Cơ sở lý thuyết về hối phiếu
Các nguồn luật điều chỉnh
Công ước Geneva năm 1930 về Luật thống nhất về hối phiếu và kỳ phiếu (ULB 1930) hiện đang có hiệu lực tại hầu hết các quốc gia châu Âu, ngoại trừ Anh Nhiều quốc gia khác, dù không tham gia Công ước này, vẫn phát triển hệ thống Luật hối phiếu của mình theo hướng tương thích với ULB 1930.
Tập quán quốc tế của ICC về tín dụng chứng từ
Luật Hối phiếu của Anh 1882 (BEA 1882) → áp dụng cho nước Anh và các nước thuộc địa Anh
Bộ luật thương mại thống nhất Mỹ 1962 (UCC 1962/revised UCC 2013) → áp dụng trong phạm vi nước Mỹ và các nước châu Mỹ La tinh,…
Luật các công cụ chuyển nhượng Trung Quốc 1995 và Luật sửa đổi 2004
Luật các công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 – LCCCCN 2005
Các nguyễn tắc giải quyết xung đột pháp lý
Công ước về điều chỉnh các xung đột pháp lý liên quan đến Hối phiếu đi kèm ULB
- Năng lực pháp lý của các bên tham gia hối phiếu: Luật của nước người đó
- Hình thức pháp lý của hối phiếu: Luật nơi ký phát
- Nghĩa vụ của người chấp nhận hối phiếu: Luật nơi hối phiếu được thanh toán
- Hiệu lực chữ ký của các bên thứ 3: Luật nơi ký phát
- Hình thức và thời hạn kháng nghị: Luật nơi kháng nghị bắt buộc phải lập
- Trường hợp hối phiếu bị mất: Luật nơi thanh toán
Hối phiếu
Các quốc gia ký kết công ước Geneva năm 1930 đã thống nhất sử dụng định nghĩa hối phiếu từ Luật hối phiếu 1882 của Anh làm cơ sở tham chiếu cho khái niệm hối phiếu trong luật ULB.
“ Hối phiếu là một mệnh lệnh vô điều kiện của một Người ký phát (Drawer) cho một người khác (Drawee), yêu cầu người này:
- hoặc đến một ngày cụ thể nhất định,
- hoặc đến một ngày có thể xác định được trong tương lai
Phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc người cầm hối phiếu
* Luật Các Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005, Điều 4, Khoản 2:
Hối phiếu đòi nợ là một loại giấy tờ có giá trị, được lập bởi Người ký phát, yêu cầu Người bị ký phát thanh toán một khoản tiền xác định một cách không điều kiện Khoản thanh toán này sẽ được thực hiện theo yêu cầu hoặc vào một thời điểm cụ thể trong tương lai cho Người thụ hưởng.
I.3.2 Đặc điểm cơ bản của hối phiếu
* Tính bắt buộc trả tiền
- Hối phiếu là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện
- Bắt buộc phải trả tiền cho người hưởng lợi Đặc điểm này thể hiện ở các nguồn luật sau Điều 17 Nghĩa vụ của người ký phát (Luật CCCCN 2005)
1 Người ký phát có nghĩa vụ thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ cho người thụ hưởng khi hối phiếu đòi nợ bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán
2 Trường hợp người chuyển nhượng hoặc người bảo lãnh đã thanh toán hối phiếu đòi nợ cho người thụ hưởng sau khi hối phiếu đòi nợ bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán thì người ký phát có nghĩa vụ thanh toán cho người chuyển nhượng hoặc người bảo lãnh số tiền ghi trên hối phiếu đó
Trách nhiệm người ký phát và người ký hậu (BEA 1882)
Mục 55 Người ký phát hối phiếu cam kết rằng khi hối phiếu được xuất trình một cách phù hợp thì nó sẽ được chấp nhận và trả tiền theo đúng thời hạn ghi trên phiếu, và nếu hối phiếu bị từ chối thì anh ta sẽ hoàn trả cho người thụ hưởng hoặc bất kỳ người ký hậu nào bị buộc phải trả tiền với điều kiện là những thủ tục về việc từ chối đã được thực hiện đầy đủ
Mục 46 Nếu một hối phiếu bị từ chối thanh toán thì người cầm phiếu ngay lập tức phát sinh quyền truy đòi người ký phát và người ký hậu Ðiều 9, Công ước Geneva năm 1930
Người ký phát hối phiếu chịu trách nhiệm cho cả việc chấp nhận và thanh toán Tuy nhiên, anh ta có quyền miễn trừ trách nhiệm đối với việc chấp nhận, trong khi mọi quy định nhằm giải phóng anh ta khỏi nghĩa vụ thanh toán sẽ không có giá trị pháp lý.
Hối phiếu chỉ ghi rõ số tiền phải trả và các thông tin liên quan đến việc thanh toán, mà không nêu rõ nguyên nhân phát sinh Điều này giúp hối phiếu có hiệu lực pháp lý độc lập, không bị ràng buộc bởi bất kỳ lý do nào, ngoại trừ trường hợp hối phiếu khống, vốn không dựa trên giao dịch cơ sở Vì vậy, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu mang tính chất trừu tượng.
Hối phiếu được hình thành từ các giao dịch hợp đồng cơ sở, trong đó hối phiếu thương mại liên quan đến hợp đồng thương mại, còn hối phiếu ngân hàng dựa trên hợp đồng cung ứng dịch vụ chuyển tiền giữa ngân hàng và người yêu cầu Tuy nhiên, hối phiếu này trở thành nghĩa vụ trả tiền độc lập, không phụ thuộc vào hợp đồng cơ sở.
- Hối phiếu phải được lưu thông một cách dễ dàng
- Tính lưu thông của hối phiếu được đảm bảo bằng cách chuyển nhượng hối phiếu
* Người ký phát hối phiếu (Drawer) Định nghĩa: nhà xuất khẩu, người bán, đại diện tổ chức xuất khẩu, cung ứng dịch vụ Quyền lợi:
-Lập và ký tên vào hối phiếu
- Ký phát hối phiếu đòi tiền Người bị ký phát/Người do người bị ký phát chỉ định
- Là người hưởng lợi đầu tiên của hối phiếu
- Được chiết khấu/thế chấp hối phiếu tại Ngân hàng
- Chuyển nhượng quyền hưởng lợi hối phiếu
- Ký phát hối phiếu đúng luật, phù hợp với thực tế về giao dịch thương mại
-Trong trường hợp hối phiếu bị từ chối thanh toán: hoàn trả số tiền hối phiếu cho người hưởng lợi
Người bị ký phát hối phiếu (Drawee) là cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu Họ là những người nhận hối phiếu và phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán, có thể là người mua, người nhập khẩu hoặc một bên thứ ba được chỉ định bởi người trả tiền hối phiếu, thường là ngân hàng như ngân hàng xác nhận hoặc ngân hàng mở thư tín dụng.
- Chấp nhận hoặc từ chối thanh toán hối phiếu
- Kiểm tra sự liên tục, hợp thức của dây chuyền ký hậu chuyển nhượng hối phiếu trước khi thanh toán
- Giữ hoặc huỷ bỏ hối phiếu sau khi đã trả tiền
- Trả tiền hối phiếu trả ngay khi hối phiếu được xuất trình
- Chấp nhận thanh toán hối phiếu trả chậm và thanh toán khi đáo hạn
Người hưởng lợi (Beneficiary) là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu hợp pháp hối phiếu, có quyền nhận số tiền ghi trên hối phiếu Người thụ hưởng có thể là người ký phát hối phiếu hoặc một người được chỉ định bởi người ký phát Theo quy định về quản lý ngoại hối tại Việt Nam, trong lĩnh vực ngoại thương, người hưởng lợi thường là các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động trong lĩnh vực ngoại hối.
- Nhận được tiền thanh toán của hối phiếu
- Chuyển nhượng hối phiếu cho người khác
- Được cầm cố, thế chấp hối phiếu để vay nợ tại Ngân hàng
- Xuất trình hối phiếu đúng hạn, đúng địa chỉ thanh toán
- Thông báo kịp thời cho người trả tiền nếu hối phiếu thất lạc để ngăn chặn việc trả tiền sai đối tượng
Người ký hậu, hay còn gọi là chuyển nhượng (endorser or assignor), là cá nhân được hưởng lợi từ hối phiếu và có quyền nhượng quyền sở hữu hợp pháp cho người khác thông qua việc ký hậu.
Người chuyển nhượng đầu tiên của hối phiếu là người ký phát
Người ký hậu không chỉ cam kết rằng người trả tiền hối phiếu có nghĩa vụ trả số tiền ghi trên hối phiếu, mà còn đảm bảo sẽ thanh toán cho những người được chuyển nhượng trong trường hợp người trả tiền từ chối thanh toán.
Trách nhiệm: ràng buộc đối với người ký hậu tiếp theo và người cầm phiếu.
So sánh Luật Hối phiếu Anh (BEA 1882), Luật thống nhất Geneva về Hối phiếu và Kỳ phiếu (ULB 1930) với Luật các công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005
Nội dung hối phiếu đòi nợ
Nội dung hối phiếu đòi nợ
Lệnh đòi tiền thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán vô điều kiện một số tiền nhất định
Cách ghi số tiền trên hối phiếu
Tên và địa chỉ của người bị ký phát
Thời hạn thanh toán của hối phiếu
Tên của người thụ hưởng
Ngày tháng và địa điểm ký phát hối phiếu
Tên, địa chỉ, chữ ký của người ký phát
So sánh giữa các luật
Hối phiếu thường bao gồm 9 phần chính: (1) Tiêu đề, (2) Lệnh đòi tiền thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán vô điều kiện một số tiền nhất định, (3) Cách ghi số tiền trên hối phiếu, (4) Tên và địa chỉ của người bị ký phát, (5) Thời hạn thanh toán của hối phiếu, (6) Địa điểm thanh toán, (7) Tên của người thụ hưởng, (8) Ngày tháng và địa điểm ký phát hối phiếu, và (9) Tên, địa chỉ, chữ ký của người ký phát.
Một số quy định chung về từng mục
(2) Lệnh đòi tiền thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán vô điều kiện một số tiền nhất định
Điều 16 LCCCN Việt Nam 2005, Điều 1 ULB 1930, Mục 3 BEA 1882
Người ký phát: không được kèm theo bất kỳ điều kiện hay lý do nào, đơn thuần chỉ là lệnh thanh toán hoặc chấp nhận
Người bị ký phát: 1) Thanh toán/ chấp nhận; 2) Không thanh toán/ chấp nhận; không kèm theo bất cứ lý do nào
Trong mệnh lệnh ghi rõ thời hạn trả tiền và tên của người thụ hưởng
(3) Cách ghi số tiền trên hối phiếu
Phải được ghi bằng cả số và chữ
Số tiền bằng chữ có giá trị thanh toán trong hối phiếu đòi nợ Nếu số tiền được ghi cả bằng số và bằng chữ mà có sự khác biệt, thì số tiền nhỏ hơn được ghi bằng chữ sẽ có giá trị thanh toán.
(8) Ngày tháng và địa điểm ký phát hối phiếu là cơ sở để xác định
Thời điểm tạo lập hối phiếu
Ngày phát sinh đòi tiền của Drawer đối với Drawee
Thời hạn trả tiền hối phiếu
Luật Hối phiếu Anh (BEA
Luật thống nhất Gevena về Hối phiếu và Kỳ phiếu (ULB
Luật các công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 Điều khoản trích dẫn
Không bắt buộc, miễn là trong nội dung có diễn đạt “hối phiếu”
2005 Điều 1 ULB 1930 Khoản 4 Điều 3 BEA
1882 Quy định về lãi suất, tỷ giá và việc thanh toán nhiều lần
Có quy định về tỷ giá hối đoái và việc thanh toán nhiều lần
Có quy định về tỷ giá hối đoái và việc thanh toán nhiều lần
Chỉ có quy định về lãi suất Điều 9 BEA 1882 Điều 9,
Tên, địa chỉ của người bị ký phát
Nếu không ghi tên người bị ký phát thì hối phiếu vẫn được coi là có giá trị nếu thể hiện được một sự “rõ ràng hợp lý”
Nếu không ghi tên người bị ký phát thì hối phiếu bị coi là vô hiệu
Nếu không ghi tên người bị ký phát thì hối phiếu bị coi là vô hiệu
Khoản 1,2 Điều 16 LCCCN Việt Nam
2005 Điều 1 ULB 1930 Khoản 1 Điều 6 BEA
Thời hạn thanh toán của hối phiếu
(trong trường hợp hối phiếu trả ngay)
Thời hạn xuất trình để thanh toán hối phiếu trả ngay là một khoảng thời gian hợp lý chứ
Thời hạn xuất trình để thanh toán hối phiếu trả ngay là
Thời hạn xuất trình để thanh toán hối phiểu trả ngay là
11 ko quy định cụ thể
Khoản 1 Điều 40 BEA 1882 Địa điểm thanh toán của hối phiếu
Yêu cầu ghi rõ địa điểm thanh toán trên hối phiếu
Nếu không ghi rõ địa điểm thanh toán thì hối phiếu sẽ được thanh toán tại địa chỉ hoặc trụ sở của người bị ký phát
Nếu không ghi rõ địa điểm thanh toán, hối phiếu sẽ được thanh toán tại địa chỉ hoặc trụ sở của người bị ký phát, theo Điều 16, khoản 2 LCCCN Việt Nam.
Tên của người thụ hưởng
Nếu tên của người thụ hưởng không được ghi trên hối phiếu thì hối phiếu sẽ được thanh toán cho người cầm giữ hối phiếu
Nếu tên của người thụ hưởng không được ghi trên hối phiếu thì hối phiếu đó được coi là vô hiệu
Nếu tên của người thụ hưởng không được ghi trên hối phiếu thì hối phiếu đó được coi là vô hiệu Điều 40 LCCCN Việt Nam
Ngày tháng ký phát hối phiếu
Trường hợp hối phiếu không ghi ngày ký phát, hối phiếu vẫn có hiệu lực và sẽ được bổ sung ngày thực tế
Trường hợp hối phiếu không ghi ngày ký phát, hối phiếu bị coi là vô hiệu
Trường hợp hối phiếu không ghi ngày ký phát, hối phiếu bị coi là vô hiệu
Khoản 1,2 Điều 16 LCCCN Việt Nam
2005 Điều 1,2 ULB 1930 Địa điểm ký phát hối phiếu
Nếu hối phiếu không ghi địa điểm ký phát thì có thể suy đoán là địa chỉ bên cạnh tên người ký phát
Nếu hối phiếu không ghi địa điểm ký phát thì bị coi là vô hiệu
Nếu hối phiếu không ghi địa điểm ký phát thì bị coi là vô hiệu Điều 16 khoản 2 LCCCN Việt Nam Điều 2 ULB 1930
Trường hợp người ký phát là cơ quan, tổ chức
Yêu cầu ngoài chữ ký phải có đóng dấu
Các nghiệp vụ liên quan đến hối phiếu
II.2.1 Chấp nhận hối phiếu a Khái niệm
Chấp nhận hối phiếu là hành vi thể hiện sự đồng ý của người bị ký phát hoặc của một người khác, cam kết thanh toán số tiền trên hối phiếu vô điều kiện Điều này chỉ xảy ra khi người bị ký phát không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Điều 28 ULB 1930: Bằng việc chấp nhận hối phiếu, người bị ký phát cam kết thanh toán hối phiếu khi đến hạn
Theo Điều 4.16 của Luật CCCN, người bị ký phát cam kết sẽ thanh toán toàn bộ hoặc một phần số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ khi đến hạn Cam kết này được thực hiện bằng cách ký chấp nhận trên hối phiếu đòi nợ, theo quy định của luật.
According to Article 17.1 of the BEA 1882, the acceptance of a bill signifies the drawee's agreement to comply with the drawer's order This acceptance indicates that the drawee is willing to pay the amount specified in the bill upon its maturity, reflecting a formal agreement between the parties involved in the transaction.
Theo quy định tại ULB 1930, người ký chấp nhận là người bị ký phát hoặc một cá nhân khác đồng ý thanh toán thay cho người bị ký phát trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán Điều 19 của Luật CCCN cũng xác định rằng người ký chấp nhận là người bị ký phát Hình thức và nội dung của việc chấp nhận cần tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
Có hai hình thức chấp nhận: Một là chấp nhận trên mặt trước của hối phiếu, hai là chấp nhận bằng một văn thư riêng biệt
Người bị ký phát thể hiện sự đồng ý thanh toán hối phiếu đòi nợ bằng cách ghi các từ như "đồng ý" (agreed) hoặc "chấp nhận" (accepted), sau đó ký tên và ghi ngày tháng.
Người bị ký phát cần lập một văn bản chấp nhận riêng biệt để thể hiện sự đồng ý thanh toán, bao gồm ngày tháng và chữ ký Văn bản này có thể là giấy tờ truyền thống hoặc chứng thư điện tử Quan trọng là văn bản chấp nhận phải được gửi đến người thụ hưởng hối phiếu đòi nợ.
Nội dung của chấp nhận Điều 25 ULB 1930:
Chấp nhận hối phiếu cần được ghi rõ trên tài liệu, thường được thể hiện bằng cụm từ "Đã chấp nhận" hoặc các thuật ngữ tương tự Người trả tiền phải ký tên vào hối phiếu, và một chữ ký đơn giản trên mặt hối phiếu cũng đủ để xác nhận sự chấp nhận.
Trong trường hợp không ghi ngày chấp nhận, hối phiếu sẽ được coi là vô hiệu nếu có yêu cầu về khoảng thời gian nhất định để thanh toán hoặc xuất trình Do đó, việc ghi ngày chấp nhận không phải là bắt buộc.
Theo Điều 21 Luật CCCN, việc chấp nhận là vô điều kiện cho phép những người trả tiền có thể chấp nhận một phần số tiền đã thanh toán Mọi sự chấp nhận thay đổi nội dung của hối phiếu sẽ được coi là sự chấp nhận của người đó.
Người bị kí phát thực hiện chấp nhận hối phiếu đòi nợ bằng cách ghi tên, cụm từ “chấp nhận”, ngày chấp nhận và chữ ký lên mặt trước của hối phiếu Nếu thiếu ngày chấp nhận hoặc chữ ký, việc chấp nhận sẽ bị coi là vô hiệu.
Có thể chấp nhận từng phần, chấp nhận phải vô điều kiện nếu không thì chấp nhận vô hiệu
Khi chỉ chấp nhận thanh toán một phần số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ, người bị ký phát cần ghi rõ số tiền đã được chấp nhận.
Chấp nhận hối phiếu được coi là vô hiệu nếu thiếu một trong các điều kiện sau:
Chấp nhận hối phiếu cần được ghi rõ và phải có chữ ký của người bị ký phát Chữ ký đơn giản, không kèm theo từ bổ sung, vẫn được coi là hợp lệ.
Không được phép biểu thị rằng người bị ký phát sẽ thực hiện cam kết thanh toán bằng bất kỳ phương tiện nào khác ngoài việc thanh toán tiền
Bắt buộc ghi đầy đủ trên mặt trước của hối phiếu từ “đã chấp nhận” + ngày chấp nhận + chữ ký
Ghi chấp nhận + ký tên là đã tạo thành sự chấp nhận hợp lệ
Ghi chấp nhận + ký tên là đã tạo thành sự chấp nhận hợp lệ
Nếu không ghi đủ ngày ký chấp nhận thì hối phiếu vô hiệu
Không nhất thiết phải ghi ngày ký chấp nhận trên hối phiếu Tuy nhiên, nếu hối phiếu yêu cầu một khoảng thời gian cụ thể để thanh toán hoặc xuất trình mà người ký chấp nhận không ghi ngày, thì hối phiếu sẽ trở nên vô hiệu.
Không đề cập ngày ký chấp nhận d Thời hạn xuất trình hối phiếu
Đối với hối phiếu trả chậm: Theo điểm b khoản 1 Điều 18 CCCN và Điều 23 ULB
Năm 1930, thời gian để xuất trình hối phiếu nhằm yêu cầu chấp nhận là 1 năm, nếu thời hạn thanh toán hối phiếu được ấn định vào một thời điểm cụ thể sau khi xuất trình.
Đối với hối phiếu quá hạn thanh toán: Khoản 2 Điều 18 Luật CCCN và ULB 1930 quy định vô hiệu e Thời hạn chấp nhận
Theo Điều 19 CCCN, thời gian chấp nhận hối phiếu là 2 ngày kể từ ngày xuất trình Nếu hối phiếu được gửi qua thư bảo đảm bằng mạng bưu chính công cộng, thời hạn sẽ bắt đầu từ ngày người bị ký phát xác nhận đã nhận hối phiếu.
ULB 1930: Không đề cập đến vấn đề này
Điều 17.1 BEA 1882: Time for acceptance
1 before it has been signed by the drawer, or while otherwise incomplete (Trước khi nó được ký bởi người ký phát, hoặc trong khi không đầy đủ)
Tình huống
Tình huống
Vào ngày 01/08/2010, công ty A tại Việt Nam đã ký hợp đồng nhập khẩu thức ăn gia súc từ công ty D ở Thái Lan, với phương thức thanh toán nhờ thu trả chậm 60 ngày Ngày 08/08/2010, công ty D đã giao hàng và lập bộ chứng từ, hối phiếu, sau đó chuyển đến ngân hàng ThaiBank để thu hộ tiền từ công ty A Sau khi nhận chỉ thị nhờ thu từ công ty A, ThaiBank đã lập chỉ thị nhờ thu và chuyển toàn bộ chứng từ cùng hối phiếu đến Agribank HCM để thu hộ tiền Agribank HCM đã nhận bộ chứng từ và chỉ thị nhờ thu vào ngày 12/08/2010 và ngay lập tức thông báo cho công ty A.
Vào ngày 13/08/2010, Công ty A nhận được hối phiếu nhưng quyết định chưa ký chấp nhận thanh toán do tàu chưa cập cảng Sau khi nhận được thông báo từ hãng tàu vào ngày 15/09/2010 về việc tàu sẽ cập cảng vào ngày 18/09/2010, Công ty A đã quyết định ký chấp nhận thanh toán tờ hối phiếu để đổi lấy chứng từ nhận hàng.
Theo bạn, những hành động này của công ty A có hợp lệ hay không? Tại sao?
Phân tích
vTheo luật công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005
Theo Điều 18, khoản b, điểm 1, hối phiếu đòi nợ có thời hạn thanh toán phải được xuất trình yêu cầu chấp nhận trong vòng một năm kể từ ngày ký phát Trong trường hợp này, hối phiếu là loại trả chậm với thời hạn thanh toán 60 ngày sau ngày xuất trình Ngày ký phát hối phiếu là 08/08/2010 và ngày xuất trình là 13/08/2010.
Như vậy việc xuất trình hối phiếu đòi nợ để yêu cầu chấp nhận của công ty D là hợp lệ.
Theo Điều 19, người bị ký phát phải chấp nhận hoặc từ chối hối phiếu đòi nợ trong vòng hai ngày làm việc kể từ ngày hối phiếu được xuất trình Trong trường hợp này, hối phiếu được xuất trình vào ngày 13/08/2010, nhưng công ty A chỉ ký chấp nhận thanh toán vào ngày 18/09/2010, cho thấy sự chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ.
23 hối phiếu này đã không được công ty A ký chấp nhận trong thời hạn quy định nên hối phiếu đã bị coi là từ chối chấp nhận.
Do đó, những hành động này của công ty A là không hợp lệ theo luật công cụ chuyển nhượng. vTheo luật Hối phiếu của Thái Lan:
Theo Điều 928, người nắm giữ hối phiếu đòi nợ có thời hạn thanh toán vào một ngày nhất định sau khi nhìn thấy phải xuất trình hối phiếu để được chấp nhận trong vòng sáu tháng kể từ ngày ký phát.
Như vậy việc xuất trình hối phiếu để chấp nhận của công ty A là hợp lệ.
Theo Điều 931, sự chấp nhận hối phiếu được ghi trên mặt hối phiếu đòi nợ, thể hiện qua từ "chấp nhận" hoặc các thuật ngữ tương đương khác, và phải được ký bởi người bị ký phát Chỉ có chữ ký của người bị ký phát trên bề mặt hối phiếu mới tạo thành sự chấp nhận hợp lệ.
Theo luật Thái Lan, không có quy định bắt buộc về thời hạn chấp nhận hối phiếu, vì vậy việc Công ty A ký chấp nhận vào ngày 18/09/2010 là hợp lệ, miễn là có đủ chữ ký của Công ty A (người bị ký phát) cùng với cụm từ "đã chấp nhận" hoặc thuật ngữ tương tự.
Theo quy định tại Điều 23 của ULB 1930, những hối phiếu phải được xuất trình để xin chấp nhận trong vòng một năm kể từ ngày ký phát Thời hạn này có thể được điều chỉnh bởi người ký phát, cho phép rút ngắn hoặc kéo dài thời gian Ngoài ra, những người ký hậu cũng có quyền rút ngắn thời hạn xuất trình.
Như vậy việc xuất trình hối phiếu để thanh toán ở trường hợp này là hợp lệ.
Về thủ tục chấp nhận ULB qui định:
Điều 25 quy định rằng việc chấp nhận hối phiếu phải được ghi rõ trên đó, thường bằng cụm từ "đã chấp nhận" hoặc các thuật ngữ tương tự Người trả tiền cần ký tên trực tiếp trên mặt hối phiếu để xác nhận sự chấp nhận.
Khi hối phiếu được thanh toán sau khi xuất trình hoặc cần xuất trình để xin chấp nhận trong thời gian quy định, việc chấp nhận phải ghi rõ ngày tháng và ngày hối phiếu được chấp nhận, trừ khi người cầm giữ yêu cầu ghi ngày tháng xuất trình.
Do ULB không quy định thời hạn bắt buộc cho việc chấp nhận hối phiếu, nên chữ ký chấp nhận của Công ty A vào ngày 18/09/2010 là hợp lệ, miễn là có đầy đủ chữ ký của Công ty A, cụm từ “đã chấp nhận” hoặc thuật ngữ tương tự, cùng với ngày chấp nhận Điều này áp dụng cho hối phiếu có kỳ hạn thanh toán là 60 ngày kể từ ngày xuất trình.
Từ việc phân tích tính hợp lệ của hành động chấp nhận hối phiếu của Công ty A theo ba nguồn luật, có thể kết luận rằng có sự mâu thuẫn về tính hợp lệ giữa Luật Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 và Luật Hối phiếu của Thái Lan Tuy nhiên, cả Việt Nam và Thái Lan đều áp dụng ULB 1930, với Việt Nam áp dụng từ năm 1937 và Thái Lan từ năm 1954 Do đó, trong trường hợp có xung đột giữa hai nguồn luật này, ULB 1930 sẽ được ưu tiên áp dụng.
Kết luận: Hành vi ký chấp nhận hối phiếu của công ty A là hoàn toàn hợp lệ.