TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu bảo tồn thực vật
Sự phát triển kinh tế và xã hội hiện nay đang đe dọa nghiêm trọng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên Việc khai thác và sử dụng tài nguyên không hợp lý đã khiến nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng Trong những năm gần đây, các quốc gia và khu vực đã tìm kiếm và áp dụng các chính sách quản lý tài nguyên hợp lý, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội - chính trị, điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác của mỗi dân tộc, từ đó hình thành nên những hệ thống quản lý tài nguyên đa dạng.
Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên sinh học đã trở thành chiến lược toàn cầu quan trọng Nhiều tổ chức quốc tế như Công ước ĐDSH, IUCN, UNEP và WWF đã được thành lập để hướng dẫn việc đánh giá và bảo tồn đa dạng sinh học Các hội nghị, hội thảo và tài liệu về bảo tồn đã được tổ chức và xuất bản, cung cấp kiến thức quý giá về phát triển đa dạng sinh học Nhiều quốc gia cũng đã tham gia thực hiện các công ước quốc tế liên quan đến vấn đề này.
Bảo tồn nguyên vị (in-situ)
Bảo tồn nguyên vị là các phương pháp và công cụ nhằm bảo vệ các loài, chủng loại và hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên Hành động quản lý sẽ thay đổi tùy theo đối tượng bảo tồn, thường được thực hiện thông qua việc thành lập các khu bảo tồn và áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp Ngoài ra, UNESCO cũng có các khu di sản Thế Giới, trong khi công ước RAMSAR bảo vệ các khu đất ngập nước.
Bảo tồn nguyên vị là một khái niệm quan trọng trong việc quản lý động thực vật hoang dã và tài nguyên thiên nhiên, không chỉ giới hạn trong các khu vực bảo tồn Trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, bảo tồn nguyên vị còn bao gồm việc gìn giữ các giống loài cây trồng và cây rừng được trồng tại đồng ruộng và rừng trồng, nhằm duy trì sự đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
Bảo tồn chuyển vị (ex situ) :
Bảo tồn chuyển vị là quá trình di dời cây con và vi sinh vật khỏi môi trường sống tự nhiên nhằm nhân giống, lưu trữ, nhân nuôi vô tính hoặc cứu hộ Việc di dời này cần thiết khi nơi sinh sống bị suy thoái, không thể duy trì lâu dài, hoặc để cung cấp vật liệu cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, từ đó nâng cao kiến thức cộng đồng Các hình thức bảo tồn chuyển vị bao gồm vườn thực vật, bảo tàng, ngân hàng hạt giống và bộ sưu tập mô cấy Tuy nhiên, việc lưu trữ sinh vật trong môi trường nhân tạo làm tách rời chúng khỏi quá trình tiến hóa tự nhiên, do đó, bảo tồn chuyển vị có mối liên hệ chặt chẽ với bảo tồn nguyên vị, góp phần quan trọng vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
Nghiên cứu sinh thái học thƣc vật
Trong nghiên cứu sinh thái học về quản lý rừng bền vững, nhiều nhà lâm học nhận thấy rằng kiến thức về hệ sinh thái rừng vẫn chưa hoàn thiện Việc xác định các hiểu biết lâm học và sinh thái học là cần thiết để quản lý rừng tự nhiên một cách hiệu quả, đảm bảo tính nguyên vẹn của hệ sinh thái Điều này có thể áp dụng cho tất cả các loại rừng, bao gồm cả rừng mưa nhiệt đới ẩm (Juergen Blasse và Jim Douglas, 2000).
E.P Odum (1975) đã phân chia ra sinh thái học cá thể và sinh thái học quần thể Sinh thái học cá thể nghiên cứu từng cá thể sinh vật học hoặc từng loài, trong đó chu kỳ sống va tập tính cũng nhƣ khả năng thích nghi với môi trường được đặc biệt chú ý Ngoài mối quan hệ giữa các yếu tố sinh thái, sinh trưởng có thể định lượng bằng phương pháp toán học thường gọi là mô phỏng, phản ánh các đặc điểm, quy luật tương quan phức tạp trong tự nhiên
Các phương pháp thực nghiệm về sinh thái học nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài, phương pháp điều tra đánh giá được trình bày trong
“Thực nghiệm sinh thái học” của stephen, D Wrttenand, Gary L.A.ry (1980)
W Lache (1987) đã chỉ rõ đƣợc vấn đề nghiên cứu trong sinh thái học thực vật nhƣ sự thích nghi của các điều kiện: Dinh dƣỡng, nhiệt độ, ánh sáng, chế độ ẩm, khí hậu
Nghiên cứu về đặc điểm sinh lý và sinh thái của loài thực vật đã chỉ ra rằng chúng có ba kiểu thích nghi với tình trạng thiếu nước: thứ nhất, thích nghi kiểu đã quen; thứ hai, thích nghi do cấu tạo kiểu hạn sinh; và thứ ba, có khả năng chịu đựng tác động của mất nước Những nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của nhu cầu ánh sáng trong quá trình thích nghi của thực vật.
Tại Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về sinh thái học của loài cây nhƣ:
Nguyễn Bá Chất (1996) trong nghiên cứu của mình về đặc điểm lâm học và kỹ thuật trồng nuôi cây Lát Hoa đã chỉ ra rằng các vấn đề kỹ thuật lâm sinh là rất quan trọng để khôi phục và phát triển loài cây này trong rừng.
Nguyễn Huy Sơn và Vương Hữu Nhi đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm quần thể thông nước tại Đăk Lăk, trong đó phân loại hiện trạng rừng, cấu trúc tổ thành loài, mật độ, cấu trúc tầng tán và độ tàn che Kết quả nghiên cứu cho thấy thông nước sống hỗn loài từng đám trong rừng lá rộng thường xanh tại vùng đầm lầy nước ngọt.
Nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là quá trình đặc thù của hệ sinh thái rừng, thể hiện qua sự xuất hiện của thế hệ cây non từ các cây gỗ ở những khu vực như dưới tán rừng, chỗ trống, hoặc đất rừng sau nương rẫy Lớp cây non này đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi các thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ Hiệu quả tái sinh rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây non và đặc điểm phân bố Có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh tự nhiên: nhóm nhân tố sinh thái không có sự can thiệp của con người và nhóm nhân tố có sự can thiệp của con người Nhiều nghiên cứu đã đề cập đến phân bố tái sinh tự nhiên, góp phần hiểu rõ hơn về quy trình này.
Nghiên cứu của V.G Karpov (1969) chỉ ra rằng mối quan hệ cạnh tranh giữa cây non và quần thụ rất phức tạp, phụ thuộc vào dinh dưỡng đất, ánh sáng, độ ẩm và các đặc tính sinh vật học, tuổi tác, cũng như điều kiện sinh thái của quần thể thực vật Hầu hết các nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng cho thấy rằng cây cỏ và cây bụi, thông qua việc thu nhận ánh sáng và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự tái sinh của các loài cây gỗ, như được chỉ ra bởi Bannikov (1967).
Các nghiên cứu của Bava (1954), Budowski (1956) và Kationt (1965) chỉ ra rằng dưới tán rừng nhiệt đới, có sự hiện diện đầy đủ của cây tái sinh có giá trị kinh tế Do đó, việc áp dụng các biện pháp lâm sinh là cần thiết để bảo vệ và phát triển các cây tái sinh này trong môi trường rừng.
Nghiên cứu tái sinh rừng ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1960, với công trình nổi bật của Thái Văn Trừng về “Thảm thực vật rừng Việt Nam” vào các năm 1963 và 1978 Ông nhấn mạnh rằng ánh sáng là yếu tố sinh thái chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh và thứ sinh Bên cạnh đó, nhóm yếu tố khí hậu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều khiển tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng, trong đó ánh sáng là yếu tố quyết định Nếu các điều kiện môi trường như đất, nhiệt độ và độ ẩm dưới tán rừng không thay đổi, sự biến đổi trong tổ hợp các loài cây tái sinh sẽ không đáng kể.
Tác giả Vũ Tiến Hinh (1991) đã đề cập tới đặc điểm tái sinh theo thời gian của cây rừng và ý nghĩa của nó trong điều tra kinh doanh rừng
Nghiên cứu của Phùng Ngọc Lan (1984) về đảm bảo tái sinh rừng cho thấy cây mẹ có tính chịu bóng, dẫn đến việc cây tái sinh chủ yếu phân bố ở chiều cao thấp Ngoài một số cây ưa sáng cực đoan, tổ thành loài cây tái sinh dưới tán rừng thường lặp lại giống tổ thành tầng cây cao của quần thể.
Những nghiên cứu về loài Kháo thơm
Cây Kháo thơm là một loài cây đa mục đích, được người bản địa trên khắp thế giới sử dụng như một loại dược liệu trong cuộc sống hàng ngày (Arya, 2002; Majumdar, 2006) Mặc dù có nhiều ứng dụng trong y học truyền thống, nhưng nghiên cứu về cây Kháo thơm trên thế giới vẫn còn rất hạn chế.
Nghiên cứu của Rebena (2007) cho thấy vỏ cây Kháo thơm chứa tinh dầu thơm, được sử dụng trong y học, làm hương liệu, nguyên liệu cho keo dán và sơn, cũng như trong tín ngưỡng tôn giáo với vai trò làm nhang đốt Tài liệu của Somashekhar và cộng sự (2002) cũng khẳng định rằng lá và vỏ cây Bời lời đỏ là những bộ phận chính được sử dụng để sản xuất thuốc và biệt dược tại Bangalore, qua đó cung cấp thông tin quý giá về các loài cây dược liệu.
Cây Kháo thơm nổi bật với giá trị dược liệu, thu hút nhiều nghiên cứu toàn cầu Nghiên cứu tại Ấn Độ của Bhuakuni và Gubta (1983) đã chiết xuất thành công chất Sufu-e-Musamin từ vỏ cây để sử dụng trong y học Tại Indonesia, Ryzan, Helmi và Zammi, Adel (1989) cũng đã sử dụng phương pháp quang phổ để tách chiết các hợp chất như 2,9 dihidrosi từ cành, rễ và vỏ cây.
1,10 dimethosiaporhine, 6 methosisphenanthrene 9% dùng trong y học
Tại hội nghị quốc tế về y học dân tộc ở Indonesia, các chuyên gia đã xác nhận rằng từ Bời lời đỏ có thể chiết xuất một số hóa chất có giá trị trong y dược (Soewarsono, 1990) Một nghiên cứu của tác giả Wang (2010) tại Trung Quốc đã công bố cấu trúc hóa học của các chiết xuất biệt dược mới từ cây Kháo thơm, cho thấy tác dụng chữa bệnh hiệu quả Cụ thể, nghiên cứu của Shahagat và cộng sự (2010) chỉ ra rằng tinh dầu từ cây Kháo thơm có khả năng điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu và bệnh lây qua đường tình dục Thêm vào đó, Bời lời đỏ là một trong số ít loài thực vật có khả năng tiết ra chất kháng khuẩn nhờ vào sự hiện diện của tanin, alkaloid và sabonin trong thân và lá (Prusi, 2008).
Gần đây, hai tác giả người Ấn Độ đã công bố nghiên cứu về nguồn nhiên liệu sinh học và đặc tính của các loại dầu sinh học từ các nguồn sinh vật khác nhau Họ đã mô tả đặc tính nguyên liệu sinh học của cây Kháo thơm, được chế biến từ hạt của cây này, như một nguồn nhiên liệu thay thế tiềm năng (Singh, 2010).
Thông tin hiện có khẳng định giá trị của cây kháo thơm, đặc biệt trong y dược Tuy nhiên, vẫn thiếu các nghiên cứu quốc tế về kỹ thuật trồng trọt, khai thác và sản lượng của loại cây này.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu và viết tài liệu về cây Kháo thơm, tập trung vào việc mô tả, phát hiện và xác định tên loài Họ cũng nêu rõ giá trị và công dụng của cây Kháo thơm, nhằm sử dụng trong các giáo trình phân loại thực vật và danh mục tài nguyên thực vật, cụ thể là do Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội phát hành.
1967 đã phát hành sách tên cây rừng Việt Nam “của tác giả Lê Mộng Chân và cộng sự”
Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội 1971 đã phát hành sách cây rừng miền bắc Việt Nam tập 1, của viện điều tra quy hoach rừng
Hai tài liệu đã đề cập đến phân loại học và đặc điểm sinh học của các loài Kháo thơm, nhưng chưa đề cập đến các giá trị, bảo tồn và phát triển của loài này.
Trong tài liệu "Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam" - tập II, tác giả Lê Khả Kế đã mô tả cây Kháo thơm và nêu rõ một số công dụng của nó Vỏ cây có tác dụng làm dịu đau và chữa bệnh, trong khi quả chứa 45% chất béo dạng sáp, chủ yếu là raurin và olein, được sử dụng để sản xuất nến và xà phòng Ngoài ra, gỗ của cây được dùng để làm giấy, và lá cây được dùng làm thức ăn cho trâu bò.
Năm 1967, tác giả Đỗ Tất Lợi trong cuốn sách "Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" đã mô tả chi tiết về cây Bời lời, nhấn mạnh rằng tất cả các bộ phận của cây, đặc biệt là vỏ thân, chứa chất nhầy và tinh dầu Những thành phần này được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như sản xuất keo dán, phụ gia bê tông, và hương nén Vỏ cây có thể được sử dụng để đắp lên vết thương, chữa trị bệnh đường ruột và lỵ, cũng như sắc nước uống Ngoài ra, nước ngâm vỏ Bời lời còn được dùng để làm tóc mượt, và dầu Bời lời có thể chế biến thành sáp xà phòng Gỗ của cây Bời lời cũng được sử dụng trong ngành giấy, đồ gia dụng, và xây dựng nhà tạm.
Trong cuốn sách “Danh mục thực vật Tây Nguyên” do Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam xuất bản năm 1984, loại cây Kháo thơm được nhắc đến, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ mô tả và giới thiệu sơ lược.
Trong tạp chí Lâm Nghiệp tháng 7 năm 1994, Nguyễn Bá Chất đã viết về kỹ thuật trồng Bời lời nhớt Bài viết đề cập đến một số vấn đề liên quan đến việc trồng cây này, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ khái quát và mang tính chất định tính.
Tài liệu chuyên đề "Kỹ thuật trồng Bời lời đỏ" của kỹ sư Nguyễn Hiền, thuộc Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Gia Lai, năm 1991, đã trình bày những kiến thức cơ bản về kỹ thuật gieo ươm và trồng cây Bời lời đỏ.
Song những đặc điểm sinh thái học của loài cây này thì hầu nhƣ chƣa đề cập tới
Vào năm 1997, Lê Thị Lý đã thực hiện luận văn Thạc sĩ với đề tài “Bước đầu nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của loài Bời lời đỏ (Litsea glutinosa C.B.Roxb) làm cơ sở cho công tác trồng rừng tại tỉnh Gia Lai” tại Trường đại học Tây Nguyên Nghiên cứu đã xác định một số đặc điểm sinh học quan trọng như mô tả thân, cành, lá, rễ, hoa, cũng như mùa và chu kỳ ra hoa Bên cạnh đó, tác giả cũng đã khảo sát khả năng nảy mầm, kỹ thuật gieo ươm và dự tính sản lượng vỏ trên mô hình trồng thuần và trồng xen trong cà phê Tuy nhiên, các ước tính về sản lượng vỏ vẫn chỉ mang tính tạm thời và chưa có những đánh giá dựa trên hàm tương quan giữa sản lượng vỏ với các yếu tố như vỏ cây và mật độ trồng.
Trong báo cáo khoa học của Viên Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Trần Văn Con (2001) đã đề xuất trồng cây Bời lời đỏ trên các loại đất đỏ nâu, bao gồm đất dưới tán cây bụi và đất trên cao nguyên khô nóng Phương thức trồng được khuyến nghị là hỗn giao, kết hợp nông lâm với tỷ lệ 60% Bời lời và 40% cây ăn quả hoặc cà phê, có thể áp dụng theo hàng hoặc theo đám Khoảng cách giữa các hàng là 3m và giữa các cây là 3m.
Nghiên cứu về Kháo thơm
Tên Việt Nam: Bời lời đỏ, Bời lời đẹc, Kháo thơm hay Rè vàng
Tên khoa học: Machilus odoratissima Ness
Giới (Regnum): Thực vật – Plantae
Bộ (Ordo): Long não – Laurales
Họ (Famlia): Long não - Laruraceae
Chi (Genus): Bời lời – Litsea
Cây gỗ trung bình hoặc lớn, thường xanh, cao từ 25-35m và có đường kính 40-60cm Thân cây tròn thẳng với tán hình trứng hẹp, cành nhỏ và ít, gốc có bạnh vè nhỏ và thấp Vỏ thân có màu xám trắng đến nâu xám, bên ngoài có nhiều bì không nổi rõ, trong khi thịt vỏ màu vàng nhạt, dày khoảng 10mm và có mùi thơm Cành non có màu xanh, sau đó chuyển sang nâu nhạt và nhẵn.
Lá đơn mọc cách, phiến lá dai và có mùi thơm nhẹ, với hình mác dài từ 12-15cm và rộng 3-3,5cm Đầu lá hơi nhọn, gốc hình nêm, hai mặt lá nhẵn; mặt trên có màu xanh bóng, trong khi mặt dưới xanh nhạt Lá có 7-10 đôi gân bên, và cuống lá mỏng dài từ 7-15mm.
Cụm hoa hình chuỳ, dài bằng hoặc vượt chiều dài lá, có gốc trụ hoa lông Hoa lưỡng tính màu vàng nhạt với bao hoa 6 thuỳ hình trái xoan, phủ lông ngắn Nhị gồm 9 nhị xếp thành 3 vòng, trong đó 6 nhị ngoài không tuyến và bao phấn có 4 ô Nhuỵ có bầu hình cầu, vòi dài và núm gần hình cầu Quả hình cầu, đường kính từ 10-20cm, có bao hoa tồn tại và hơi xoè ra, khi non màu xanh lục và khi chín màu tím đen với lớp phấn trắng bên ngoài Vỏ quả mềm, chứa dịch mùa vàng, có 1 hạt và cuống quả màu đỏ nhạt.
Cây bời lời phân bố ở độ cao 600–700 m so với mực nước biển, thường mọc ở nơi thấp trong rừng thứ sinh, đặc biệt tại cửa rừng và ven khe suối lớn Cây ưa sáng, có khả năng tái sinh hạt và chồi mạnh, thích hợp với đất sét pha, ẩm và có tầng dày, nhiều mùn Bời lời có thể được trồng bằng nhiều phương pháp như trồng bằng chồi rễ của cây mẹ, cây con tái sinh trong rừng, gieo hạt trực tiếp hoặc ươm cây con trong bầu Mùa hoa quả diễn ra vào tháng 5-6, trong khi quả chín vào tháng 10-11, cây cho nhiều quả hạt.
Loài này thường được tìm thấy ở nhiều tỉnh thành của Việt Nam như Lào Cai, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Đồng Nai và Phú Quốc.
Quả Kháo thơm chứa dầu béo đông đặc ở nhiệt độ thường, thành phần chủ yếu là Laurin và oleein có thể dùng làm sáp hoặc chế biến xà phòng
Hạt Kháo thơm là thức ăn ƣa thích của nhiều loài chim
Vỏ cây Kháo thơm là sản phẩm chính được thu hoạch và có nhiều ứng dụng trong y học Theo GS Đỗ Tất Lợi trong cuốn "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam", vỏ cây này được dùng để đắp lên các vết bỏng, sưng và vết thương Ngoài ra, vỏ còn được sắc nước uống để chữa trị các bệnh như ỉa chảy và lỵ.
Nước ngâm vỏ Kháo thơm được bào thành từng mảng mỏng, có thể sử dụng để bôi lên tóc giúp tóc bóng mượt Ngoài ra, vỏ Kháo thơm còn là nguyên liệu quý trong sản xuất keo dán.
Vỏ Kháo thơm là nguyên liệu phổ biến trong việc sản xuất hương thắp cho các dịp lễ tết, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng Bên cạnh đó, nó còn được ứng dụng làm chất phụ gia cho bê tông trong ngành xây dựng Đây là sản phẩm chủ yếu và có giá trị kinh tế cao từ cây Kháo thơm.
Gỗ có lõi màu hồng nhạt và giác màu trắng, với độ cứng cao (tỷ trọng 0,87) và khả năng chống mối mọt tốt Loại gỗ này thường được sử dụng trong ngành công nghiệp đóng gói đồ gia dụng, làm nguyên liệu sản xuất giấy và xây dựng trụ mỏ.
Lá cây Kháo thơm đƣợc sử dụng để chữa thiên đầu thống và làm thức ăn cho gia súc
Kháo thơm có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, ngoại trừ đất cát, đất ngập úng và đất trơ sỏi đá Để đạt hiệu quả tốt nhất, đất trồng Khao vàng cần có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt trung bình, với tầng đất dày trên 50cm, đảm bảo độ ẩm và khả năng thoát nước Ngoài ra, khu vực trồng nên nằm ở độ cao từ 200-250m so với mực nước biển và có độ dốc nhỏ hơn 30%.
Bảng 1.1 Điều kiện đất phù hợp để trồng cây Kháo thơm
Nhân tố lập địa Yêu cầu phù hợp
Rất phù hợp Phù hợp Hạn chế
Loài đá mẹ Phiến mica các loại đá biến chất
Các loại đá phiến, đá macma acid Đá cát, đá vôi Độ sâu tầng đất > 80cm 50-80cm