetz và Lehn (1985) chỉ ra rằng không có mối tương quan giữa tỷ lệ nắm giữ cổ phần của cổ đông lớn và hiệu quả kinh doanh Tương tự, Morck và các cộng sự (1988) cũng khẳng định rằng mức độ tập trung sở hữu không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công ty Nghiên cứu của Demsetz & Villalonga (2001) và Chang (2003) cũng không tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng của CTSH lên hiệu quả doanh nghiệp Đối với nhà đầu tư nội bộ, Bhabra (2007) cho rằng không có sự phụ thuộc tuyến tính giữa nắm giữ cổ phần của cổ đông nội bộ và giá trị doanh nghiệp, nhưng mối quan hệ phi tuyến tính cho thấy khi nắm giữ dưới 14% hoặc trên 40% sẽ làm tăng giá trị doanh nghiệp.

Nghiên cứu tại Doha, Qatar cho thấy cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Cụ thể, khi tỷ lệ sở hữu quá cao, hội đồng quản trị có xu hướng can thiệp quá nhiều vào các quyết định chiến lược, điều này có thể tác động xấu đến tình hình tài chính của doanh nghiệp (Almudehki & Zeitun, 2013) Hơn nữa, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có mối liên hệ tích cực giữa hiệu quả hoạt động và tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là trong trường hợp nắm giữ cổ phần lớn (McConnell).

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Tuấn và các cộng sự chỉ ra rằng sự tập trung nắm giữ cổ phần của các cổ đông lớn tại Singapore và Việt Nam có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp Ngược lại, nghiên cứu ở Châu Âu cho thấy mức độ nắm giữ cổ phần quá cao của nhà đầu tư chi phối có thể làm giảm giá trị doanh nghiệp Thêm vào đó, nghiên cứu của Jameson và các cộng sự tại Ấn Độ khẳng định rằng sự hiện diện của cổ đông kiểm soát trong Hội đồng Quản trị có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, và việc tăng cường nắm giữ cổ phần của tổ chức không làm giảm đi tác động này.

Việc tồn tại cổ đông kiểm soát có thể gây hại đến lợi ích của cổ đông thiểu số Nghiên cứu của Abdallah và Ismail (2017) cho thấy có mối tương quan âm giữa mức độ sở hữu tập trung và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, với cấu trúc sở hữu ảnh hưởng tích cực hơn khi mức độ sở hữu tập trung thấp Hơn nữa, các doanh nghiệp có mức độ sở hữu tập trung cao thường không duy trì được hiệu quả quản trị tốt Trong khi đó, Detthamrong (2017) không tìm thấy mối liên hệ giữa tỷ lệ sở hữu của ba cổ đông lớn nhất và hiệu quả quản lý doanh nghiệp Ngược lại, nghiên cứu của Dahlquist và Robertsson (2001) tại Thụy Điển cho thấy tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động, và Yudaeva cùng các cộng sự (2003) cũng khẳng định rằng sở hữu nước ngoài nâng cao năng suất kinh doanh tại thị trường Nga.

Giá trị doanh nghiệp (GTDN) có thể được xác định thông qua lợi ích từ cổ phần của cổ đông và tình hình hoạt động tài chính của công ty Để đánh giá GTDN, cần xem xét sự ổn định tài chính và so sánh hiệu quả hoạt động với thị trường và ngành nghề liên quan Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về hiệu quả sử dụng nguồn lực mà còn ảnh hưởng lớn đến các chính sách điều hành Nhiều nghiên cứu chiến lược thực nghiệm đã chỉ ra rằng việc đánh giá hiệu quả doanh nghiệp là cần thiết để đưa ra các giải pháp nâng cao năng suất hoạt động.

Để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, có nhiều chỉ số tài chính được sử dụng, tùy thuộc vào ngành nghề Trong lĩnh vực sản xuất, các chỉ số như vòng quay khoản phải thu, vòng quay hàng tồn kho, doanh số và ROA là những tiêu chí quan trọng Ngoài ra, các chỉ số thường gặp như ROA, ROE, GPM, EPS và chỉ số Tobin's Q cũng rất cần thiết Chỉ số Tobin's Q, thể hiện tỷ lệ giữa tổng giá trị thị trường và giá thay thế tài sản, được tính bằng giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu cộng với giá trị ghi sổ của nợ phải trả chia cho tổng tài sản Tỷ lệ này đã được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu tài chính để phân tích cơ hội đầu tư, mối quan hệ giữa quyền sở hữu của người quản lý và giá trị doanh nghiệp, cũng như để đánh giá rủi ro Các nghiên cứu như của Jose, Nichols và Stevens (1986) hay McConnell và Servaes (1990) đã sử dụng tỷ lệ Tobin's Q để tìm hiểu mối tương quan giữa hoạt động phong phú và hiệu suất công ty.

Tỷ lệ Q được xác định bằng giá trị thị trường của công ty chia cho chi phí thay thế tài sản Chi phí thay thế, hay giá trị thay thế, là số tiền công ty cần chi để thay thế một tài sản hiện có theo giá thị trường hiện tại, không tính đến thời gian mua tài sản trong quá khứ Ví dụ, nếu một tài sản được mua vào năm 2018 với giá 400 đô la và chi phí thay thế vào năm 2019 là 150 đô la, thì giá trị thay thế là 150 đô la Giá trị hiện tại của tài sản là yếu tố quan trọng trong việc đo lường chi phí thay thế Giá trị thay thế có vai trò quyết định trong việc tính toán tỷ lệ Q, không giới hạn ở một số doanh nghiệp hay ngành cụ thể Nếu tỷ lệ Q đo được là chỉ số cho các cơ hội đầu tư tương lai, tác giả kỳ vọng sẽ thấy sự hoạt động vượt trội trong hiệu suất của các công ty có tỷ lệ Q cao hơn, cho thấy sự tương quan giữa tỷ lệ Q và kết quả hoạt động trong tương lai.

Tobin's Q là chỉ số được tính bằng cách lấy giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu cộng với giá trị ghi sổ của nợ phải trả, sau đó chia cho tổng tài sản Khi tỷ lệ Tobin's Q lớn hơn 1, điều này cho thấy công ty hoặc thị trường đang bị định giá quá cao, vì giá trị thị trường vượt quá giá trị thay thế Ngược lại, nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 1, điều đó chỉ ra rằng thị trường đang bị định giá thấp hơn, do giá trị thị trường thấp hơn giá trị thay thế Công thức tính Tobin's Q được thể hiện như sau:

Khái quát về công ty cổ phần

Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp độc lập, tách biệt với chủ sở hữu, có quyền và nghĩa vụ đối với các giao dịch kinh tế và chịu trách nhiệm pháp lý toàn diện (Berk và DeMarzo, 2007) Nguồn vốn của công ty được chia thành cổ phần, do các cá nhân, tổ chức hoặc nhà nước góp vốn, gọi là cổ đông Công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong tổng giá trị tài sản và các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của mình Lợi thế của công ty cổ phần so với công ty trách nhiệm hữu hạn là khả năng phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn và không giới hạn số lượng nhà đầu tư Vốn cổ phần có thể tự do chuyển nhượng trên thị trường (Luật Doanh nghiệp, Điều 110, 2014), dẫn đến sự gia tăng số lượng công ty cổ phần Khi nhiều cổ đông tham gia góp vốn, quyền nắm giữ cổ phiếu phân tán, khiến một nhà đầu tư không thể thực hiện quyền điều hành doanh nghiệp.

2.2.2 Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp trong công ty cổ phần

Công ty cổ phần có lợi thế huy động vốn vượt trội bằng cách tăng vốn điều lệ và phát hành cổ phiếu cho tất cả các cổ đông, nhưng điều này cũng dẫn đến sự phân tán quyền sở hữu Cổ đông có thể linh hoạt chuyển nhượng quyền sở hữu thông qua việc mua bán cổ phiếu, làm cho cơ cấu sở hữu doanh nghiệp thay đổi liên tục Do đó, các công ty niêm yết cần tách biệt giữa việc điều hành và nắm giữ tài sản, yêu cầu ban giám đốc thực hiện nhiệm vụ với mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho cổ đông.

Quyền nắm giữ công ty và quyền quản trị có sự tách biệt, dẫn đến bất cân xứng thông tin giữa cổ đông và ban giám đốc, khi chủ sở hữu có ít thông tin hơn về doanh nghiệp Điều này tạo ra rủi ro cho cổ đông, vì ban giám đốc có thể hành động vì lợi ích cá nhân thay vì lợi ích của cổ đông Hơn nữa, cấu trúc sở hữu phân mảnh khiến cổ đông nhỏ lẻ gặp khó khăn trong việc kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp do chi phí và trở ngại trong giám sát Do đó, sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý đã làm gia tăng chi phí đại diện trong công ty cổ phần.

2.2.3 Vấn đề chi phí đại diện trong công ty cổ phần

Việc phân tách rõ ràng giữa quyền quản trị và quyền nắm giữ trong công ty mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt là trong các doanh nghiệp niêm yết Điều này cho phép những nhà lãnh đạo có năng lực và kinh nghiệm chuyên môn điều hành doanh nghiệp một cách hiệu quả hơn Hơn nữa, việc phân tách này tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động tối đa nguồn lực từ các cổ đông mà không yêu cầu họ phải có chuyên môn về ngành nghề hoặc hoạt động quản trị.

Việc phân định rõ ràng giữa quyền nắm giữ và quyền điều hành chỉ mang lại lợi ích khi ban giám đốc thực hiện đúng trách nhiệm của mình Khi xảy ra xung đột lợi ích giữa ban lãnh đạo và nhà đầu tư, hành vi của nhà quản trị có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh vì lợi ích cá nhân, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của công ty Điều này làm suy yếu mục tiêu tăng giá trị doanh nghiệp mà sự tách biệt này hướng tới.

2.2.4 Hệ thống quản trị doanh nghiệp

Để bảo vệ lợi ích của cổ đông trong doanh nghiệp cổ phần, cần thiết phải thiết lập cơ chế kiểm soát hiệu quả (Jensen và Meckling, 1976) Cơ chế quản trị doanh nghiệp được hình thành nhằm kiểm soát các vấn đề này, trong đó cổ đông bầu chọn hội đồng quản trị để giám sát và ủy quyền cho hội đồng này thực hiện các quyết định quan trọng Hội đồng quản trị có trách nhiệm chỉ định và bổ nhiệm giám đốc điều hành (CEO) để điều hành hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp, đồng thời chịu sự giám sát của hội đồng quản trị CEO có thể là thành viên của hội đồng quản trị hoặc không, thường là những nhà đầu tư nắm giữ cổ phần lớn Về mặt pháp lý, hội đồng quản trị là cơ quan quản lý, có quyền đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ, trừ khi thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông (Luật doanh nghiệp, 2014).

Ban Giám Đốc (BGĐ) và Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của cổ đông và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp HĐQT chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm, định hướng chiến lược dài hạn và quyết định các chính sách nhằm tối đa hóa lợi ích cho doanh nghiệp BGĐ được ủy quyền bởi cổ đông để quản lý nguồn vốn chủ sở hữu và phải báo cáo đầy đủ, kịp thời và minh bạch về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh cho cổ đông HĐQT là cơ quan ra quyết định cuối cùng cho các chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp.

Hội đồng quản trị (HĐQT) có nhiệm vụ giám sát nhà quản trị và đưa ra chính sách cho doanh nghiệp, giúp bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Với kinh nghiệm và chuyên môn, HĐQT định hướng chiến lược phát triển cho công ty HĐQT đóng vai trò trung gian giữa cổ đông và ban giám đốc (BGĐ), trong khi BGĐ trực tiếp điều hành công việc hàng ngày Tuy nhiên, lợi ích của BGĐ thường khác với lợi ích của cổ đông; BGĐ nhận lương thưởng, còn cổ đông hưởng lợi từ hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Sự gia tăng giá trị doanh nghiệp sẽ nâng cao giá trị cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ Do đó, xung đột lợi ích có thể xảy ra khi nhà quản trị chỉ chú trọng đến lợi ích ngắn hạn của bản thân, bỏ qua lợi ích dài hạn của cổ đông.

Quản trị doanh nghiệp hiệu quả khi lợi ích của ban giám đốc và nhà đầu tư đồng nhất Hội đồng quản trị cần khuyến khích quản lý tuân thủ mục tiêu chung vì lợi ích của các nhà đầu tư, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy động lực làm việc của ban giám đốc thông qua chính sách lương thưởng hợp lý.

2.2.5 Cấu trúc sở hữu trong công ty cổ phần

CTSH, hay cấu trúc sở hữu cổ phần, đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp niêm yết Theo Leech & Leahy (1991), tỷ lệ phân bổ cổ phiếu giữa các cổ đông là yếu tố quyết định trong việc xác định tác động của CTSH đến hoạt động của công ty (Demsetz).

Cấu trúc sở hữu của công ty có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau, bao gồm sở hữu nước ngoài, sở hữu nhà nước, sở hữu nội bộ, sở hữu cá nhân, sở hữu tổ chức và sở hữu gia đình Tùy thuộc vào từng loại hình sở hữu, cấu trúc này sẽ ảnh hưởng đến năng suất hoạt động của doanh nghiệp Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung vào hai khía cạnh chính của cấu trúc sở hữu, đó là sở hữu nội bộ, bao gồm cổ phần của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và Ban Giám đốc (BGĐ), cùng với sở hữu tổ chức.

Sở hữu nội bộ trong doanh nghiệp bao gồm các thành viên HĐQT và BGĐ nắm giữ cổ phần, điều này ảnh hưởng đến đại diện và hiệu quả hoạt động của công ty Nghiên cứu của Almudehki và Zeitun chỉ ra rằng mức độ tập trung quyền nắm giữ cổ phần cao có thể dẫn đến giảm hiệu quả kinh doanh, do HĐQT can thiệp quá nhiều vào quyết định của ban lãnh đạo, từ đó tác động tiêu cực đến hoạt động tài chính của công ty.

Các tổ chức nắm giữ cổ phần thông thường bao gồm các định chế tài chính, quỹ đầu tư và nhà đầu tư sáng lập Các quỹ đầu tư như Dragon Capital, Deutsche Asset Management và VinaCapital thường chỉ nắm giữ cổ phiếu mà không tham gia quản trị công ty Hoạt động mua bán, sáp nhập và sở hữu chéo giữa các công ty cũng ảnh hưởng đến sở hữu tổ chức, với ví dụ như ANA Airlines đầu tư vào Vietnam Airlines và Taisho Nhật Bản đầu tư vào Dược Hậu Giang Nhà đầu tư sáng lập thường thực hiện quyền điều hành đối với doanh nghiệp, góp phần tạo ra ảnh hưởng chi phối và kiểm soát trong quản lý doanh nghiệp.

2.2.6 Hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần

Việc đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh là yếu tố then chốt trong việc thực hiện các chiến lược phát triển của doanh nghiệp Nó phản ánh sự đồng bộ giữa mục tiêu chiến lược của ban quản trị và quá trình thực hiện Hiệu quả doanh nghiệp được xem như kết quả của một chu trình khép kín, thể hiện sự thống nhất từ các cấp quản lý đến việc phối hợp chiến lược và mục tiêu đã đề ra (Koufopoulos, 2008).

Rouf (2011) cho rằng định giá giá trị doanh nghiệp (GTDN) không chỉ dựa vào giá trị nội tại mà còn phải xem xét tỷ lệ chia cổ tức và giá cổ phiếu trên thị trường, cùng với sự ổn định tài chính Đánh giá hiệu quả hoạt động giúp doanh nghiệp tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực và ảnh hưởng lớn đến các chính sách quản trị Nhiều nghiên cứu chiến lược đã áp dụng đánh giá hiệu quả doanh nghiệp để đề xuất các giải pháp nâng cao năng suất hoạt động.

Các lý thuyết nền tảng liên quan đến đề tài

Lý thuyết đại diện, được phát triển từ nghiên cứu của Berle và Means (1932) và hoàn thiện bởi Jensen và Meckling, mô tả mối quan hệ giữa người ủy thác (chủ sở hữu) và người đại diện (quản lý) trong doanh nghiệp Lý thuyết này giải thích rằng trong một công ty có cấu trúc tài chính hỗn hợp, các nhà quản lý có thể chọn những hoạt động làm giảm tổng giá trị doanh nghiệp so với khi chủ sở hữu nắm giữ toàn bộ Điều này không phụ thuộc vào việc công ty có hoạt động độc quyền hay không Hơn nữa, sự không tối đa hóa giá trị công ty của nhà quản lý có thể vẫn tương thích với hiệu quả hoạt động Bên cạnh đó, việc phát hành cổ phiếu phổ thông trở thành một nguồn vốn khả thi mặc dù các nhà quản lý không tối ưu hóa giá trị công ty, trong khi nợ được xem là nguồn vốn ưu tiên trước khi phát sinh bất kỳ loại thuế nào so với vốn chủ sở hữu, dẫn đến việc phát hành cổ phiếu ưu đãi.

Trong hình thức tổ chức kinh doanh đơn giản nhất, quyền sở hữu và quản trị thường giống nhau khi chỉ có một chủ sở hữu Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế vào đầu thế kỷ XX đã dẫn đến sự hình thành các công ty lớn, yêu cầu nguồn tài chính lớn mà một cá nhân không thể đáp ứng Điều này đã tạo ra các doanh nghiệp đại chúng với nhiều nhà đầu tư, trong đó người quản trị không còn là chủ sở hữu duy nhất Khi người quản trị không nắm giữ cổ phần, họ trở thành đại lý của cổ đông, có nhiệm vụ tối ưu hóa lợi ích cho cổ đông Tuy nhiên, sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý có thể dẫn đến mâu thuẫn lợi ích, khi các nhà quản trị có thể hành động không vì lợi ích của nhà đầu tư Cấu trúc quyền sở hữu phân tán cao làm tăng khả năng mất kiểm soát của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Jensen và Meckling (1976) đã chỉ ra ba thành phần chi phí đại diện: chi phí giám sát, chi phí ràng buộc và mất mát phụ trội Dù khó đo lường, các biến đại diện như chi phí hoạt động, dòng tiền tự do và vòng quay tổng tài sản thường được sử dụng để đánh giá chi phí đại diện trong các nghiên cứu hiện đại.

Nguyên nhân phát sinh chi phí đại diện

Mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và nhà quản trị, như được nêu bởi Myers và Majluf (1984), phát sinh khi cổ đông muốn tối đa hóa lợi nhuận trong khi nhà quản trị tập trung vào lợi ích cá nhân Nhà quản trị thường nắm giữ thông tin nhiều hơn, dẫn đến việc họ có thể lợi dụng ưu thế này để thu lợi cho bản thân, gây hại cho cổ đông Theo Yammeesri (2003), cổ đông thiểu số thường thiếu chuyên môn và động lực để giảm thiểu khoảng cách thông tin, khiến họ trở thành người thụ hưởng miễn phí thay vì tích cực kiểm tra doanh nghiệp Vấn đề đại diện và chi phí đại lý trở nên nghiêm trọng hơn khi tổ chức có nhiều cổ đông Shleifer và Vishny (1997), cùng với Denis (2001), cho rằng giải pháp là xây dựng hợp đồng liên kết giữa chủ sở hữu và nhà quản trị, nhưng điều này gặp khó khăn do tính không chắc chắn của các kịch bản tương lai Ngay cả khi hợp đồng khả thi, chi phí thực hiện có thể vượt quá chi phí đại diện, và cổ đông có thể không nhận thức được quyết định tối ưu, dẫn đến việc họ ít có xu hướng thuê nhà quản trị chuyên nghiệp.

Việc thiết lập một hợp đồng liên kết đầy đủ cho nhà quản trị là không thực tế do chủ sở hữu thiếu thông tin để đưa ra dự đoán chính xác Do đó, các thỏa thuận thường quy định một số điều khoản nhằm đảm bảo rằng các nhà quản lý thực hiện những yêu cầu của cổ đông, trong khi quyền kiểm soát chủ yếu vẫn nằm trong tay các nhà quản trị, tạo điều kiện cho họ tự do hành động theo cách riêng của mình.

Mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và chủ nợ

Mâu thuẫn giữa các nhà đầu tư và chủ nợ thường xảy ra khi doanh nghiệp sử dụng vốn nợ để tối ưu hóa cấu trúc vốn Quan hệ đại lý tồn tại khi ban lãnh đạo đại diện cho chủ sở hữu hoặc cổ đông, nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi lợi ích cá nhân, dẫn đến ưu tiên lợi ích của họ hơn lợi ích công ty Ngược lại, lợi ích của chủ nợ là đảm bảo việc cung cấp tín dụng và nhận lại tiền gốc cùng lãi suất đúng hạn Để bảo vệ quyền lợi của mình, chủ nợ luôn quan tâm đến tình hình kinh doanh của công ty và thực hiện kiểm tra các hoạt động tài chính Nếu phát hiện bất kỳ vấn đề nào, họ sẽ chủ động giải quyết để đảm bảo quyền lợi của mình.

Các chủ nợ yêu cầu một phần nguồn thu nhập và tài sản của công ty trong trường hợp phá sản, trong khi cổ đông kiểm soát quyết định qua quản lý ảnh hưởng đến lợi ích và rủi ro doanh nghiệp Chủ nợ cho vay với tỷ lệ dựa trên mức độ rủi ro của tài sản hiện tại, kỳ vọng về rủi ro tài sản tương lai, cấu trúc vốn hiện tại và kỳ vọng về quyết định cấu trúc vốn sau này Những yếu tố này quyết định rủi ro dòng tiền và nợ doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ hoàn vốn yêu cầu Nếu cổ đông yêu cầu dự án mới có rủi ro cao hơn, rủi ro gia tăng sẽ làm tỷ suất sinh lợi yêu cầu trên nợ tăng, dẫn đến giá trị nợ giảm Nếu dự án thành công, lợi ích thuộc về cổ đông, trong khi nếu thất bại, trái chủ sẽ phải chia sẻ khoản lỗ.

Việc thiếu bằng chứng trực tiếp về xung đột giữa cổ đông và chủ nợ chủ yếu do khó khăn trong việc đo lường thực nghiệm Hầu hết tài liệu hiện có dựa vào phản ứng giá cổ phiếu và trái phiếu để suy ra xung đột này Các quyết định về cơ cấu vốn thường diễn ra đồng thời với các quyết định đầu tư và thanh toán, khiến việc chỉ dựa vào sự thay đổi đòn bẩy không đủ để xác định mối quan hệ nhân quả Những người nắm giữ cả vốn chủ sở hữu và quyền đòi nợ có thể giảm xung đột tín dụng-cổ đông Tác giả cũng đo lường xung đột này thông qua những người sở hữu kép và cố gắng cô lập các biến thể ngoại sinh bằng cách khai thác sự hợp nhất giữa nhà đầu tư và chủ nợ Cổ đông có thể trả cổ tức quá mức, tối đa hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư khi hợp đồng nợ được thực hiện Trong trạng thái cân bằng, các công ty có xu hướng trả nhiều hơn cho doanh nghiệp tốt nhất khi có xung đột Khi cổ đông và chủ nợ hợp nhất, mâu thuẫn lợi ích giữa họ giảm, dẫn đến việc sáp nhập thúc đẩy khoản thanh toán về mức tốt nhất.

2.3.2 Lý thuyết thông tin bất cân xứng

Lý thuyết thông tin bất cân xứng, được giới thiệu bởi George Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz vào năm 1970, xảy ra khi một bên nắm giữ thông tin mà bên kia không biết Nghiên cứu của Cleary chỉ ra rằng thông tin bất cân xứng trên thị trường xuất phát từ việc các nhà tài trợ vốn bên ngoài đánh giá dự án dựa trên chất lượng và rủi ro, dẫn đến chi phí nguồn vốn bên ngoài cao hơn chi phí nguồn vốn nội bộ Trong doanh nghiệp, nhà quản lý, được thuê làm đại diện, thường nắm rõ tình hình doanh nghiệp hơn các cổ đông, gây ra sự chênh lệch về thông tin giữa hai bên Hậu quả là bên thiếu thông tin dễ đưa ra quyết định kém chính xác và không phù hợp.

Bất cân xứng thông tin có ba đặc điểm chính: Thứ nhất, sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch Thứ hai, tồn tại nhiều rào cản trong việc truyền đạt thông tin giữa các bên Cuối cùng, một bên sẽ nắm giữ thông tin chính xác hơn so với bên còn lại.

Thông tin bất cân xứng là nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của thị trường, gây ra hai hệ quả quan trọng: “sự lựa chọn đối nghịch” và “rủi ro đạo đức” Trong bối cảnh sự lựa chọn đối nghịch, các bên tham gia thị trường sẽ có cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau dựa trên lượng thông tin mà họ nắm giữ Chẳng hạn, trong một giao dịch mua bán, người bán thường hiểu rõ sản phẩm của mình và có xu hướng che giấu những khuyết điểm, điều này khiến người mua không thể đưa ra quyết định chính xác Hệ quả là người bán mất động lực cung cấp hàng hóa chất lượng cao, dẫn đến việc sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng hơn Kết quả cuối cùng là bên kém thông tin chấp nhận giao dịch nhưng lại nhận được sản phẩm không đạt kỳ vọng, từ đó mất niềm tin vào các sản phẩm chất lượng tốt khác trên thị trường.

Trong câu chuyện “The market for lemons” của George (1970), thị trường xe hơi được ví như những quả chanh (xe cũ) và quả đào (xe mới) Trong một thị trường thông tin hoàn hảo, người mua sẵn sàng chi trả 1000 USD cho xe mới và 500 USD cho xe cũ Tuy nhiên, khi thông tin không đối xứng, người mua không thể phân biệt giữa chanh và đào, dẫn đến việc họ chỉ chấp nhận mức giá trung bình 750 USD cho mọi chiếc xe Giá này thấp hơn giá trị thực của xe đào, khiến người bán đào không muốn giao dịch, trong khi người bán chanh cũng từ chối vì sợ bị nghi ngờ Kết quả là không có xe đào nào được bán, dẫn đến việc người bán đào rút lui khỏi thị trường, chỉ còn lại những chiếc xe kém chất lượng Hiện tượng này gây ra sự lựa chọn đối kháng, khiến người mua mất niềm tin và không muốn tham gia vào thị trường, dẫn đến thất bại trong phân bổ nguồn lực.

Rủi ro đạo đức là một vấn đề quan trọng phát sinh từ sự bất cân xứng thông tin, xảy ra khi bên có ưu thế thông tin hành động vì lợi ích cá nhân mà không quan tâm đến hậu quả đối với bên kém ưu thế hơn Khác với sự lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức xuất hiện sau giao dịch, khi các cá nhân hoặc tổ chức không còn động cơ sử dụng thông tin một cách hợp lý Một ví dụ điển hình là vấn đề đại diện trong mối quan hệ đại diện - ủy thác, đặc biệt trong các công ty cổ phần, nơi các cổ đông (bên ủy thác) ủy quyền cho ban giám đốc (BGĐ) quản lý doanh nghiệp Do BGĐ nắm giữ thông tin đầy đủ và nhanh chóng hơn, họ có thể hành động vì lợi ích cá nhân, dẫn đến vi phạm hợp đồng và ra quyết định rủi ro mà các nhà đầu tư không thể can thiệp kịp thời.

Việc cân nhắc giữa cơ chế tài chính doanh nghiệp và vấn đề đại diện - ủy thác là cần thiết để bảo vệ lợi ích của các bên liên quan.

2.3.3 lý thuyết lựa chọn công cộng

Lý thuyết lựa chọn công là một lĩnh vực nghiên cứu kết hợp giữa luật công, kinh tế học và khoa học chính trị, đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả và thẩm phán sau khi James Buchanan nhận giải Nobel Kinh tế năm 1986 Lý thuyết này áp dụng các phương pháp kinh tế để phân tích các quyết định chính trị thường nằm ngoài thị trường, thách thức giả định truyền thống về pháp lý Các nhà lý thuyết cho rằng luật pháp được hình thành bởi các nhà lập pháp với lợi ích công cộng, nhưng lý thuyết lựa chọn công lại chỉ ra rằng các nhà lập pháp có thể hành động vì lợi ích cá nhân, dẫn đến sự hình thành của "lý thuyết nhóm lợi ích," nơi cơ quan lập pháp trở thành sân chơi cho các lợi ích đặc biệt trong quá trình hoạch định chính sách công.

Một nhánh thứ hai của lý thuyết lựa chọn công khai, dựa trên định lý của Kenneth Arrow, xem quy trình lập pháp như một máy đánh bạc với kết quả không thể đoán trước Nhánh này nhấn mạnh tính tùy tiện của quy tắc đa số, cho rằng kết quả của nó bị ảnh hưởng bởi chương trình nghị sự lập pháp Mặc dù nhấn mạnh vai trò của nhóm lợi ích, cả hai nhánh lý thuyết cho thấy "ý dân" không có nhiều ý nghĩa trong hoạch định chính sách công Các nhà lý thuyết lựa chọn công khai cho rằng chủ nghĩa cộng hòa công dân mô tả sai thực tế, và các nhà lập pháp chỉ là "những người đi đòi tiền thuê" tư lợi Bài học kinh tế học về nền dân chủ tạo ra một bức tranh ảm đạm về chính sách cộng đồng Tuy nhiên, cần lưu ý rằng lý thuyết lựa chọn công khai chỉ mang tính mô tả và không phản ánh rằng chính sách công chỉ là kết quả của tư lợi; mà thực tế, các chính trị gia có thể hiểu và mô tả thực tế một cách chính xác hơn.

Một số nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến giá trị doanh nghiệp

mối quan hệ giữa nắm giữ cổ phần của thành viên HĐQT và đội ngũ ban lãnh đạo và

Nghiên cứu GTDN được thực hiện thông qua phân tích dữ liệu từ 126 công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2006 – 2009 Kết quả cho thấy có sự tương quan phi tuyến tính giữa tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các thành viên Hội đồng quản trị và giá trị gia tăng doanh nghiệp.

Nghiên cứu chỉ ra rằng khi thành viên HĐQT sở hữu cổ phần cao, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tăng trưởng Cụ thể, ngưỡng tối ưu là 59,1%, với 51,9% cổ phần mang lại ảnh hưởng tích cực nhất đến hiệu quả kinh doanh Điều này cho thấy các thành viên HĐQT sẽ nỗ lực hơn khi họ có cơ hội nhận được lợi ích lớn hơn trong tương lai Tuy nhiên, khi tỷ lệ sở hữu cổ phần vượt quá 59,1%, doanh nghiệp có thể gặp bất lợi, vì lúc này các nhà quản lý có xu hướng tập trung vào lợi ích cá nhân thay vì lợi ích chung của nhà đầu tư Họ có thể sẵn sàng hy sinh quyền lợi tập thể vì lợi ích cá nhân trong tương lai (Tri & Hung, 2011).

Sau khi tiến hành lọc dữ liệu theo tiêu chí chọn mẫu và loại bỏ các mẫu thiếu dữ liệu cũng như outlier, tổng số mẫu thu thập được là 295 quan sát từ 126 doanh nghiệp Do thời gian niêm yết của mỗi doanh nghiệp khác nhau, chủ yếu tập trung từ cuối năm 2007 đến 2009, số lượng mẫu quan sát đã tăng dần qua các năm, cụ thể: năm 2007 có 63 doanh nghiệp, năm 2008 có 98 doanh nghiệp, năm 2009 có 13 doanh nghiệp và đến năm 2016 có tổng cộng 13 doanh nghiệp.

Theo thuyết “Đồng lợi ích”, nhà quản lý sẽ nỗ lực tối đa hóa giá trị công ty khi có mức nắm giữ cổ phần cao, nhưng nếu mức nắm giữ quá cao có thể dẫn đến sự chủ quan và giảm hiệu quả hoạt động Mô hình hồi quy tuyến tính bậc 2 được sử dụng để phân tích tác động của tỷ lệ quản trị nắm giữ cổ phần đến hiệu quả hoạt động Giả thuyết cho rằng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư tổ chức (INST) có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động, đặc biệt là ở các công ty nhà nước với quy mô lớn và hệ thống phân phối rộng rãi Đồng thời, giả thuyết về sự ảnh hưởng của nhà nước nắm giữ cổ phần (GOV) cũng được đưa ra, cho rằng doanh nghiệp lớn có xu hướng đa dạng hóa đầu tư để giảm thiểu rủi ro, mặc dù lợi nhuận có thể không cao Ngoài ra, quy mô doanh nghiệp (SIZE) và tỷ lệ nợ (LEV) cũng được xem xét, với giả thuyết rằng trong thời kỳ suy thoái, tỷ lệ nợ cao sẽ làm giảm lợi nhuận và hiệu quả hoạt động, trong khi trong thời kỳ tăng trưởng, tỷ lệ nợ cao có thể thúc đẩy lợi nhuận và hiệu quả hoạt động.

Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy hệ số trước biến INST không có ý nghĩa thống kê, chứng tỏ rằng mức độ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư tổ chức không ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Điều này cho thấy các tổ chức chỉ đóng vai trò như nhà đầu tư bình thường hoặc thành viên HĐQT, không tác động đến hoạch định kinh doanh Hệ số trước biến GOV cũng không có ý nghĩa thống kê, khẳng định tỷ lệ sở hữu của nhà nước không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Kết quả nghiên cứu cho thấy dấu của biến quy mô doanh nghiệp (SIZE) đều dương và có ý nghĩa thống kê cao, cho thấy công ty lớn với thương hiệu nổi bật có giá trị doanh nghiệp cao hơn Cuối cùng, hệ số trước biến LEV âm và có ý nghĩa thống kê, phù hợp với giả thuyết rằng tỷ lệ nợ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.

Nghiên cứu của Võ Xuân Vinh (2014) điều tra mối quan hệ giữa tỷ lệ nắm giữ cổ phần của cổ đông nước ngoài và hiệu quả hoạt động của công ty tại Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ các công ty niêm yết trên sàn HOSE trong giai đoạn 2007-2012 Kết quả cho thấy có mối liên hệ đáng kể giữa mức độ sở hữu cổ phần của nước ngoài và hiệu suất công ty, với tỷ lệ nắm giữ từ 5% đến 20% có ảnh hưởng tích cực Ngược lại, khi tỷ lệ nắm giữ vượt quá 20%, mối quan hệ trở nên tiêu cực, đặc biệt khi tỷ lệ này vượt quá 40% Không có sự liên kết đáng kể nào được ghi nhận khi tỷ lệ sở hữu của nước ngoài dưới 5%.

Trong những năm gần đây, số lượng cổ đông nước ngoài tại các công ty Việt Nam đã tăng đáng kể, mặc dù các nhà đầu tư trong nước vẫn chiếm ưu thế và các vị trí quản lý chủ yếu do người Việt Nam đảm nhiệm Các nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là cổ đông tổ chức, đang dần tạo ra ảnh hưởng lớn hơn đối với giá trị của các công ty thông qua việc cung cấp nguồn tài chính ổn định, công nghệ tiên tiến, và chuyên môn quản lý Sự gia tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài đã dẫn đến những cải thiện trong công bố thông tin, chuẩn mực kế toán và kiểm toán, cũng như việc sử dụng các kiểm toán viên chất lượng cao hơn, đồng thời khuyến khích sự liên kết và giám sát hiệu quả hơn Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng điều này có thể dẫn đến những kết quả tiêu cực do thời gian đầu tư ngắn hạn và chi phí giám sát tăng cao.

Theo Luật Chứng khoán Việt Nam, cổ đông lớn được định nghĩa là cá nhân hoặc tổ chức nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% số cổ phần có quyền biểu quyết của công ty phát hành Điều này được quy định rõ trong Luật Doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, để trở thành thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT), cổ đông phải sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông HĐQT và Ban Giám đốc (BGĐ) là cơ quan quản lý của công ty, có quyền quyết định và thực hiện các nghĩa vụ nhân danh doanh nghiệp Cổ đông sở hữu từ 20% cổ phần trở lên được xác định là cổ đông sáng lập, có quyền tham gia vào việc xây dựng và ký kết Điều lệ đầu tiên của doanh nghiệp, từ đó có ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu suất công ty Luật Doanh nghiệp Việt Nam quy định rằng cổ đông sở hữu từ 40% đến 50% tổng số cổ phần có quyền bầu tối đa 3 thành viên HĐQT và ủy ban kiểm soát HĐQT phải có ít nhất 3 và không quá 11 thành viên, với yêu cầu có ít nhất 3/4 tổng số thành viên tham dự cuộc họp Cổ đông sở hữu từ 40% cổ phần trở lên có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định và hoạt động của công ty.

Kết quả hồi quy cho thấy quyền sở hữu và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp có sự tương thích tích cực, nhưng mối quan hệ này thay đổi theo mức độ sở hữu nước ngoài Không có bằng chứng rõ ràng về sự liên quan giữa sở hữu nước ngoài và hiệu suất doanh nghiệp khi tỷ lệ sở hữu dưới 5% Cổ đông nước ngoài có tác động tích cực đến Tobin’s Q khi sở hữu từ 5% đến 20%, nhưng khi mức nắm giữ cổ phần nước ngoài tăng lên (20%-40% và đặc biệt trên 40%), lợi nhuận của công ty lại giảm Nguyên nhân có thể là do sự đa dạng trong sở hữu dẫn đến xung đột lợi ích, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Trần Quốc Trung (2020) tập trung vào ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến việc sử dụng các giám đốc độc lập tại thị trường chứng khoán Việt Nam, một thị trường mới nổi Mặc dù nhiều tài liệu đã chỉ ra rằng giám đốc độc lập có thể giúp giảm chi phí đại diện vốn chủ sở hữu trong các quyết định tài chính và cải thiện hiệu quả hoạt động, nhưng vẫn còn ít nghiên cứu xem xét các quyết định của công ty liên quan đến việc sử dụng các giám đốc độc lập Bài báo này làm rõ mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và việc áp dụng các giám đốc độc lập trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nghiên cứu dựa trên 1.318 quan sát từ 192 doanh nghiệp trong giai đoạn 2008-2017 cho thấy mối quan hệ hình chữ U giữa quyền sở hữu nội bộ và việc bổ nhiệm giám đốc độc lập, với tác động tích cực khi tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ của người trong cuộc thấp và tiêu cực khi tỷ lệ này cao Cổ đông nhà nước và cổ đông nước ngoài cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định bổ nhiệm giám đốc độc lập Điều này nhấn mạnh rằng cổ đông thiểu số cần hành động để giảm chi phí đại diện và bảo vệ lợi ích của mình Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách nên cải thiện hiệu quả pháp luật quản trị doanh nghiệp để tăng cường sự hiện diện của giám đốc độc lập, đồng thời chính phủ cần gia tăng số lượng giám đốc độc lập trong các doanh nghiệp nhà nước để nâng cao quản trị Cổ đông nước ngoài có thể thay thế cho giám đốc độc lập, giúp các công ty không có giám đốc độc lập cải thiện quản trị thông qua việc thu hút đầu tư nước ngoài Các nghiên cứu tương lai có thể mở rộng lĩnh vực này bằng cách xem xét sự hiện diện của giám đốc độc lập trong hội đồng quản trị từ góc độ cung cấp.

Nghiên cứu của Xu & Wang (1999) điều tra ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến hoạt động của các công ty niêm yết tại Trung Quốc trong quản trị doanh nghiệp Doanh nghiệp Trung Quốc thường có cơ cấu sở hữu hỗn hợp với ba nhóm cổ đông chính: nhà nước, pháp nhân và cá nhân, mỗi nhóm nắm giữ khoảng 30% cổ phần Quyền sở hữu tập trung cao, với năm cổ đông lớn nhất chiếm 58% tổng số cổ phiếu vào năm 1995 Phân tích thực nghiệm cho thấy sự pha trộn và tập trung quyền nắm giữ cổ phần ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất kinh doanh Cụ thể, có mối liên hệ tích cực giữa tập trung cổ phần và khả năng sinh lợi cao, trong khi hiệu quả hoạt động có tương quan thuận với tỷ lệ cổ phiếu của pháp nhân nhưng nghịch với tỷ lệ cổ phiếu nhà nước Hơn nữa, năng suất lao động giảm khi tỷ trọng cổ phần của nhà nước tăng Kết quả này nhấn mạnh vai trò quan trọng của các nhà đầu tư tổ chức lớn trong điều hành doanh nghiệp và chỉ ra sự kém hiệu quả của sở hữu nhà nước cũng như những vấn đề trong cơ cấu sở hữu phân tán.

Nghiên cứu của Rami & Almudehki (2012) đã phân tích ảnh hưởng của các khía cạnh khác nhau của cấu trúc sở hữu công ty (CTSH) tại 29 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Qatar trong giai đoạn 2006-2011 Mặc dù Qatar là quốc gia nhỏ nhất về dân số và quy mô đất đai trong khu vực Vịnh, nhưng lại sở hữu 1,9% và 13,5% lượng dầu và trữ lượng khí đốt toàn cầu Tốc độ tăng trưởng GDP của các khu vực phi dầu mỏ ở Qatar đã đạt 19,4% vào năm 2011, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ Cấu trúc sở hữu tại Qatar bao gồm quyền sở hữu của hội đồng quản trị, cổ đông chính phủ, sở hữu nước ngoài và sở hữu thể chế Nghiên cứu đã sử dụng ba thước đo để đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty: Tobin’s Q, ROA và ROE, cùng với hai mô hình hồi quy để kiểm tra tác động của CTSH đến kết quả hoạt động doanh nghiệp Kết quả cho thấy rằng tập trung sở hữu, quyền sở hữu hội đồng quản trị và sở hữu nước ngoài có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu này xác nhận rằng quyền cổ đông tập trung, cổ đông HĐQT và cổ đông nước ngoài có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, với ROA và ROE là những chỉ số quan trọng Sở hữu tập trung thể hiện mối quan hệ tích cực với ROA, ROE và Tobin’s Q ở mức ý nghĩa 1%, trong khi cổ đông nước ngoài có mối liên hệ tích cực với Tobin’s Q ở mức 10% Ngược lại, có sự tương quan trái chiều giữa thể chế quyền cổ đông và hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như mối quan hệ tiêu cực giữa quyền cổ đông thể chế và Tobin’s Q Quy mô HĐQT có ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả hoạt động, nhưng cấu trúc lãnh đạo HĐQT không cho thấy sự liên kết đáng kể nào Ngoài ra, quy mô doanh nghiệp có mối quan hệ trái chiều với Tobin’s Q, trong khi tuổi công ty và cấu trúc hội đồng quản trị lại có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động.

Tác động của cấu trúc sở hữu tới giá trị doanh nghiệp

2.5.1 Tác động của tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tới giá trị doanh nghiệp:

Dưới chế độ quản lý của nhà nước, nền kinh tế Việt Nam được định hướng theo mô hình thị trường xã hội chủ nghĩa, với nhiều công ty chủ chốt trong các ngành chiến lược có tỷ lệ cổ đông nhà nước cao Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động kém hiệu quả hơn so với các công ty tư nhân Nguyên nhân chủ yếu là do sự hạn chế cổ phần dành cho nhà đầu tư bên ngoài và các chính sách trợ cấp tài chính từ chính phủ trong những tình huống khó khăn, khiến các nhà quản lý ít chịu áp lực và không chú trọng đến việc điều chỉnh lợi nhuận.

Các công ty có tỷ lệ sở hữu của Nhà nước cao thường ưu tiên các vấn đề xã hội và chính trị thay vì chỉ tập trung vào việc tối đa hóa giá trị doanh nghiệp Nhiều doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước vẫn gặp phải các vấn đề như tham nhũng và biển thủ tài sản Nghiên cứu của Chen và cộng sự (2006) chỉ ra rằng mối liên hệ giữa cổ đông Nhà nước và hành vi thao túng lợi nhuận là tỷ lệ thuận; tức là, cổ phần của cổ đông Nhà nước càng cao, khả năng thao túng lợi nhuận càng lớn Mục tiêu chính của nhiều doanh nghiệp này thường là chính trị - xã hội, dẫn đến việc cổ đông không có động lực kiểm tra thông tin tài chính, tạo điều kiện cho ban giám đốc thực hiện các hành vi gian lận hoặc che giấu thông tin có lợi cho bản thân.

Ảnh hưởng của nhà nước đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế toàn cầu vẫn tồn tại và tích cực, khi các quốc gia trở thành chủ sở hữu chi phối nhiều doanh nghiệp trên thế giới Các công ty ngày càng thiết lập mối quan hệ chính trị để tiếp cận nguồn lực và nâng cao vị thế cạnh tranh Theo quan điểm của Shleifer và Vishny (1994), nhà nước sử dụng quyền cổ đông để tác động đến chính sách hoạt động của công ty, dẫn đến việc các nhà quản trị doanh nghiệp có vốn nhà nước thường ưu tiên mục tiêu kinh tế - xã hội hơn là tối ưu hóa giá trị công ty Sự tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội được xem là nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm giá trị của doanh nghiệp.

Nhà nước ưu tiên sử dụng các công cụ chính sách nhằm tối ưu hóa phúc lợi xã hội, thay vì chỉ tập trung vào việc gia tăng doanh thu cho doanh nghiệp.

Trong đại dịch Covid-19, chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ nhằm giúp đỡ người dân và doanh nghiệp khắc phục khó khăn Cụ thể, các gói hỗ trợ tiền mặt đã được giải ngân cho những người gặp khó khăn, trong khi doanh nghiệp được hưởng các giải pháp tín dụng như gia hạn nợ, miễn giảm lãi suất và phí Ngoài ra, chính phủ còn hỗ trợ tổ chức sản xuất và kinh doanh bằng cách giảm chi phí, gia hạn thời gian nộp thuế, giảm tiền điện và giải ngân gói 30.000 tỷ đồng từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp để kịp thời hỗ trợ người lao động.

Nhà nước có thể hạn chế hoạt động có lợi cho doanh nghiệp thông qua chính sách thuế nếu các chính sách này không mang lại phúc lợi cho xã hội Đại dịch Covid-19 đã chứng minh tác động của chính sách thuế đến giá trị xã hội Việc giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% trong năm 2022 là cần thiết, giúp doanh nghiệp tiết kiệm 2% chi phí thuế khi mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào Điều này cho phép doanh nghiệp tái đầu tư sản xuất, thúc đẩy hoạt động kinh doanh một cách mạnh mẽ và hiệu quả.

Các doanh nghiệp nhà nước thường chịu áp lực từ các tổ chức công đoàn, điều này có thể dẫn đến những quyết định không tối ưu cho hiệu quả kinh doanh Công đoàn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, đồng thời hợp tác với chính quyền để tạo ra môi trường làm việc tích cực Họ là cầu nối giữa nhân viên và công ty, giúp đảm bảo lợi ích cho cả hai bên Mặc dù doanh nghiệp mong muốn tối đa hóa lợi nhuận và duy trì hoạt động sản xuất liên tục, nhưng vẫn cần tuân thủ các quy định về giờ làm việc, chẳng hạn như giới hạn tăng ca không quá 40 giờ mỗi tháng và 200 giờ mỗi năm, nhằm tránh tình trạng bóc lột sức lao động.

Nguyên nhân cuối cùng dẫn đến tham nhũng trong sở hữu nhà nước là việc lạm dụng quyền hạn của những người có chức vụ, điển hình là vụ việc của Tổng Công ty Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) Sabeco được giao lô đất 2-4-6 Hai Bà Trưng, Quận 1, Tp.HCM với diện tích hơn 6.000 mét vuông để sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp Sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất, Sabeco đã cấu kết với nguyên Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng và các đồng phạm để góp vốn bằng quyền sử dụng lô đất này, thành lập liên doanh Sabeco Pearl nhằm thực hiện dự án xây dựng khách sạn sáu sao và trung tâm thương mại Hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn dẫn đến thất thoát hàng ngàn tỷ đồng của nhà nước, khi nguyên Bộ trưởng cùng đồng phạm cố tình tạo kẽ hở cho Sabeco chuyển quyền sở hữu từ nhà nước sang tư nhân đối với lô đất vàng.

Nghiên cứu của tác giả người Trung Quốc đã chỉ ra mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và giá trị doanh nghiệp thông qua mẫu 5.284 công ty nhà nước được tư nhân hóa tại Trung Quốc từ năm 1991-2001 Kết quả cho thấy cổ đông nước ngoài trong các công ty này có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị doanh nghiệp Hơn nữa, tỷ lệ sở hữu nhà nước tác động đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào môi trường quốc gia cụ thể (Wei, Zuobao, Xie, & Shaorong, 2005).

2.5.2 Tác động của tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới giá trị doanh nghiệp:

Cổ đông nước ngoài, bao gồm các cá nhân và tổ chức nước ngoài, có ảnh hưởng lớn đến thị trường các nền kinh tế đang phát triển và nền kinh tế mới nổi Sở hữu nước ngoài mang lại nhiều tác động tích cực như chuyển giao công nghệ, cải thiện quản trị, cung cấp vốn bổ sung cho nền kinh tế trong nước, và tăng cường kết nối với thị trường khu vực và quốc tế Tuy nhiên, cũng tồn tại những tác động tiêu cực như chuyển giao công nghệ cũ, ô nhiễm môi trường, sự phụ thuộc vào nhà đầu tư nước ngoài và các vấn đề văn hóa chính trị Tác động của nguồn tài chính từ nước ngoài đến nền kinh tế nhận đầu tư phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý của quốc gia đó.

Việc xác định tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện thông qua phần trăm cổ phần có quyền biểu quyết mà các cổ đông nước ngoài sở hữu so với tổng số cổ phần.

Tỷ lệ sở hữu nước ngoài của doanh nghiệp tại Việt Nam phụ thuộc vào quy định pháp luật hiện hành về cổ đông lớn Theo Khoản 18 Điều 4 Luật chứng khoán 2019, cổ đông lớn được xác định là những cổ đông sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết Do đó, các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao là những doanh nghiệp có cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vượt quá 5%, trong khi nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp là những doanh nghiệp có cổ đông nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài ở mức 5% hoặc thấp hơn.

Nghiên cứu cho thấy nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần có thể thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhờ vào việc mang lại công nghệ quản lý tiên tiến và tăng cường tính minh bạch Oxelheim nhấn mạnh vai trò quan trọng của các cổ đông nước ngoài, đặc biệt là những người thuộc ban điều hành, trong việc nâng cao yêu cầu về chuẩn mực quốc tế Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác chỉ ra rằng tỷ lệ cổ đông nước ngoài cao có thể dẫn đến hiệu quả hoạt động kém hơn, với sự phụ thuộc vào nước ngoài làm giảm tính độc lập của doanh nghiệp Hơn nữa, các cổ đông nước ngoài đôi khi sử dụng thiết bị lạc hậu, gây thiệt hại cho doanh nghiệp (Khasawneh, 2017).

2.5.3 Tác động của tỷ lệ sở hữu của cổ đông tổ chức tới giá trị doanh nghiệp:

Cổ đông tổ chức đầu tiên có thể kể đến là các công ty đầu tư, đóng vai trò trung gian giữa huy động và sử dụng vốn, góp phần quan trọng vào hoạt động đầu tư trong nền kinh tế Tiếp theo là các công ty bảo hiểm, cung cấp dịch vụ bảo vệ tài sản và sức khỏe cho khách hàng thông qua việc huy động vốn từ nhiều người để bồi thường cho những rủi ro Các công ty bảo hiểm cũng đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi vào doanh nghiệp và thị trường chứng khoán Thứ ba, quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội thu phí định kỳ từ người tham gia để đảm bảo lương hưu và trợ cấp khi về hưu hoặc mất sức lao động Cuối cùng, các công ty tài chính, khi đã phát triển mạnh mẽ, thường thành lập công ty tài chính riêng để huy động vốn và cho vay, từ đó tối đa hóa lợi nhuận và cung cấp nguồn tài chính dồi dào cho thị trường chứng khoán.

Nhà đầu tư tổ chức, bao gồm các doanh nghiệp và đơn vị đầu tư, có mục tiêu chính là thu lợi từ các khoản đầu tư vào doanh nghiệp Cổ đông tổ chức, là nhóm nhà đầu tư hoặc tổ chức đầu tư, thường được nhắc đến trong các nghiên cứu về tác động của cơ cấu tổ chức và quản trị doanh nghiệp lên giá trị doanh nghiệp Các công ty có cổ đông tổ chức thường hoạt động hiệu quả hơn so với những doanh nghiệp không có sự tham gia của nhà đầu tư tổ chức Vai trò của cổ đông tổ chức là tích cực trong việc giám sát và theo dõi hoạt động của ban giám đốc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 21/09/2022, 15:58

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.4: Dấu kỳ vọng của các biến trong mô hình - Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Bảng 3.4 Dấu kỳ vọng của các biến trong mô hình (Trang 67)
Bảng 4.1. Bảng thống kê mô tả các biến trong bài nghiên cứu: - Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Bảng 4.1. Bảng thống kê mô tả các biến trong bài nghiên cứu: (Trang 71)
Bảng 4.2: Ma trận tương quan giữa các biến - Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Bảng 4.2 Ma trận tương quan giữa các biến (Trang 74)
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy và mô hình - Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Bảng 4.4 Kết quả hồi quy và mô hình (Trang 77)
Bảng 4.5 kiểm định Robust - Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Bảng 4.5 kiểm định Robust (Trang 80)
Hình 4.1: Mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu nhà nước và giá trị doanh nghiệp - Tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Hình 4.1 Mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu nhà nước và giá trị doanh nghiệp (Trang 81)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w