TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC BẰNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ 8 1.1 S ự cần thiết và bản chất của tín dụng nhà nước
Khái quát nguồn gốc ra đời, phát triển và sự caàn thieỏt cuỷa tớn duùng nhà nước
sự cần thiết của tín dụng nhà nước
Quan hệ tín dụng chỉ hình thành khi có đủ các điều kiện kinh tế và xã hội Khi ý thức phân công lao động xuất hiện, năng suất lao động tăng lên và trao đổi hàng hóa phát triển, dẫn đến sản phẩm dư thừa và sự phân hóa giai cấp trong xã hội Sự phân hóa này tạo ra tình trạng một số cá nhân sống trong thiếu thốn trong khi những người khác lại dư thừa tài sản Từ đó, nhu cầu vay mượn giữa hai nhóm này xuất hiện, hình thành mối quan hệ tín dụng.
Trước khi tín dụng ngân hàng (TDNN) ra đời, đã tồn tại nhiều loại hình tín dụng khác như tín dụng cho vay nặng lãi và tín dụng thương mại TDNN hình thành từ mâu thuẫn giữa thu và chi ngân sách nhà nước (NSNN), trong bối cảnh sự tan rã của chế độ Công xã Nguyên thủy và sự xuất hiện của Nhà nước NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho Nhà nước thực hiện các chức năng kinh tế, chính trị và xã hội Tuy nhiên, mất cân đối NSNN là hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia do các nguyên nhân khách quan và chủ quan Để bù đắp thiếu hụt ngân sách, các nhà nước phong kiến thường tăng thuế hoặc phát động chiến tranh xâm lược, nhưng điều này có thể dẫn đến xáo trộn chính trị và thay đổi triều đại Do đó, Nhà nước phong kiến cần tìm kiếm giải pháp chiến lược lâu dài và tích cực hơn để giải quyết tình trạng bội chi NSNN.
Cuối thế kỷ 19, nền kinh tế chuyển từ tự do cạnh tranh sang hiện đại, dẫn đến sự phát triển của quan hệ vay mượn giữa các quốc gia để bù đắp ngân sách Ban đầu, chỉ có quan hệ vay giữa các quốc gia, nhưng sau đó, Nhà nước trở thành cả người đi vay và cho vay cho mọi tầng lớp dân cư Sự phát triển này đã tạo ra hình thức tín dụng TDNN, mở rộng và hoàn thiện theo nhu cầu của nền kinh tế xã hội Quan hệ TDNN được thể hiện qua các hiệp định vay nợ và khế ước vay TPCP ra đời như một công cụ huy động vốn hiệu quả cho Nhà nước, trở thành hàng hóa chủ chốt trên thị trường chứng khoán TPCP ban đầu có hình thức đơn giản, nhưng theo xu hướng phát triển tài chính quốc gia và hội nhập quốc tế, các loại hình TPCP ngày càng đa dạng và hoàn thiện để tối đa hóa khả năng huy động vốn từ công chúng.
Tín dụng nhà nước (TDNN) là một phần quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa, xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội Nhà nước, như một chủ thể kinh tế, thường xuyên đối mặt với tình trạng mất cân đối thu chi ngân sách nhà nước (NSNN), thể hiện qua sự không khớp giữa thu và chi trong một khoảng thời gian nhất định TDNN đóng vai trò then chốt trong việc bù đắp thâm hụt NSNN và bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội Các hình thức huy động vốn TDNN ngày càng đa dạng, giúp giải quyết tạm thời hoặc tài trợ dài hạn cho các khoản đầu tư Sử dụng TDNN hiệu quả không chỉ giúp bù đắp thâm hụt NSNN mà còn đảm bảo nguồn vốn cho các mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước, từ đó tạo ra tăng trưởng bền vững, cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và xây dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh.
1.1.2 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của tín dụng nhà nước
1.1.2.1.Khái niệm tín dụng nhà nước
TDNN phản ánh mối quan hệ vay mượn giữa Nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, cũng như giữa Nhà nước với các chủ thể khác Mối quan hệ này bao gồm các hoạt động đi vay và cho vay, thể hiện sự tương tác tài chính đa dạng trong nền kinh tế.
Trong bối cảnh tài chính hiện nay, có 10 thể chế trong và ngoài nước tham gia phát hành tín phiếu, trái phiếu Chính phủ (TPCP), chứng chỉ đầu tư và ký kết các hiệp định vay nợ Quan hệ vay mượn này tuân theo nguyên tắc hoàn trả, có thời hạn và lãi suất Nhà nước không chỉ là bên đi vay mà còn là bên cho vay, nhằm tài trợ cho các chương trình và mục tiêu trọng điểm quốc gia Một phần nguồn vốn từ tín dụng nhà nước (TDNN) được huy động để phục vụ cho các dự án phát triển.
Chính phủ sử dụng 10% ngân sách nhà nước để bù đắp thiếu hụt, phần lớn còn lại được đầu tư cho các chương trình mục tiêu phát triển Việc bù đắp thâm hụt là điều bình thường ở nhiều quốc gia, cho phép chính phủ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và tài trợ cho các dự án lớn Điều này trở nên cần thiết khi khu vực tư nhân thiếu vốn và khả năng kinh doanh, đồng thời giúp thúc đẩy tăng trưởng và phân bổ kinh tế hiệu quả hơn.
1.1.2.2 Bản chất tín dụng nhà nước
TDNN, hay Tín dụng Nhà nước, là một khái niệm kinh tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, liên quan đến hoạt động của ngân sách nhà nước Nó thể hiện mối quan hệ sử dụng vốn giữa các Nhà nước và giữa Nhà nước với các chủ thể khác, cả trong và ngoài nước, dựa trên nguyên tắc hoàn trả Mối quan hệ này được thiết lập giữa người vay và người cho vay, có thể dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật, và dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau Ngoài ra, TDNN còn được hiểu là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng và lợi ích chung cho cả hai bên.
TDNN thể hiện sự chuyển dịch tạm thời vốn nhàn rỗi hoặc đầu tư từ công chúng và các tổ chức kinh tế, xã hội vào ngân sách nhà nước (NSNN) Đồng thời, nó cũng phản ánh việc chuyển giao tạm thời nguồn vốn huy động từ NSNN sang các chủ thể được phép vay nợ cho các chương trình, dự án do Nhà nước định hướng Bản chất xã hội của TDNN cho thấy Nhà nước vừa là chủ thể đi vay, vừa thực hiện vai trò cho vay, đóng vai trò chủ thể tín dụng quyết định.
33 định bản chất giai cấp của TDNN thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đối với nhân dân thông qua các hình thức cho vay tài trợ với lãi suất thấp hoặc không có lãi suất Mục tiêu chính của việc vay nợ qua TDNN là phục vụ cho các chương trình trọng điểm quốc gia, nhằm mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
1.1.2.3 Đặc điểm tín dụng nhà nước
Việc huy động và sử dụng vốn trong hình thức tín dụng ngân hàng (TDNN) thường kết hợp hài hòa giữa các nguyên tắc tín dụng và chính sách tài chính của Nhà nước Mặc dù quan hệ TDNN dựa trên các nguyên tắc như tự nguyện, có lãi, có thời hạn và hoàn trả, nhưng áp lực cân đối ngân sách nhà nước và nhu cầu vốn cho phát triển có thể dẫn đến việc không tuân thủ nguyên tắc tự nguyện Để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước có thể áp dụng quyền lực chính trị để thiết lập mối quan hệ tín dụng với các chủ thể nhất định, nhằm cân đối ngân sách hoặc tập trung vốn cho các chương trình quan trọng, mang lại lợi ích cho cộng đồng Đây là một đặc điểm cơ bản của TDNN.
Phạm vi huy động vốn của TDNN rất đa dạng, bao gồm cả nguồn vốn trong nước và ngoài nước Trong nước, TDNN có khả năng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ mọi tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế khác nhau Ở thị trường quốc tế, nhờ vào uy tín của Chính phủ, TDNN có thể vay vốn từ các Chính phủ, tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế, đồng thời huy động tiết kiệm từ cư dân nước ngoài.
Hình thức huy động vốn của các tổ chức tài chính nhà nước rất đa dạng, cho phép thu hút vốn bằng cả hiện vật và tiền mặt, tùy thuộc vào nhu cầu phát triển của quốc gia và từng giai đoạn cụ thể.
Phương thức huy động vốn đa dạng, linh hoạt như : phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu, công trái, ký kết hiệp định vay nợ .
TDNN chứa đựng cả nội dung kinh tế và chính trị, với lợi ích kinh tế thể hiện qua lợi tức tiền vay và tiện ích công cộng do Nhà nước đầu tư Tính cưỡng chế của TDNN xuất hiện khi Nhà nước quy định mức huy động bắt buộc đối với chủ thể trong nước, thường chỉ áp dụng trong tình huống khẩn cấp như chiến tranh hoặc khi cần đầu tư vào các công trình trọng điểm Tính chính trị của TDNN phản ánh mức độ tín nhiệm của dân cư đối với Chính phủ, được củng cố khi Nhà nước thanh toán nợ đúng hạn và sử dụng vốn vay hiệu quả Trong quan hệ đối ngoại, TDNN cũng thể hiện qua sự hợp tác chính trị và ngoại giao giữa nước cho vay và nước đi vay.
1.2 VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1 Vai trò huy động vốn góp phần bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước
Hiện tượng mất cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước (NSNN) diễn ra thường xuyên do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan Sự mất cân đối này có thể là tạm thời hoặc kéo dài, tùy thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của mỗi giai đoạn, và nó gây ra những tác động nhất định đến tài chính quốc gia Để khắc phục tình trạng thiếu hụt NSNN mà không thể cắt giảm chi tiêu, các quốc gia cần xem xét các giải pháp như phát hành thêm tiền, vay nợ, tăng thuế hoặc bán tài sản quốc gia.
Các hình thức huy động vốn tín dụng nhà nước và mối quan hệ giữa các hình thức huy động vốn tín dụng nhà nước
NHÀ NƯỚC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC HÌNH
THỨC HUY ĐỘNG VỐN TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
1.3.1.Các hình thức huy động vốn tín dụng nhà nước
1.3.1.1.Tài trợ phát triển chính thức (Official Development
Tài trợ phát triển chính thức ODA là hình thức huy động vốn từ nguồn tài trợ phát triển của các Chính phủ nước ngoài, nhằm hỗ trợ phát triển thông qua các tổ chức Chính phủ Nguồn vốn ODA không chỉ bổ sung vào đầu tư phát triển mà còn cải thiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại, các khoản vay với lãi suất ưu đãi, khối lượng vốn vay và thời hạn thanh toán linh hoạt.
Nguồn vốn ODA có lợi thế về lãi suất thấp và khả năng không phải hoàn trả vốn gốc trong trường hợp viện trợ không hoàn lại Tuy nhiên, các quốc gia nhận viện trợ phải đối mặt với gánh nặng nợ quốc gia trong tương lai và các điều kiện ràng buộc khắt khe về thủ tục chuyển giao vốn, cũng như các yếu tố chính trị Mỗi tổ chức và chính phủ có phương thức riêng trong việc cung cấp ODA nhằm đạt được mục tiêu riêng Những điều kiện chính trị có thể hạn chế khả năng nhận viện trợ và hiệu quả sử dụng trong các thể chế chính trị khác nhau Các tổ chức như IMF và Ngân hàng Thế giới yêu cầu nước nhận tài trợ thực hiện các chương trình điều chỉnh kinh tế theo khuôn khổ cứng nhắc, có thể dẫn đến cả hệ quả tích cực và tiêu cực Hệ quả tích cực xảy ra khi vốn ODA được quản lý hiệu quả, lãi suất ưu đãi và mục tiêu phù hợp với đặc thù kinh tế - chính trị - xã hội của quốc gia Ngược lại, hệ quả tiêu cực sẽ xuất hiện khi các chương trình không tương thích với tình hình thực tế của nước nhận.
Chính trị – xã hội của quốc gia nhận vốn ODA có thể tạo ra gánh nặng tài chính, chủ yếu là lãi suất và khoản nợ phải trả trong tương lai, dễ bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ giá Kết quả đầu tư không đạt yêu cầu hoặc không tương xứng với vốn đầu tư có thể gây ra xáo trộn kinh tế xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến đường lối chính trị Tệ nạn tham nhũng và thất thoát vốn trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA ở các quốc gia đang phát triển làm gia tăng rủi ro chậm giải ngân hoặc thu hồi vốn Hơn nữa, nguồn vốn ODA sẽ không còn khi quốc gia đạt được tăng trưởng và phát triển, thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
1.3.1.2 Vay nợ ngân hàng Đây là hình thức vay thương mại được biểu hiện bằng việc Nhà nước tiến hành vay nợ từ các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước hoặc vay nợ NHTƯ trong nước Đây là hình thức TDNN mà ngân hàng và các tổ chức kinh doanh tiền tệ cho Nhà nước vay nhận được cam kết trả nợ của Nhà nước nhưng không thể mua bán,chuyển nhượng được như TPCP Nhà nước để tiếp cận được nguồn vốn vay buộc phải tuân thủ các điều kiện qui định chặt chẽ của TTTT trong và ngoài nước.
Thời hạn cho vay nợ thường ngắn hạn và lãi suất vay phụ thuộc vào lãi suất của thị trường tài chính trong và ngoài nước So với các hình thức tín dụng ngân hàng khác, lãi suất vay ngân hàng thường cao nhất, tạo ra chi phí mà Nhà nước phải chấp nhận Điều này khiến nguồn vay từ ngân hàng khó có thể được sử dụng cho đầu tư phát triển dài hạn do cần phải tính toán hiệu quả sử dụng vốn Vay ngân hàng cũng chịu sự ràng buộc chặt chẽ từ các điều kiện thị trường tài chính và có thể gặp rủi ro do thay đổi quy định Khi vay nợ ngân hàng, Nhà nước cần cân nhắc các điều kiện vay trả, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng trả nợ Vay nợ thương mại nên được coi là lựa chọn cuối cùng trong tình huống khẩn cấp khi các hình thức tín dụng khác không đáp ứng đủ nhu cầu vay kịp thời cho ngân sách Nhà nước.
1.3.1.3 Phát hành trái phiếu chính phủ Đây là hình thức huy động vốn TDNN thông qua việc phát hành chứng khoán nợ dưới dạng TPCP để vay nợ của công chúng trong và ngoài nước So với hình thức huy động vốn ODA và vay ngân hàng thì TPCP có phạm vi huy động vốn rộng rãi và linh hoạt hơn Quốc gia không những có thể phát hành TPCP để vay nợ trong nước mà còn có khả năng phát hành trái phiếu để vay nợ trên TTCK quốc tế Chính phủ có thể chủ động sử dụng nguồn vốn vay nợ bằng TPCP theo kế hoạch tài khóa quốc gia mà không phải chịu sự chi phối, giám sát của các chủ thể cho vay.Một đặc điểm nổi bậc của TPCP so với các hình thức tín dụng khác là TPCP có khả năng trao đổi, người cho vay không nhất thiết phải nắm giữ trái phiếu cho đến khi đáo hạn mà hoàn toàn có thể chuyển nhượng trái phiếu trên thị trường thứ cấp để thu hồi vốn Bằng cách này, TPCP tạo điều kiện vay nợ dài hạn cho Nhà nước trong khi người cho vay vẫn có thể thu hồi vốn vào bất cứ thời điểm nào trên một TTCK thứ cấp phát triển TPCP với mức rủi ro thấp đã trở thành hàng hóa chủ chốt trên các TTCK trong nước Bên cạnh đó, việc TPCP thâm nhập TTCK quốc tế sau khi đã tuân thủ hàng loạt các qui định, thông lệ quốc tế của thị trường thế giới sẽ trở thành công cụ tiên phong dẫn bước cho việc phát hành trên TTCK quốc tế của các loại chứng khoán còn lại Tuy vậy, việc tìm kiếm vốn trên TTTC quốc tế vẫn có nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là các tiêu chuẩn tín nhiệm của chứng khoán để được chấp nhận giao dịch tại các TTTC quốc tế Vay nợ bằng TPCP cũng tạo ra gánh nặng nợ trong tương lai cho quốc gia nên khối lượng nợ vay luôn bị giới hạn và phải có kế hoạch trả nợ cùng lãi suất Vì vậy, quốc gia chủ động hơn trong thanh toán nợ vay TPCP bằng khả năng phát hành trái phiếu mới để đảo nợ. Đảo nợ cũ bằng nợ mới có thể vừa thực hiện bằng trái phiếu phát hành trong nước lẫn trái phiếu phát hành qua thị trường quốc tế Với phạm vi huy động vốn rộng lớn, TPCP có thể được đánh giá là công cụ có đủ khả năng khai thác “nội lực” và tận dụng “ngoại lực” Với sự chuyên môn hóa về mua bán các loại chứng khoán, TTCK được xem như một phương thức hiệu quả huy động nguồn vốn trong và ngoài nước, tạo ra nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho nền kinh tế TPCP là chứng khoán được phát hành, thanh toán với khối lượng lớn, TPCP đã tham gia vào quá trình kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, đặc biệt là thoõng qua nghieọp vuù “TTM”. Ưu điểm của TPCP là không thể phủ nhận, nhưng mặt trái của nó không phải là không có Sự biến động về giá cả trái phiếu do các nhà đầu cơ thao túng thị trường tạo nên kinh tế ảo hoặc bong bóng rất nguy hiểm và làn sóng khủng hoảng tài chính-tiền tệ có thể xảy ra bất cứ lúc nào Khác với khoản vay ODA và vay nợ ngân hàng, khi vay nợ bằng TPCP thì quốc gia đã trở thành chủ sở hữu thực sự đối với khoản nợ vay, chủ nợ không có quyền can thiệp vào mục đích và quá trình sử dụng vốn của quốc gia vay nợ Quốc gia vay nợ hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn vay không có sự bó buộc phải thực hiện các mục tiêu, chính sách kinh tế, ràng buộc về mục đích sử dụng vốn hoặc các ràng buộc về chính trị để được vay nợ Chính phủ vay nợ chủ động sử dụng khoản tiền vay để thực hiện các chính sách, dự án mà không bị lệ thuộc vào chương trình, dự án phải tuân thủ như ODA, không phải tuân thủ những điều kiện ràng buộc của TTTT để vay nợ ngân hàng.
1.3.2 Mối quan hệ tương quan giữa các hình thức huy động vốn tín dụng nhà nước
Hình thức huy động vốn từ các tổ chức tín dụng ngân hàng (TDNN) phản ánh mối quan hệ tài chính phức tạp trong nền kinh tế - xã hội Những mối quan hệ này không chỉ mang tính chất hợp tác mà còn thể hiện sự cạnh tranh và đối kháng giữa các phương thức huy động vốn khác nhau Sự tương tác này tạo nên một hệ thống tài chính đa dạng, nơi các yếu tố hợp tác và cạnh tranh cùng tồn tại và ảnh hưởng lẫn nhau.
Quan hệ hợp tác đầu tiên trong phát triển kinh tế-xã hội quốc gia là chia sẻ gánh nặng vay nợ Các hình thức huy động vốn như ODA, vay ngân hàng và TPCP đóng góp quan trọng vào việc huy động vốn cho quốc gia Để đạt kế hoạch huy động vốn, quốc gia cần khai thác tối đa tiềm năng của từng hình thức Mỗi hình thức vay nợ có ưu và nhược điểm riêng, giúp giảm bớt gánh nặng vay nợ cho các hình thức khác Cụ thể, khi huy động vốn từ TPCP hiệu quả, sẽ giảm áp lực vay ODA cho đầu tư dài hạn và hạn chế vay ngân hàng bù đắp thâm hụt ngân sách Ngược lại, sự gia tăng vốn ODA sẽ kết hợp với nguồn vốn từ TPCP để đầu tư phát triển, giảm bớt gánh nặng và chi phí lãi suất của TPCP và vay ngân hàng.
Quan hệ hợp tác tiếp theo chính là mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các hình thức huy động vốn Huy động bằng
20 ngoại tệ từ ODA, vay ngân hàng và TPCP sẽ nâng cao dự trữ ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá Nguồn vốn này sẽ giảm áp lực mất giá nội tệ, đồng thời làm tăng nợ bằng ngoại tệ phải trả trong tương lai cho các hình thức huy động vốn.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) sẽ giúp giảm gánh nặng chi ngân sách nhà nước trong nhiều lĩnh vực, vốn thường do Nhà nước đảm nhận Hiệu quả từ việc sử dụng vốn ODA và vay ngân hàng không chỉ thúc đẩy sự phát triển vi mô và vĩ mô của nền kinh tế-xã hội mà còn nâng cao hệ số tín nhiệm của TPCP Đồng thời, TPCP cũng cung cấp vốn đối ứng cần thiết để giải ngân ODA kịp thời Thêm vào đó, TPCP tham gia vào các nghiệp vụ thị trường tiền tệ, góp phần thực thi chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng nội tệ, và ngăn ngừa sự gia tăng tỷ giá hối đoái cũng như nợ ODA và nợ ngân hàng bằng ngoại tệ trong tương lai.
Quan hệ cạnh tranh giữa các hình thức huy động vốn từ nguồn tài chính nhà nước (TDNN) không chỉ thể hiện sự đối kháng mà còn có yếu tố hợp tác Vốn ODA, vay ngân hàng và trái phiếu không chỉ giúp giảm gánh nặng nợ cho các hình thức huy động khác mà còn tạo ra sự cạnh tranh lẫn nhau Ưu điểm của từng hình thức sẽ lấn át nhược điểm của hình thức còn lại, buộc các quốc gia phải lựa chọn hình thức vay nợ phù hợp nhất trong những hoàn cảnh cụ thể.
Sự giảm sút trong huy động vốn ODA, vay ngân hàng và trái phiếu chính phủ đã tạo ra áp lực lên các hình thức huy động vốn Điều này dẫn đến việc chuyển đổi giữa các hình thức vay nợ, chẳng hạn như từ ODA sang vay trái phiếu hoặc từ trái phiếu sang ODA khi cần vốn ngắn hạn để bù đắp mất cân đối Nếu thị trường tín phiếu kho bạc hoạt động hiệu quả, sẽ giảm nhu cầu vay ngân hàng trong các trường hợp khẩn cấp, đặc biệt khi huy động vốn từ trái phiếu chính phủ chưa đủ.
Vốn ODA thường đi kèm với những điều kiện ràng buộc không phù hợp với đặc điểm kinh tế và thể chế chính trị của quốc gia nhận viện trợ Điều này, cùng với việc vay ngân hàng không mang lại hiệu quả đầu tư, đã tạo ra áp lực lớn trong việc vay nợ thông qua trái phiếu Chính phủ (TPCP) để bù đắp hậu quả Hệ quả là, các khoản vay này không chỉ hỗ trợ cho các hình thức ODA mà còn được sử dụng để trả nợ vay ngân hàng khi đến hạn.
Trái phiếu Chính phủ (TPCP) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nội địa và hội nhập với thị trường quốc tế Việc thu hút nhà đầu tư gián tiếp thông qua phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế và nội địa không chỉ giúp huy động vốn hiệu quả mà còn tránh được những ràng buộc từ ODA và áp lực lãi suất cao khi vay ngân hàng.
Việc phát hành TPCP với khối lượng lớn để huy động vốn cho NSNN có thể ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, đặc biệt khi Chính phủ áp dụng lãi suất TPCP cao hơn lãi suất tiền gửi Điều này buộc ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi để cạnh tranh thu hút vốn nhàn rỗi NHTƯ vừa mua TPCP vừa cho NSNN vay để bù đắp thâm hụt và đảm bảo chi tiêu kịp thời TPCP mà NHTƯ mua vào trở thành cơ sở để phát hành tiền, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ sở phát hành tiền của NHTƯ Mục đích chính của NHTƯ khi mua hoặc bán TPCP không phải là lợi nhuận mà là điều hòa lưu thông tiền tệ nhằm đạt các mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia Nếu Chính phủ phát hành quá nhiều TPCP, NHTƯ sẽ gặp khó khăn trong việc điều hòa lưu thông tiền tệ, dẫn đến tăng lượng tiền mặt trong lưu thông và tiềm ẩn rủi ro lạm phát cho nền kinh tế.
1.4 CÁC PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN TÍN
DỤNG NHÀ NƯỚC BẰNG TRÁI PHIẾU CHÍNH
1.4.1.Khái niệm trái phiếu chính phủ
Những bài học kinh nghiệm về huy động vốn bằng trái phiếu chính phủ ở một số nước trên thế giới
1.8.1 Thị trường trái phiếu ở Vương quốc Anh
Chứng khoán viền vàng, hay trái phiếu do Chính phủ Anh phát hành, được biết đến với đặc điểm ban đầu là viền vàng xung quanh Trái phiếu Chính phủ Anh chủ yếu được phát hành và giao dịch trên thị trường chứng khoán, không phân tán qua nhiều kênh như ở các quốc gia khác, nhằm hạn chế cạnh tranh và tối ưu hóa khả năng huy động vốn Mặc dù không được đảm bảo bằng tài sản thực, nhà đầu tư vẫn đặt niềm tin vào uy tín của Chính phủ trong việc cam kết trả lãi và hoàn trả trái phiếu khi đến hạn Với nền kinh tế phát triển và tiềm lực tài chính vững mạnh, trái phiếu Chính phủ Anh có mức độ rủi ro thấp nhất, trở thành khoản đầu tư an toàn nhất trên thị trường chứng khoán, thu hút nhà đầu tư muốn phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư của họ.
TPCP Anh là loại chứng khoán có lãi suất cố định, mặc dù Chính phủ Anh đã phát hành trái phiếu có lãi suất biến động vào năm 1970 nhưng sau đó đã ngừng phát hành Lãi suất cố định của trái phiếu vẫn bị ảnh hưởng bởi lạm phát, dẫn đến sự biến động giá cả trên thị trường so với mệnh giá Thông thường, lãi suất được thanh toán nửa năm một lần, điều này giúp giảm rủi ro tái đầu tư Ví dụ, trái phiếu lãi suất 10% thanh toán cuối năm sẽ có tỷ lệ thu hồi vốn thấp hơn so với trái phiếu lãi suất 6 tháng một lần với mức 5% Cách thức trả lãi định kỳ và sự biến động giá cả đã thu hút nhiều nhà đầu tư, với thị phần TPCP Anh chiếm gần 50% trên TTCK Năm 1987, thị trường TPCP Anh rất sôi động, với doanh số hàng ngày đạt 4 tỷ bảng Anh, gấp đôi doanh số thị trường cổ phiếu, khẳng định vị trí chủ chốt của TPCP trên TTCK.
Thị trường cấp 2 cho phép giao dịch trái phiếu, tăng tính thanh khoản cho trái phiếu trên thị trường chứng khoán Trái chủ có thể dễ dàng chuyển đổi trái phiếu thành tiền, khuyến khích cả việc nắm giữ và giao dịch trái phiếu Giao dịch trái phiếu diễn ra 24 giờ, với thanh toán vào ngày làm việc tiếp theo, tạo mức độ thanh khoản cao hơn so với thị trường cổ phiếu Để ổn định thị trường, Anh áp dụng hai cơ chế: một là cho phép các môi giới kinh doanh tiền tệ hỗ trợ giao dịch bằng cách cho vay trái phiếu hoặc tiền mặt; hai là sự tham gia của các cơ quan chính phủ thông qua người môi giới của Chính phủ, giúp duy trì hoạt động của thị trường.
Vụ phát hành đã được chuẩn bị sẵn sàng để bán và/hoặc mua chứng khoán của các nhà buôn bán trái phiếu khi tình huống đòi hỏi.
Sự phân biệt giữa người môi giới và người buôn bán chứng khoán đã biến mất, dẫn đến sự xuất hiện của các tổ chức kinh doanh-môi giới mới Ngân hàng Anh công nhận những tổ chức này là những người tạo ra thị trường trái khoán viền vàng (GEMMS), đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập một thị trường định giá liên tục cho loại chứng khoán này Đồng thời, vai trò của người môi giới Chính phủ như một trung gian giữa các cơ quan thẩm quyền và thị trường đã bị bãi bỏ, cho phép GEMMS tiếp cận trực tiếp với ngân hàng.
1.8.2 Thị trường trái phiếu ở Mỹ
Thị trường chứng khoán và trái phiếu Chính phủ Mỹ là lớn nhất thế giới, phục vụ cho cả người gửi và người vay từ các nền kinh tế phát triển Điều này phản ánh vị thế của nền kinh tế Mỹ và tầm ảnh hưởng của nó trong kinh tế toàn cầu New York, với Sở Giao dịch Chứng khoán New York (NYSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán nhỏ hơn (AMEX), được xem là thủ đô tài chính của Mỹ Ngoài New York, các thành phố như Chicago, Los Angeles, Boston, Philadelphia và Cincinnati cũng có các sàn giao dịch chứng khoán riêng Hệ thống chứng khoán đa dạng đã đóng góp đáng kể vào việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ Khác với Anh, phần lớn giao dịch trái phiếu Mỹ diễn ra trên thị trường không chính thức (OTC), với số lượng nhà tổ chức gấp 6 đến 10 lần so với thị trường trái phiếu viền vàng của Anh Thị trường trái phiếu Mỹ không được tổ chức theo cách truyền thống mà chủ yếu hoạt động qua thị trường OTC, tạo nên sự khác biệt so với thị trường trái phiếu Anh Với quy mô lớn và tính đa dạng, trái phiếu Chính phủ Mỹ có mức rủi ro thấp nhất, gần như được đánh giá là bằng 0.
Thị trường TPKB Mỹ được chia làm hai thị trường:
- Thị trường sơ cấp, do cục dự trữ liên bang điều tiết, bao gồm 40 tổ chức buôn bán lớn.
- Thị trường thứ cấp, gồm các tổ chức buôn bán nhỏ, kinh doanh trái phiếu tới từng người mua trên thị trường OTC.
Cục Dự trữ Liên bang thiết lập các tiêu chuẩn và điều kiện cần thiết để điều tiết thị trường, đồng thời tổ chức phát hành trái phiếu mới nhằm thu hút các nhà đầu tư lớn thông qua hình thức đấu giá Vai trò của nhà môi giới rất quan trọng, góp phần vào sự thành công của thị trường trái phiếu Mỹ, và điều này cũng được áp dụng vào thị trường trái phiếu Anh Sự tồn tại của các nhà môi giới cho phép xây dựng danh mục đầu tư từ các đặt giá và chào hàng giấu tên, giúp bảo vệ thông tin kinh doanh của họ khỏi bị rò rỉ.
Tại Mỹ, tín phiếu kho bạc có thời hạn 3 tháng, 6 tháng và 1 năm được phát hành qua đấu giá hàng tuần vào thứ hai, với thanh toán vào thứ năm Mỗi tháng, tín phiếu 12 tháng được phát hành một lần, trong khi tín phiếu từ 20 đến 23 tuần được phát hành vào đầu tháng để đáp ứng nhu cầu chi của ngân hàng liên bang, với thời điểm thu NSNN thấp Kể từ năm 1929, Mỹ không quy định lãi suất cố định cho tín phiếu kho bạc, mà phát hành dưới dạng giảm giá so với giá trị danh nghĩa, với thu nhập của nhà đầu tư là chênh lệch giữa hai giá trị này Nhà đầu tư được tham gia đấu giá tối đa 35% tổng giá trị đợt phát hành để hạn chế đầu cơ Tín phiếu kho bạc Mỹ được phát hành dưới dạng ghi sổ, giúp thuận tiện trong giao dịch và tiết kiệm chi phí in ấn.
1.8.3 Thị trường trái phiếu Đông Á
Thị trường trái phiếu mới nổi tại khu vực Đông Á đang tăng trưởng mạnh mẽ, phản ánh sự phát triển kinh tế ấn tượng của khu vực này Các biện pháp cải cách sâu rộng đã giúp nền kinh tế phát triển nhanh chóng, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu, giúp khu vực này từng bước bắt kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế.
Các thị trường trái phiếu ở Đông Á đã trải qua sự chuyển mình mạnh mẽ từ sự thống trị của ngân hàng thương mại sang sự đa dạng hóa với nhiều công cụ tài chính mới, bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu Sự phát triển này được thúc đẩy bởi dòng vốn nước ngoài gia tăng, nhờ vào các điều kiện hấp dẫn như tài khoản vốn mở, tỷ giá hối đoái ổn định và môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
Thị trường sơ cấp trái phiếu chính phủ (TPCP) ở khu vực Đông Á thiếu sự thống nhất giữa các quốc gia Tại Trung Quốc, TPCP được phát hành thông qua phân bổ hành chính, trong khi đó ở Hong Kong và Philippines, trái phiếu Nhà nước được đấu giá cạnh tranh Các phương thức phát hành trái phiếu ở các nước Đông Á khác thường nằm giữa hai hình thức này, dẫn đến việc giá trái phiếu Nhà nước thường thấp hơn giá thị trường Tuy nhiên, nhờ học hỏi từ các thị trường phát triển, khoảng cách chênh lệch giữa các quốc gia trong khu vực Đông Á đang dần được thu hẹp.
Cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu thứ cấp ở Đông Á đang được cải thiện dần dần Tuy nhiên, giao dịch trên thị trường này vẫn phụ thuộc nhiều vào hoạt động của thị trường trái phiếu sơ cấp Do đó, sự phát triển của thị trường thứ cấp thường có xu hướng tăng giảm theo diễn biến của thị trường sơ cấp.
Gần đây, các nước Đông Á đã có những bước tiến đáng kể trong hạ tầng định chế Tại Hong Kong, hệ thống Đơn Vị TTTT Trung Ương đã được áp dụng để thực hiện thanh toán bù trừ và quyết toán Malaysia cũng đã phát triển hai hệ thống thanh toán bù trừ: một cho chuyển quỹ trong TTTT liên ngân hàng và một cho chuyển chứng khoán qua sổ sách điện tử Ngoài ra, nhiều công ty xếp hạng tín nhiệm đã được thành lập và hoạt động tại nhiều quốc gia Đặc biệt, Malaysia đã giới thiệu trái phiếu chuẩn mực thông qua Cagamas, một trái phiếu thế chấp, thể hiện sự phản ứng sáng tạo của các nhà hoạch định chính sách trước nhu cầu cấp bách về định chế.
Xây dựng hệ thống lãi suất chuẩn, đặc biệt cho các công cụ dài hạn dựa trên TPCP, là cần thiết Singapore phát hành trái phiếu kỳ hạn 10 năm vào năm 1998, Hàn Quốc vào năm 2000 và Trung Quốc phát hành trái phiếu 20 năm vào năm 2001 Mặc dù có nhiều kỳ hạn trái phiếu nội tệ, tính thanh khoản chủ yếu tập trung vào các kỳ hạn ngắn từ 3 đến 7 năm, ngoại trừ trường hợp của Singapore.
Thị trường trái phiếu Đông Á dự kiến sẽ tăng trưởng nhanh chóng, điều này phụ thuộc vào việc duy trì các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, cùng với các cải cách cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) ở mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng biệt, nhưng đều sở hữu những điểm mạnh chung đáng để học hỏi Việc nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm từ các nước phát triển TPCP sẽ giúp cải thiện và tối ưu hóa thị trường TPCP trong nước.