1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

BÀI TIỂU LUẬN Môn Thanh toán quốc tế SO SÁNH NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ HỐI PHIẾU THEO BEA 1882, UCC 2002 VÀ LUẬT CÔNG CỤ CHUYỂN NHƯỢNG VIỆT NAM 2005 NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý CHO CÁC NGÂN HÀNG VÀ CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM

61 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề So Sánh Những Quy Định Pháp Lý Về Hối Phiếu Theo Bea 1882, Ucc 2002 Và Luật Công Cụ Chuyển Nhượng Việt Nam 2005 Những Điểm Cần Lưu Ý Cho Các Ngân Hàng Và Các Doanh Nghiệp Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Thanh toán quốc tế
Thể loại bài tiểu luận
Định dạng
Số trang 61
Dung lượng 1,5 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỐI PHIẾU (6)
    • 1.1 Tổng quan về hối phiếu (6)
      • 1.1.1. Hối phiếu đòi nợ (6)
      • 1.1.2. Hối phiếu nhận nợ (9)
    • 1.2. Các nguồn luật điều chỉnh hối phiếu (10)
  • CHƯƠNG II: SO SÁNH LUẬT HỐI PHIẾU ANH, LUẬT THƯƠNG MẠI THỐNG NHẤT HOA KỲ VÀ LUẬT CÁC CÔNG CỤ CHUYỂN NHƯỢNG VIỆT NAM 2005 (12)
    • 2.1. Nội dung hối phiếu (12)
      • 2.1.1. Theo quy định của các nguồn Luật (12)
      • 2.1.2. Phân tích nội dung chi tiết trong mẫu hối phiếu (13)
      • 2.1.3. Kiểm tra hối phiếu khi xuất trình tại ngân hàng. 14 2.2. Các nghiệp vụ liên quan đến hối phiếu (20)
      • 2.2.1. Chấp nhận hối phiếu (22)
      • 2.2.2. Ký hậu chuyển nhượng (32)
      • 2.2.3. Nghiệp vụ bảo lãnh (35)
      • 2.2.4. Thanh toán (39)
      • 2.2.5. Quyền truy đòi (45)
  • CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG (50)
    • 3.1. Tình huống 1 (50)
      • 3.1.1. Phân tích tình huống (50)
      • 3.1.2. Nhận xét (52)
    • 3.2. Tình huống 2 (52)
  • KẾT LUẬN (23)

Nội dung

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỐI PHIẾU 3 1.1 Tổng quan về hối phiếu 3 1.1.1. Hối phiếu đòi nợ 3 1.1.2. Hối phiếu nhận nợ 6 1.2. Các nguồn luật điều chỉnh hối phiếu 6 CHƯƠNG II: SO SÁNH LUẬT HỐI PHIẾU ANH, LUẬT THƯƠNG MẠI THỐNG NHẤT HOA KỲ VÀ LUẬT CÁC CÔNG CỤ CHUYỂN NHƯỢNG VIỆT NAM 2005 8 2.1. Nội dung hối phiếu 8 2.1.1. Theo quy định của các nguồn Luật 8 2.1.2. Phân tích nội dung chi tiết trong mẫu hối phiếu: 9 2.1.3. Kiểm tra hối phiếu khi xuất trình tại ngân hàng 14 2.2. Các nghiệp vụ liên quan đến hối phiếu 16 2.2.1. Chấp nhận hối phiếu 16 2.2.2. Ký hậu chuyển nhượng 24 2.2.3. Nghiệp vụ bảo lãnh 27 2.2.4. Thanh toán 30 2.2.5. Quyền truy đòi 35 CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 40 3.1. Tình huống 1 40 3.1.1. Phân tích tình huống 40 3.1.2. Nhận xét 42 3.2. Tình huống 2 42 KẾT LUẬN 47 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 48 LỜI MỞ ĐẦU Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của các giao dịch kinh tế và thương mại của các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển và mở rộng hơn nữa trên toàn cầu, vì thế các giao dịch kinh tế và thương mại quốc tế đã và đang có nhiều thay đổi, phát triển rất đa dạng về hình thức, quy mô và độ sâu. Song song với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các công cụ tín dụng đã hình thành và phát triển ngày càng đa dạng, phong phú, tính hữu ích của nó ngày một cao hơn. Mỗi công cụ tín dụng ra đời là sản phẩm riêng có của các quan hệ tín dụng tương ứng. Các công cụ lưu thông tín dụng như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc... có vai trò rất quan trọng trong thanh toán quốc tế, đem lại sự thuận lợi trong giao dịch xuyên quốc gia. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán quốc tế bên cạnh tiện ích của nó, lại chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Một trong những lí do gây nên rủi ro là do môi trường pháp lý quốc tế của thanh toán quốc tế còn thiếu và chưa đồng bộ, thiếu nhiều luật quốc tế, các tập quán quốc tế của ICC ban hành tương đối đầy đủ nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong việc ứng dụng vào thực tế. Có thể kể đến các bộ luật phổ biến hiện nay trong thanh toán quốc tế ở Việt Nam như: Luật hối phiếu Anh (BEA 1882), Luật thống nhất Geneva về Hối phiếu và Kỳ phiếu (ULB 1930), Bộ Luật thương mại thống nhất (UCC 2002) và Luật các công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005. Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài “So sánh những quy định pháp lý về hối phiếu theo Luật hối phiếu của Anh (BEA 1882), Bộ luật Thương mại thống nhất (UCC 2002) và Luật công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005. Những điểm cần lưu ý cho các ngân hàng và các doanh ngiệp xuất nhập khẩu Việt Nam” nhằm đưa đến cho mọi người cái nhìn tổng quan về điểm khác biệt của ba nguồn luật này khi điều chỉnh các công cụ thanh toán quốc tế. Nội dung tiểu luận sẽ đi qua 3 phần chính: Phần I: Cơ sở lý thuyết về hối phiếu Phần II: So sánh những quy định pháp lý về hối phiếu theo Luật hối phiếu của Anh (BEA 1882), Bộ luật Thương mại thống nhất (UCC 2002) và Luật công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 Phần III: Phân tích những điểm cần lưu ý cho các ngân hàng và các DN XNK Việt Nam khi sử dụng hệ thống luật này Do vốn kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của chúng em không thể tránh khỏi còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cô và các bạn để bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn.   CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỐI PHIẾU 1.1 Tổng quan về hối phiếu 1.1.1. Hối phiếu đòi nợ a. Khái niệm Mỗi quốc gia hay một tổ chức lại đưa ra một khái niệm khác nhau cho hối phiếu đòi nợ. Tuy có sự khác nhau trong cách hành văn Luật hối phiếu của các quốc gia, nhưng nội dung của các khái niệm đó vẫn có những điểm tương đồng. Theo Luật công cụ chuyển nhượng của Việt Nam năm 2005: “Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do Người ký phát lập, yêu cầu Người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho Người thụ hưởng.” Theo Điều 3 Luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ bản sửa đổi năm 1995 đưa ra một khái niệm chung về công cụ chuyển nhượng gồm có hối phiếu, kỳ phiếu, séc, giấy gửi tiền. Khái niệm chỉ rõ: “Phương tiện chuyển nhượng có nghĩa là một lệnh hoặc một lời hứa thanh toán một số tiền nhất định ... cho người cầm phiếu”...” Một phương tiện là một kỳ phiếu, nếu nó là một lời hứa và là một hối phiếu, nếu nó là một lệnh”...” Lệnh là một yêu cầu thanh toán bằng văn bản do người yêu cầu phát hành. Yêu cầu này có thể gửi cho bất kỳ ai, bao gồm cả người đưa ra yêu cầu hoặc được gửi cho một người hay nhiều người”. Theo Đạo luật Hối phiếu Anh quốc 1882 (BEA 1882): “Hối phiếu đòi nợ (Bill of exchange) là một mệnh lệnh vô điều kiện của một người ký phát (drawer) cho một người khác (drawee), yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu.” Theo như Luật quốc gia của các nước tham gia Công ước Geneva 1930 gồm có Ôxtrâylia, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hi Lạp, Hungari, Luxembua, Monaco, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Liên bang Xô Viết, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Braxin, Nhật Bản tương tự như khái niệm của Luật Thống nhất về hối phiếu 1930 Theo Luật Thống nhất về hối phiếu thuộc Công ước Geneva 1939, hối phiếu đòi nợ bao gồm nội dung: • Tiêu đề “Hối phiếu đòi nợ” được ghi trên bề mặt của hối phiếu và bằng ngôn ngữ ký phát hối phiếu • Một lệnh đòi tiền vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định • Tên của Người trả tiền (Người bị ký phát) • Tuyên bố thời gian thanh toán • Tuyên bố địa điểm thanh toán • Tên của Người thụ hưởng hoặc tên của người mà theo lệnh của Người thụ hưởng anh ta được thanh toán • Tuyên bố ngày và địa điểm phát hành hối phiếu đòi nợ • Chữ ký của Người ký phát hối phiếu đòi nợ ( Drawer) b. Đặc điểm: Thứ nhất, hối phiếu được hình thành từ các hợp đồng giao dịch cơ sở. Những hối phiếu không được hình thành từ giao dịch cơ sở được gọi là hối phiếu khống. Thứ hai, hình thức của hối phiếu đòi nợ rất dễ nhận dạng trực tiếp. Dù là tồn tại dưới hình thức phi chứng từ, hình thức của hối phiếu cũng được qui định rõ ràng để mọi người có thể nhận dạng dễ dàng, trực tiếp và trung thực, vì nó là một tài sản tài chính vô hình nhưng lại chứa đựng các quyền pháp lý rất quan trọng đối với bên kí phát. Thứ ba, hối phiếu là trái vụ một bên. Sở dĩ nói như vậy, vì hối phiếu là một công cụ do một người phát hành, yêu cầu người bị kí phát thực hiện nghĩa vụ dân sự trả tiền, vì vậy nghĩa vụ dân sự có được thực hiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận của người bị ký phát. Hối phiếu sẽ trở nên vô hiệu khi bị người bị ký phát từ chối thanh toán một cách hợp pháp hoặc bị phá sản. Cuối cùng, hối phiếu mang tính chất “trừu tượng”. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ kinh tế, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả là bao nhiêu và trả cho ai, người nào sẽ thanh toán, thời gian thanh toán là khi nào… và không cần phải nói lên nguyên nhân việc phải trả tiền trên hối phiếu. c. Các thành phần liên quan đến hối phiếu Từ khái niệm về hối phiếu trên có thể thấy rõ các thành phần liên quan đến việc lập và thanh toán hối phiếu gồm: • Người ký phát hối phiếu (Drawer): thông thường là người bán, đại diện tổ chức xuất khẩu, cung ứng dịch vụ. • Người trả tiền hối phiếu (Drawee): hay người nhận ký phát, người bị ký phát: là người mà hối phiếu gởi đến cho họ, đòi tiền họ (có thể là người mua, Ngân hàng mở LC, Ngân hàng thanh toán, ...) • Người chấp nhận (Accepter): Là người bị ký phát sau khi ký chấp nhận hối phiếu, thường là Ngân hàng. • Người hưởng lợi hối phiếu (Beneficiary): hay người thụ hưởng: trước hết là người ký phát hối phiếu, kế đến là người do người ký phát hối phiếu chỉ định trên hối phiếu. Theo luật quản chế ngoại hối ở nước ta người hưởng lợi là các Ngân hàng kinh doanh đối ngoại được Ngân hàng nhà nước cấp giấy phép. • Người chuyển nhượng (Endorser) hay người ký hậu: Là người chuyển quyền hưởng lợi hối phiếu cho người khác bằng cách trao tay hay bằng thủ tục ký hậu. Bị ràng buộc trách nhiệm với những người ký hậu phía sau và người cầm phiếu. Người chuyển nhượng hối phiếu đầu tiên chính là người ký phát hối phiếu. • Người bảo lãnh: Là bất kỳ người nào ký tên vào hối phiếu, ngoại trừ người ký phát và người bị ký phát, thường là Ngân hàng nổi tiếng. d. Vai trò của hối phiếu Ngay từ khi xuất hiện, hối phiếu được xem là một phương tiện thanh toán hữu hiệu. Giảm đáng kể những rủi ro, thiệt hại trong quá trình thực hiện các giao dịch mua bán, đáp ứng được nhu cầu thanh toán trong trường hợp có sự khác nhau về địa lý giữa nơi bán và nơi mua. Và hiện nay, hối phiếu vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế. Song song với vai trò là một phương tiện thanh toán, hối phiếu còn được xem là một công cụ tín dụng. Sở dĩ có vai trò này bởi vì người ta thực hiện các hoạt động chiết khấu trên hối phiếu. Tín dụng chiết khấu hối phiếu được hiểu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, mà thực chất của hình thức này là Ngân hàng tiến hành mua lại các hối phiếu thương mại đang trong thời kỳ chưa đến hạn thanh toán và cung ứng một khoản vốn cho các thương nhân để họ có điều kiện tiếp tục tái sản xuất. Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, Ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm vụ trả tiền hối phiếu. 1.1.2. Hối phiếu nhận nợ a. Khái niệm Hối phiếu nhận nợ (hay còn gọi là kỳ phiếu) là một cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho Người thụ hưởng qui định trên kỳ phiếu hoặc theo lệnh của người này để trả cho một người khác. b. Đặc điểm Hối phiếu nhận nợ cũng là một tài sản tài chính vô hình, vì thế nó cũng mang bốn đặc điểm tương tự như hối phiếu đòi nợ, tuy nhiên có một số điểm khác biệt. Thứ nhất, kỳ phiếu là một công cụ hứa trả tiền chứ không phải là công cụ đòi tiền, cho nên cần có một Người thứ ba đứng ra bảo lãnh thanh toán. Thứ hai, kì phiếu là một công cụ hứa trả tiền vô điều kiện do con nợ viết ra để hứa trả một số tiền nhất định cho chủ nợ, cho nên không phát sinh yêu cầu chấp nhận thanh toán. Thứ ba, người lập phiếu phải phát hành kì phiếu hứa trả tiền trước khi Người thụ hưởng kỳ phiếu thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng giao dịch cơ sở. Sau khi thực hiện nghĩa vụ, Người thụ hưởng mới ủy thác cho ngân hàng thu tiền của hối phiếu nhận nợ từ Người lập phiếu. Cuối cùng, các quy định pháp lý đối với hối phiếu đòi nợ cũng có thể áp dụng cho hối phiếu nhận nợ, trong chừng mực không trái đối với tính chất và đặc điểm của hối phiếu nhận nợ. Ví dụ quy định ký hậu, thời hạn thanh toán, truy đòi không thanh toán, thanh toán thay bởi người thứ ba, bảo lãnh …… 1.2. Các nguồn luật điều chỉnh hối phiếu • Luật hối phiếu Anh BEA 1882 (Bill of Exchange Act of 1882) Một đạo luật để soạn thảo luật liên quan đến hối phiếu, séc và hối phiếu (18 tháng 8 năm 1882). Mặc dù rất nhiều nước áp dụng ULB 1930 nhưng nước Anh vẫn dùng luật BEA 1882 của mình. • Luật Thương mại thống nhất của Mĩ UCC 2002 (Uniform Commercial Code of 2002) UCC 2002 – Uniform Commercial Code of 2002 được ban hành năm 2002, áp dụng trong phạm vi nước Mỹ và các nước châu Mỹ Latinh khi sử dụng các công cụ thanh toán quốc tế để giao dịch • Luật Các công cụ chuyển nhượng của Việt Nam 2005 Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xác hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi và bổ sung theo Nghị quyết số 512001QH10 ngày 2512 năm 2001 của Quốc hội khóa X, luật này qui định về công cụ chuyển nhượng như hối phiếu, kì phiếu và séc. Luật này được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia vào quan hệ công cụ chuyển nhượng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỐI PHIẾU

Tổng quan về hối phiếu

1.1.1 Hối phiếu đòi nợ a Khái niệm

Mỗi quốc gia và tổ chức có khái niệm riêng về hối phiếu đòi nợ, tuy nhiên, bất chấp sự khác biệt trong cách diễn đạt của các luật hối phiếu, nội dung của những khái niệm này vẫn tồn tại nhiều điểm tương đồng.

Theo Luật công cụ chuyển nhượng của Việt Nam năm 2005:

Hối phiếu đòi nợ là một loại giấy tờ có giá trị, được lập bởi Người ký phát, nhằm yêu cầu Người bị ký phát thực hiện nghĩa vụ thanh toán một số tiền xác định một cách không điều kiện Việc thanh toán này có thể được thực hiện ngay khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm cụ thể trong tương lai, và Người thụ hưởng sẽ là người nhận số tiền đó.

Theo Điều 3 của Luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) sửa đổi năm 1995, công cụ chuyển nhượng bao gồm hối phiếu, kỳ phiếu, séc và giấy gửi tiền, tạo ra một khái niệm chung về các loại tài liệu này.

Phương tiện chuyển nhượng là một lệnh hoặc lời hứa thanh toán một số tiền nhất định cho người cầm phiếu Một phương tiện có thể là kỳ phiếu nếu nó là lời hứa, hoặc hối phiếu nếu nó là lệnh Lệnh thanh toán là yêu cầu bằng văn bản do người yêu cầu phát hành và có thể gửi đến bất kỳ ai, bao gồm cả người phát hành yêu cầu hoặc nhiều người khác.

Theo Đạo luật Hối phiếu Anh quốc 1882, hối phiếu đòi nợ là một mệnh lệnh vô điều kiện từ người ký phát đến người được chỉ định, yêu cầu thanh toán một số tiền nhất định vào thời điểm nhìn thấy phiếu hoặc vào một ngày cụ thể trong tương lai cho người thụ hưởng hoặc theo lệnh của người này.

Theo Luật quốc gia của các nước tham gia Công ước Geneva 1930, bao gồm Ôxtrâylia, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hi Lạp, Hungari, Luxembourg, Monaco, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Liên bang Xô Viết, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Braxin và Nhật Bản, có sự tương đồng với khái niệm của Luật Thống nhất về hối phiếu 1930.

Theo Luật Thống nhất về hối phiếu thuộc Công ước Geneva

1939, hối phiếu đòi nợ bao gồm nội dung:

 Tiêu đề “Hối phiếu đòi nợ” được ghi trên bề mặt của hối phiếu và bằng ngôn ngữ ký phát hối phiếu

 Một lệnh đòi tiền vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định

 Tên của Người trả tiền (Người bị ký phát)

 Tuyên bố thời gian thanh toán

 Tuyên bố địa điểm thanh toán

 Tên của Người thụ hưởng hoặc tên của người mà theo lệnh của Người thụ hưởng anh ta được thanh toán

 Tuyên bố ngày và địa điểm phát hành hối phiếu đòi nợ

 Chữ ký của Người ký phát hối phiếu đòi nợ ( Drawer) b Đặc điểm:

Hối phiếu được hình thành từ các hợp đồng giao dịch cơ sở, trong khi những hối phiếu không dựa trên giao dịch cơ sở được gọi là hối phiếu khống.

Hối phiếu đòi nợ có hình thức dễ nhận dạng, cho phép mọi người nhận diện một cách trực tiếp và trung thực Dù tồn tại dưới dạng phi chứng từ, hình thức của hối phiếu được quy định rõ ràng, giúp người sử dụng hiểu rõ về tài sản tài chính vô hình này, đồng thời nhấn mạnh các quyền pháp lý quan trọng của bên ký phát.

Hối phiếu là một công cụ tài chính do một bên phát hành, yêu cầu bên bị ký phát thực hiện nghĩa vụ trả tiền Điều này có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ dân sự hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận của bên bị ký phát Nếu bên bị ký phát từ chối thanh toán một cách hợp pháp hoặc rơi vào tình trạng phá sản, hối phiếu sẽ trở nên vô hiệu.

Hối phiếu có tính chất "trừu tượng", nghĩa là không cần ghi rõ nội dung quan hệ kinh tế; chỉ cần nêu số tiền phải trả, bên nhận tiền, bên thanh toán và thời gian thanh toán Điều này cho phép hối phiếu hoạt động độc lập mà không cần chỉ ra nguyên nhân của việc thanh toán.

Từ khái niệm về hối phiếu trên có thể thấy rõ các thành phần liên quan đến việc lập và thanh toán hối phiếu gồm:

 Người ký phát hối phiếu (Drawer): thông thường là người bán, đại diện tổ chức xuất khẩu, cung ứng dịch vụ.

Người trả tiền hối phiếu (Drawee) là cá nhân hoặc tổ chức nhận hối phiếu và có trách nhiệm thanh toán số tiền đã ký phát Họ có thể là người mua hàng, ngân hàng mở thư tín dụng (L/C), hoặc ngân hàng thực hiện thanh toán.

 Người chấp nhận (Accepter): Là người bị ký phát sau khi ký chấp nhận hối phiếu, thường là Ngân hàng.

Người hưởng lợi hối phiếu, hay còn gọi là người thụ hưởng, bao gồm người ký phát hối phiếu và người được chỉ định bởi người ký phát trên hối phiếu Theo quy định của luật quản chế ngoại hối tại Việt Nam, người hưởng lợi chủ yếu là các ngân hàng kinh doanh đối ngoại, những ngân hàng này phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động.

Người chuyển nhượng (Endorser) hay người ký hậu là cá nhân chuyển quyền hưởng lợi từ hối phiếu cho người khác thông qua việc trao tay hoặc ký hậu Người này có trách nhiệm với những người ký hậu tiếp theo và với người cầm phiếu Người chuyển nhượng hối phiếu đầu tiên chính là người ký phát hối phiếu.

Người bảo lãnh là cá nhân hoặc tổ chức ký tên vào hối phiếu, không bao gồm người ký phát và người bị ký phát, thường là các ngân hàng uy tín Vai trò của hối phiếu rất quan trọng trong giao dịch tài chính, giúp đảm bảo tính an toàn và tin cậy cho các bên liên quan.

Hối phiếu đã trở thành một phương tiện thanh toán hiệu quả ngay từ khi ra đời, giúp giảm thiểu rủi ro và thiệt hại trong các giao dịch mua bán Nó đáp ứng tốt nhu cầu thanh toán, đặc biệt khi có sự khác biệt về địa lý giữa người bán và người mua.

Các nguồn luật điều chỉnh hối phiếu

 Luật hối phiếu Anh BEA 1882 (Bill of Exchange Act of 1882)

Vào ngày 18 tháng 8 năm 1882, một đạo luật đã được ban hành để quy định về hối phiếu, séc và hối phiếu Mặc dù nhiều quốc gia đã áp dụng ULB 1930, nhưng Anh vẫn tiếp tục sử dụng luật BEA 1882 của mình.

 Luật Thương mại thống nhất của Mĩ UCC 2002 (Uniform Commercial Code of 2002)

UCC 2002, hay Bộ luật Thương mại Đồng nhất năm 2002, được ban hành nhằm áp dụng trong nước Mỹ và các quốc gia châu Mỹ Latinh, đặc biệt khi sử dụng các công cụ thanh toán quốc tế trong giao dịch.

 Luật Các công cụ chuyển nhượng của Việt Nam 2005

Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi và bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, luật này quy định về các công cụ chuyển nhượng như hối phiếu, kỳ phiếu và séc.

Luật này áp dụng cho tổ chức và cá nhân Việt Nam, cũng như tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia vào quan hệ chuyển nhượng công cụ tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

SO SÁNH LUẬT HỐI PHIẾU ANH, LUẬT THƯƠNG MẠI THỐNG NHẤT HOA KỲ VÀ LUẬT CÁC CÔNG CỤ CHUYỂN NHƯỢNG VIỆT NAM 2005

Nội dung hối phiếu

2.1.1 Theo quy định của các nguồn Luật

Theo Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005, Điều 16, Khoản 1, hối phiếu đòi nợ phải có các nội dung sau: cụm từ “Hối phiếu đòi nợ” trên mặt trước, yêu cầu thanh toán không điều kiện một số tiền xác định, thời hạn và địa điểm thanh toán, tên và địa chỉ của người bị ký phát, tên và địa chỉ của người thụ hưởng, địa điểm và ngày ký phát, cùng với tên, địa chỉ và chữ ký của người ký phát.

 Luật hối phiếu của Anh - BEA 1882:

Hối phiếu được định nghĩa tại Mục 1 Điều 3 phần II là một mệnh lệnh vô điều kiện bằng văn bản, được ký và gửi từ một người đến người khác Hối phiếu yêu cầu người nhận thực hiện thanh toán một khoản tiền nhất định, có thể là ngay lập tức, vào một thời điểm cố định, hoặc vào một thời điểm xác định trong tương lai Khoản tiền này sẽ được thanh toán đến hoặc theo lệnh của một người được chỉ định hoặc người cầm hối phiếu.

 Luật Thương mại thống nhất của Mỹ UCC 2002:

Bài viết chỉ đề cập đến các quy định chung liên quan đến các công cụ thanh toán trong giao dịch và trao đổi thương mại, mà không cung cấp định nghĩa hay quy định cụ thể nào như các luật pháp của Anh và Việt Nam.

2.1.2 Phân tích nội dung chi tiết trong mẫu hối phiếu:

Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 quy định tại Điều 16, Khoản 1 rằng tiêu đề là nội dung bắt buộc phải có trên hối phiếu và các chứng từ khác Điều này nhằm tránh sự nhầm lẫn giữa các loại chứng từ, vì một phương tiện thanh toán không có tiêu đề sẽ không có giá trị pháp lý.

 Theo BEA 1882 và UCC 2002 không bắt buộc hối phiếu phải có tiêu đề, miễn là trong nội dung có diễn đạt từ “hối phiếu đòi nợ”

(2) Mã số tờ hối phiếu:

Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005, Luật hối phiếu Anh - BEA 1882, và Luật Thương mại thống nhất Mỹ - UCC 2002 không quy định bắt buộc việc đánh số tờ hối phiếu Mã số hối phiếu được doanh nghiệp tự quyết định.

(3) Số tiền ghi trên hối phiếu (2 vị trí):

Số tiền trong hợp đồng phải được ghi rõ ràng, đơn giản và dễ nhận biết Theo quy định của Việt Nam, Mỹ và hầu hết các quốc gia châu Âu, số tiền có thể được thể hiện bằng cả chữ và số, và hai hình thức này phải khớp nhau Nếu có sự không khớp giữa số tiền bằng số và bằng chữ, số tiền bằng chữ sẽ được ưu tiên thanh toán.

Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 quy định rõ ràng về việc ghi số tiền thanh toán trên công cụ chuyển nhượng Cụ thể, Điều 8 yêu cầu số tiền phải được ghi bằng cả số và chữ Theo Điều 16, Khoản 3, nếu số tiền trên hối phiếu đòi nợ được ghi bằng số khác với số tiền ghi bằng chữ, thì số tiền ghi bằng chữ sẽ có giá trị thanh toán Trong trường hợp số tiền được ghi hai lần trở lên và có sự khác nhau, số tiền có giá trị nhỏ nhất được ghi bằng chữ sẽ được coi là giá trị thanh toán.

 Luật hối phiếu của Anh - BEA 1882, Điều 9, Khoản 2 quy định tương tự:

Trong trường hợp số tiền phải trả được ghi bằng cả chữ và số, nếu có sự khác biệt giữa hai cách thể hiện này, số tiền được tính theo chữ sẽ là số tiền phải trả.

 Luật Thống nhất thương mại Hoa Kỳ - UCC 2002, Điều 204,khoản 3 quy định:

Trong hợp đồng, nếu có sự khác biệt giữa chữ và số, việc chấp nhận giao hàng theo hợp đồng đã ký trước đó sẽ được thực hiện Nếu cả bên sản xuất và bên thanh toán đồng ý sửa đổi những sai lệch, bên thanh toán có thể ghi chú thêm ngày sửa đổi đó.

Địa điểm ký phát hối phiếu đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nguồn luật áp dụng và điều chỉnh nội dung, hình thức của hối phiếu Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia không yêu cầu bắt buộc phải ghi địa điểm này trên hối phiếu.

 Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005, Điều 16, Khoản 2:

Hối phiếu đòi nợ sẽ không có giá trị pháp lý nếu thiếu thông tin về địa điểm ký phát Tuy nhiên, trong trường hợp địa điểm ký phát không được ghi rõ, hối phiếu sẽ được xem là ký phát tại địa chỉ của người ký phát.

 Luật Hối phiếu của Anh - BEA 1882 Điều 4:

Hối phiếu không yêu cầu địa chỉ ký phát cụ thể Nếu địa điểm ký phát không được ghi rõ, có thể hiểu rằng địa chỉ này sẽ nằm cạnh tên của người ký phát.

 Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ - UCC 2002 không quy định cụ thể về địa điểm ký phát hối phiếu.

Ngày ký phát hối phiếu là nội dung bắt buộc trong tất cả các luật, đánh dấu thời điểm quyền đòi tiền của Người ký phát đối với Người bị ký phát phát sinh Đây cũng là căn cứ xác định thời hạn trả tiền của hối phiếu và là mốc kiểm tra năng lực của các chủ thể liên quan.

 Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005, Điều 16, Khoản 2: Hối phiếu đòi nợ không có giá trị nếu thiếu ngày ký phát.

 Luật Hối phiếu của Anh - BEA 1882 quy định hối phiếu đó vẫn có hiệu lực và có thể bổ sung ngày chính xác

 Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ - UCC 2002, Chương 3, Điều 113, Khoản 2 nêu rằng nếu hối phiếu không có ngày ký phát thì sẽ có quy định khác:

Nếu một hối phiếu không có ngày ký phát, ngày ký phát sẽ được coi là ngày phát hành Đối với một công cụ chưa được phát hành, ngày đầu tiên mà chủ sở hữu nắm giữ sẽ được xem là ngày phát hành.

(7) Thời hạn thanh toán hối phiếu:

Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 quy định tại Điều 16, Khoản 2 rằng nếu thời hạn thanh toán không được ghi trên hối phiếu đòi nợ, thì hối phiếu này sẽ được thanh toán ngay khi xuất trình Điều 42 cũng đề cập đến quy định về thời hạn thanh toán.

PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG

Ngày đăng: 13/09/2022, 19:27

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w