CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG BÁN LẺ Mở đầu chương 1
Tổng quan về Ngân hàng thương mại
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, Ngân hàng Thương mại (NHTM) được định nghĩa là tổ chức kinh doanh tiền tệ, có chức năng chủ yếu là nhận tiền gửi từ khách hàng NHTM có trách nhiệm hoàn trả số tiền đã nhận và sử dụng chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các giao dịch thanh toán.
Theo Điều 20 của Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam số 02/1997/QH10 và Luật sửa đổi bổ sung số 20/2004/QH11, ngân hàng được định nghĩa là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng cùng các hoạt động kinh doanh liên quan Các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Theo Nghị định Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000, ngân hàng thương mại (NHTM) được định nghĩa là tổ chức thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh liên quan với mục tiêu lợi nhuận, đồng thời góp phần vào các mục tiêu kinh tế của Nhà nước Hoạt động ngân hàng chủ yếu bao gồm việc nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, được thành lập theo quy định của pháp luật NHTM đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian quan trọng trong nền kinh tế thị trường, giúp huy động và tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội Qua đó, NHTM cung cấp tín dụng cho cá nhân và tổ chức kinh tế, góp phần vào việc đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2 Những hoạt động chính của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn Đây được xem là một trong những hoạt động cơ bản, có tính chất sống còn của bất kỳ một NHTM nào vì ngoài nguồn vốn tự có gồm vốn điều lệ và các quỹ thì nguồn vốn hoạt động kinh doanh của NHTM còn được tạo lập từ nguồn vốn huy động trong xã hội
Ngân hàng thương mại (NHTM) có quyền sử dụng các công cụ và biện pháp hợp pháp để huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, nhằm tạo ra nguồn vốn cho vay phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế.
Những hình thức huy động vốn mà NHTM được phép thực hiện gồm:
Nhận tiền gửi từ tổ chức kinh tế, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước
- Vay vốn của các TCTD khác hoạt động tại Việt Nam và của các TCTD nước ngoài
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN
1.1.2.2 Hoạt động cấp tín dụng
Hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế-xã hội, vì nó giúp các ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho nền kinh tế, từ đó thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) có quyền cấp tín dụng cho tổ chức kinh tế và cá nhân thông qua nhiều hình thức như cho vay, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Các hình thức này bao gồm bao thanh toán, tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng và cấp hạn mức tín dụng dự phòng Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
1.1.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong việc luân chuyển vốn xã hội, giúp quá trình này diễn ra nhanh chóng và thuận tiện Bên cạnh đó, hoạt động này còn giảm lượng tiền mặt lưu thông, từ đó tiết kiệm chi phí và công sức cho toàn xã hội.
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động sau :
- Mở tài khoản giao dịch cho các khách hàng là pháp nhân hoặc thể nhân trong và ngoài nước
- Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
- Thực hiện dịch vụ kiểm đếm, phân loại, bảo quản, thu chi tiền mặt cho khách hàng
Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước, cũng như hệ thống thanh toán quốc tế khi được phép, là những bước quan trọng để nâng cao hiệu quả tài chính và tối ưu hóa quy trình giao dịch.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN
1.1.2.4 Một số hoạt động khác
Ngoài các hoạt động truyền thống nêu trên, NHTM còn có thể thực hiện một số hoạt động khác như:
- Góp vốn và mua cổ phần của các doanh nghiệp, các TCTD khác nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư và nâng cao hiệu quả kinh doanh
- Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của NHNN thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ
Hoạt động ủy thác và nhận ủy thác làm đại lý trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm việc quản lý tài sản và vốn đầu tư cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác.
- Kinh doanh ngoại hối và vàng
- Kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán
- Cung ứng các dịch vụ bảo quản, cầm đồ , cho thuê két sắt
- Cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập các công ty tư vấn trực thuộc
1.1.3 Khái niệm dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng hiện nay chưa có định nghĩa chính thức, nhưng thường được hiểu là các nghiệp vụ liên quan đến vốn, tiền tệ và thanh toán mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng Những dịch vụ này nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh, tiêu dùng và cất trữ tài sản Ngân hàng thu lại lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất, tỷ giá và các khoản phí dịch vụ.
Có hai quan điểm khác nhau về khái niệm dịch vụ ngân hàng:
Dịch vụ ngân hàng bao gồm các hoạt động không thuộc lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, mà tập trung vào vai trò trung gian tài chính Các dịch vụ này bao gồm chuyển tiền, ngân quỹ, tư vấn và ủy thác, nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính của khách hàng.
Dịch vụ ngân hàng là tập hợp các hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực dịch vụ, bao gồm các giao dịch tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngoại hối.
Hoạt động ngân hàng bán lẻ
1.2.1 Khái niệm ngân hàng bán lẻ
Trong lĩnh vực thương mại, bán buôn là hình thức mua bán qua nhiều cấp trung gian với số lượng lớn, không bán lẻ trực tiếp cho người tiêu dùng Ngược lại, bán lẻ là việc bán hàng trực tiếp cho cá nhân Trong hoạt động ngân hàng, dựa vào sản phẩm và dịch vụ mà ngân hàng thương mại (NHTM) cung cấp, cùng với chiến lược kinh doanh của từng ngân hàng, có thể phân chia thành hai loại chính: ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
Ngân hàng bán buôn (Wholesale banking) là các ngân hàng có quy mô lớn về vốn, tài sản và hệ thống chi nhánh, phục vụ chủ yếu cho khách hàng lớn như ngân hàng thương mại vừa và nhỏ, công ty tài chính, tập đoàn kinh tế và tổng công ty lớn Hoạt động tín dụng của ngân hàng bán buôn thường có giá trị lớn, thực hiện qua thị trường liên ngân hàng hoặc trực tiếp với các tổ chức tín dụng và tập đoàn, với lãi suất cho vay ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường.
Ngân hàng bán lẻ là những ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ, chuyên cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng trực tiếp đến khách hàng Mặc dù số lượng sản phẩm rất phong phú, giá trị của từng sản phẩm thường không lớn, chủ yếu phục vụ cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp vừa và nhỏ Đối tượng khách hàng này không chỉ đông đảo mà còn có nhu cầu đa dạng về sản phẩm và dịch vụ, do đó, ngân hàng bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Ngân hàng bán lẻ nổi bật với sự đa dạng và phong phú của các sản phẩm - dịch vụ mà nó cung cấp, phục vụ hàng triệu khách hàng trong xã hội Hoạt động của ngân hàng bán lẻ nhằm đưa trực tiếp các sản phẩm dịch vụ đến mọi tầng lớp, từ sản xuất đến tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng của người dân.
1.2.2 Các sản phẩm - dịch vụ ngân hàng bán lẻ
1.2.2.1 Sản phẩm – dịch vụ bán lẻ truyền thống
Là các sản phẩm dịch vụ đã được các NHTM cung ứng cho khách hàng từ lâu đời dựa trên nền công nghệ cũ, bao gồm :
• Sản phẩm – dịch vụ huy động vốn
Huy động vốn là một trong những dịch vụ quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, đóng vai trò là nghiệp vụ tài sản nợ thiết yếu trong việc hình thành nguồn vốn Nguồn huy động này cho phép ngân hàng tiếp tục cung cấp dịch vụ cấp tín dụng và các dịch vụ khác cho khách hàng, từ đó hỗ trợ sự phát triển kinh doanh và đáp ứng nhu cầu tài chính của thị trường.
Ngân hàng thương mại (NHTM) huy động vốn từ khách hàng thông qua nhiều hình thức như tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác Ngoài ra, NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để tăng cường nguồn vốn, với sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Huy động vốn từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu dựa vào tiền gửi thanh toán tạm thời chưa sử dụng và tiền gửi ký quỹ tại ngân hàng Mặc dù nguồn vốn này thường xuyên biến động, nhưng chi phí vốn lại thấp nhờ vào lãi suất không kỳ hạn.
Huy động vốn từ khách hàng cá nhân thường tốn kém do sự phân bố địa bàn rộng rãi Khách hàng cá nhân thường ưu tiên sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn để tích lũy, dẫn đến chi phí huy động cao và không đồng nhất giữa các khu vực.
Khách hàng mục tiêu bao gồm cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) có nguồn vốn nhàn rỗi không lớn Tuy nhiên, với số lượng khách hàng đông đảo, điều này tạo ra một nền tảng khách hàng vững chắc và một nguồn vốn huy động lớn, ổn định cho ngân hàng thương mại (NHTM).
• Sản phẩm – dịch vụ tín dụng
Tín dụng ngân hàng là quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng đến khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định, kèm theo chi phí.
Sản phẩm và dịch vụ tín dụng bán lẻ bao gồm nhiều hình thức như cho vay tiêu dùng, cho vay cá nhân với các mục đích cụ thể như mua nhà, mua ô tô, và du học Ngoài ra, còn có các dịch vụ cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay hộ gia đình, và cho vay cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN).
Các khoản vay tín dụng dành cho cá nhân và doanh nghiệp nhỏ thường có giá trị nhỏ nhưng số lượng lại lớn, dẫn đến chi phí quản lý ngân hàng cao hơn so với các hình thức cho vay khác Tuy nhiên, thị trường này rất lớn và tiềm năng Do đó, các ngân hàng thương mại đang chú trọng phát triển sản phẩm và dịch vụ tín dụng bán lẻ để tăng thị phần và lợi nhuận.
• Sản phẩm – dịch vụ thanh toán
Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cho phép khách hàng thực hiện giao dịch bằng cách trích tiền từ tài khoản của người trả sang tài khoản của người thụ hưởng thông qua hệ thống kế toán của ngân hàng.
Ngân hàng có khả năng cung cấp dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng thông qua việc quản lý tài khoản tiền gửi giao dịch, kiểm soát và luân chuyển chứng từ thanh toán, cũng như tham gia vào hệ thống thanh toán bù trừ, hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước và hệ thống thanh toán quốc tế.
Hiện nay, khách hàng có nhiều lựa chọn hình thức thanh toán qua ngân hàng, bao gồm thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, và các phương thức khác như séc và chuyển khoản.
Thực trạng và xu hướng phát triển dịch vụ NHBL của hệ thống NHTM VN
1.3.1 Những kết quả đạt được
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về năng lực tài chính, công nghệ và quản trị Nhằm khai thác thị trường bán lẻ, các NHTM đang đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ mới và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng, mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng.
Tài khoản thanh toán hiện nay không chỉ đơn thuần là nơi lưu giữ tiền mà còn tích hợp nhiều tiện ích hữu ích cho cả cá nhân và doanh nghiệp Các ngân hàng thương mại (NHTM) đã mở rộng chức năng của tài khoản bằng cách cung cấp dịch vụ phát hành thẻ ATM và cho phép thấu chi dựa trên thu nhập ổn định hàng tháng cùng với tài sản đảm bảo khác.
Công nghệ thông tin đã được áp dụng mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng, dẫn đến sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại như ATM, Internet banking, Home banking và Mobile banking Mặc dù một số dịch vụ vẫn chưa đạt chất lượng tối ưu do yếu tố công nghệ, nhưng chúng đã được xã hội chấp nhận và các ngân hàng thương mại (NHTM) đang nỗ lực cải thiện chất lượng dịch vụ thông qua việc nâng cấp công nghệ Hiện nay, hầu hết các NHTM đều cung cấp dịch vụ thẻ cho tài khoản cá nhân, chủ yếu là thẻ ATM nội địa, trong khi một số ngân hàng còn phát triển thẻ tín dụng quốc tế như Visa Card và Master Card.
Thẻ ATM hiện nay không chỉ đơn thuần phục vụ rút tiền và kiểm tra tài khoản mà còn mang lại nhiều tiện ích đa dạng cho khách hàng như thanh toán hóa đơn, chuyển khoản, gửi tiết kiệm, sao kê tài khoản, phát hành sổ séc, thấu chi tài khoản và nạp tiền điện thoại Đặc biệt, máy ATM của Ngân hàng TMCP Đông Á hoạt động như một trung tâm ngân hàng tự động, tích hợp nhiều thiết bị hiện đại với các chức năng nổi bật như gửi tiền và đổi ngoại tệ.
Xác định thẻ là công cụ quan trọng trong phát triển dịch vụ bán lẻ, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã không ngừng đầu tư vào mạng lưới, hạ tầng, thiết bị và nguồn nhân lực Từ năm 2007, NHTM đã tăng tốc phát triển với số lượng máy ATM và điểm chấp nhận thanh toán (POS) gia tăng Đến cuối tháng 6/2009, thị trường ghi nhận 8.800 máy ATM, 8.300 POS và hơn 17 triệu thẻ đang lưu hành với 176 thương hiệu thẻ từ 41 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Thị trường thẻ Việt Nam hiện có bốn liên minh thẻ chính: VNBC, Smartlink, Banknet VN và liên minh giữa Sacombank và ANZ Bank Các liên minh này đang nỗ lực kết nối hệ thống thanh toán thẻ liên ngân hàng nhằm phát triển một hệ thống thanh toán thẻ thống nhất trên toàn quốc Năm 2008 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khi liên minh Banknet VN và Smartlink chính thức hợp tác vào ngày 23/05, tạo ra một hạ tầng kỹ thuật chấp nhận thẻ mạnh mẽ.
4500 máy ATM và hơn 2 vạn POS (Nguồn: Thông cáo báo chí ngày 23/05/2008 của
Hiện tại, Banknetvn có 14 thành viên chiếm 60% thị phần thẻ, trong khi Smartlink có 27 thành viên, trong đó 22 ngân hàng đã kết nối thành công Sự kết nối giữa hai liên minh này đã giúp hơn 80% thẻ ATM có thể giao dịch qua hai hệ thống, mang lại thuận lợi cho khách hàng và giảm chi phí lắp đặt cho ngân hàng thương mại, từ đó tránh lãng phí cho cả ngân hàng và xã hội.
Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2007 về việc triển khai trả lương qua tài khoản đã thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ thẻ Chính sách này khuyến khích nhiều doanh nghiệp có đông lao động chấp nhận dịch vụ chi trả lương qua thẻ dựa trên hệ thống ngân hàng tự động ATM.
Ngân hàng hiện nay đang áp dụng nhiều hình thức huy động vốn đa dạng và linh hoạt, với các sản phẩm tiết kiệm phong phú như tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm rút gốc linh hoạt, tiết kiệm dự thưởng, và tiết kiệm tích lũy Ngoài ra, họ còn cung cấp các dịch vụ tiền gửi kết hợp bảo hiểm và chứng khoán, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
- Đa dạng các sản phẩm tín dụng bán lẻ như : tín dụng cho vay tiêu dùng, vay mua nhà, vay du học, vay mua xe ô tô, vay mùa cưới, v.v…
Nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng bán lẻ như tài khoản, séc, thẻ, quản lý tài sản và dịch vụ chuyển tiền đã được triển khai và phát triển nhanh chóng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang chú trọng đến quy mô và chất lượng hệ thống kênh phân phối Họ đã đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ hiện đại nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển dịch vụ, đồng thời tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ đa tiện ích Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng mà còn mang lại nhiều tiện ích trong thanh toán Với hệ thống công nghệ tiên tiến, khách hàng có thể thực hiện giao dịch một cửa, sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử và chuyển tiền điện tử, từ đó thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và đưa dịch vụ ngân hàng bán lẻ đến gần hơn với người tiêu dùng.
Sau gần ba năm gia nhập WTO, hệ thống dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ theo hướng đa dạng hóa và hiện đại hóa Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang khai thác tối đa tiềm năng của thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ, cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ tiện ích, đa dạng và hấp dẫn hơn.
Việt Nam, với dân số đông và sự phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp vừa và nhỏ, được xem là một thị trường bán lẻ đầy tiềm năng, thu hút cả ngân hàng trong nước và nước ngoài Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng này do nhiều hạn chế trong quá trình phát triển Dịch vụ ngân hàng bán lẻ chủ yếu phục vụ cá nhân, nhưng người dân, đặc biệt ở vùng nông thôn, vẫn chưa hiểu rõ về các dịch vụ ngân hàng Thêm vào đó, thu nhập thấp và thói quen sử dụng tiền mặt đã cản trở sự phát triển của các phương thức thanh toán hiện đại và dịch vụ ngân hàng bán lẻ Nhìn chung, dịch vụ ngân hàng bán lẻ chưa được phát triển rộng rãi, chủ yếu chỉ tập trung tại các thành phố lớn.
Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong lĩnh vực bán lẻ còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào cạnh tranh giá cả và lãi suất Mặc dù các ngân hàng đã nỗ lực mở rộng mạng lưới, nhưng việc nâng cao chất lượng dịch vụ và ứng dụng công nghệ vẫn chưa được chú trọng.
Sản phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện nay vẫn mang tính truyền thống, chất lượng dịch vụ còn thấp và chưa được định hướng theo nhu cầu của khách hàng Mặc dù các ngân hàng thương mại đã nỗ lực phát triển sản phẩm dịch vụ hiện đại, nhưng thực tế cho thấy các dịch vụ này vẫn còn nghèo nàn, tính tiện ích chưa cao và chưa thu hút được sự quan tâm của khách hàng Điều này dẫn đến khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước từ các dịch vụ này còn rất hạn chế.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Mở đầu chương 2
Giới thiệu chung về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), được thành lập theo Nghị định 177/TTg ngày 26/04/1957, có nguồn gốc từ Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam, với nhiệm vụ quản lý và cấp phát vốn cho các lĩnh vực kinh tế xã hội từ ngân sách nhà nước Sau hơn 60 năm phát triển, BIDV đã trở thành một trong những ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất Việt Nam, cung cấp đa dạng dịch vụ như cho vay, nhận tiền gửi và các dịch vụ ngân hàng khác cho mọi thành phần kinh tế, với mạng lưới phân phối rộng khắp và đang mở rộng ra thị trường quốc tế.
Sự trưởng thành và quá trình phát triển của BIDV được thể hiện qua các mốc thời gian sau:
Vào ngày 24 tháng 6 năm 1981, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được thành lập, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nhiệm vụ chính của ngân hàng là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế theo kế hoạch nhà nước.
Vào ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) chính thức được thành lập, đánh dấu một bước chuyển mình quan trọng trong chức năng hoạt động của ngân hàng Trong giai đoạn này, BIDV không chỉ tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án theo kế hoạch nhà nước, mà còn mở rộng việc huy động vốn trung và dài hạn nhằm phục vụ cho các hoạt động đầu tư phát triển, kinh doanh tiền tệ tín dụng và cung cấp dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Năm 1996, BIDV được thành lập lại dưới hình thức Tổng công ty Nhà nước theo Quyết định số 90/TTg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ Từ đó, BIDV chính thức chuyển sang hoạt động kinh doanh với mô hình Ngân hàng đa năng, mở rộng sang nhiều lĩnh vực giống như các ngân hàng thương mại khác.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của BIDV
BIDV đã hoàn thành đề án chuyển đổi mô hình tổ chức giai đoạn 2007-2010, nhằm xây dựng một mô hình tổ chức phù hợp với quy định pháp luật và đặc điểm môi trường kinh doanh hiện nay.
Việt Nam đang phát triển mô hình ngân hàng thương mại (NHTM) theo tiêu chuẩn quốc tế, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh Mục tiêu là đưa BIDV trở thành ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam, hoạt động theo thông lệ quốc tế và đạt tiêu chuẩn ngang tầm với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á.
Mô hình tổ chức mới của Hội sở chính được cấu trúc thành 34 Ban và Trung tâm, chia thành 7 khối chức năng chính: Khối ngân hàng bán buôn với 4 Ban, Khối ngân hàng bán lẻ và mạng lưới có 3 Ban, Khối vốn và kinh doanh vốn gồm 1 Ban, Khối quản lý rủi ro với 3 Ban, Khối tác nghiệp cũng có 3 Ban, Khối tài chính-kế toán với 3 Ban, và cuối cùng là Khối hỗ trợ với 16 Ban và Trung tâm.
Tại 108 chi nhánh của các đơn vị thành viên, các phòng và tổ chức đã được sắp xếp và điều chỉnh chức năng theo 5 khối chính: Khối quan hệ khách hàng, Khối quản lý rủi ro, Khối tác nghiệp, Khối quản lý nội bộ và Khối trực thuộc.
Việc chuyển đổi sang mô hình tổ chức mới nhằm mục tiêu hiện đại hóa ngân hàng, chuyển từ mô hình truyền thống sang mô hình đa năng tập trung vào bán lẻ Điều này tạo điều kiện cho việc tập trung hóa hoạt động và nâng cao quản lý tại Hội sở chính, đồng thời đáp ứng yêu cầu quản trị rủi ro theo nguyên tắc tách bạch giữa ba chức năng: kinh doanh (front office), quản lý rủi ro (middle office) và tác nghiệp (back office).
Mô hình tổ chức mới theo TA2 được trình bày tại phụ luc II
2.2 KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
Thị trường Việt Nam gần đây đã trải qua nhiều biến động phức tạp, đặc biệt trong năm 2008, một năm lịch sử với những thay đổi ngược chiều liên tiếp Đầu năm, chỉ số giá cả tăng mạnh trong 8 tháng, sau đó chuyển sang tình trạng giảm phát và đình trệ do tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuối năm.
Trước những biến động kinh tế, BIDV đã gặp phải không ít khó khăn trong hoạt động của mình Tuy nhiên, nhờ vào nỗ lực của toàn hệ thống, BIDV đã đạt được những kết quả khả quan với mức tăng trưởng cao, hợp lý, giữ vững vị thế và thị phần trên thị trường tài chính - tiền tệ, đồng thời đóng góp tích cực vào việc thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ của Chính phủ.
HÌNH 2.1: BIỂU ĐỒ NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU CỦA BIDV
Vốn là yếu tố thiết yếu trong hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), thể hiện sức mạnh tài chính và khả năng phát triển bền vững Một mức vốn lớn không chỉ đảm bảo sự ổn định trong hoạt động mà còn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng và phát triển trong tương lai.
Vốn chủ sở hữu của BIDV đã tăng mạnh trong những năm gần đây, đặc biệt là trong năm 2007 và 2008 Cụ thể, vào cuối năm 2008, vốn chủ sở hữu đạt 9.969 tỷ đồng, tăng 1.564 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 18,6% so với năm 2007.
Năm 2007, vốn điều lệ của BIDV đạt 8.405 tỷ đồng, tăng 89,86% so với năm 2006, chủ yếu nhờ việc Chính phủ bổ sung 3.400 tỷ đồng Sự tăng trưởng này đã giúp vốn điều lệ của BIDV vọt lên, đạt 8.755 tỷ đồng vào cuối năm 2008, nâng tổng vốn tự có lên 19.079 tỷ đồng tính đến ngày 31/07/2009.
HÌNH 2.2: BIỂU ĐỒ VỐN ĐIỀU LỆ CỦA BIDV
Tổng tài sản của BIDV đã tăng trưởng đều qua các năm, từ 117.976 tỷ đồng vào cuối năm 2005 lên 242.316 tỷ đồng vào cuối năm 2008, tương ứng với mức tăng hơn 100% Hệ số an toàn vốn CAR của BIDV cũng cải thiện đáng kể, đạt 8,6% vào năm 2008, cho thấy ngân hàng đã duy trì được sự cân bằng hợp lý giữa vốn tự có và rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
BẢNG 2.1: SỐ LIỆU VỀ TỔNG TÀI SẢN VÀ HỆ SỐ CAR CỦA BIDV
CHặ TIEÂU NAấM 2005 NAấM 2006 NAấM 2007 NAấM 2008
Hệ số an toàn vốn CAR
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006, 2007 và 2008 của BIDV)
Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Vieọt Nam
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đã chứng kiến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng thương mại (NHTM) trong lĩnh vực bán lẻ Các NHTM Việt Nam đã cải thiện đáng kể về năng lực tài chính, công nghệ, quản trị, cơ cấu tổ chức và mạng lưới phân phối Đặc biệt, họ đã tập trung phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ theo mô hình ngân hàng đa năng Tuy nhiên, năm 2008 vẫn là một năm đầy thách thức cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ.
Theo xu hướng thị trường và chiến lược của Ban lãnh đạo, BIDV đang chuyển mình để thâm nhập vào lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, từng bước khẳng định vị thế là ngân hàng hiện đại và đa năng trong lĩnh vực này.
2.3.1 Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ
Trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, hoạt động kinh doanh của BIDV, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, cũng phải đối mặt với không ít thách thức Tuy nhiên, nhờ vào sự nỗ lực và cố gắng của toàn hệ thống, BIDV đã ghi nhận một số kết quả khả quan trong hoạt động kinh doanh bán lẻ.
2.3.1.1 Huy động vốn dân cư
Tính đến ngày 31/12/2008, tổng số dư huy động vốn từ dân cư của toàn hệ thống đạt 58.872 tỷ đồng, bao gồm cả ngoại tệ quy đổi, tăng 7.826 tỷ đồng, tương đương 15,33% so với cuối năm 2007, chiếm 36,04% trong tổng số dư huy động vốn.
BẢNG 2.8: KẾT QUẢ HUY ĐỘNG VỐN VÀ CƠ CẤU HUY ĐỘNG VỐN
2006 2007 So với năm 2007 CHỈ TIÊU Số dư Tăng/Giảm Tỷ lệ % Tổng huy động vốn 121,665 149,469 163,371 13,902 9.30%
+ Tieỏt kieọm 44,743 47,192 43,672 -3,520 -7.46% + Giấy tờ có giá 8,032 3,854 15,200 11,346 294.40%
+ Kỳ hạn < 12 tháng 19,382 43,872 24,490 126.35% + Kỳ hạn ≥ 12 tháng 31,002 14,800 -16,202 -52.26%
Phân theo kỳ hạn dân cư
(Nguồn: Báo cáo hoạt động ngân hàng bán lẻ của BIDV năm 2008)
Trong năm 2008, cơ cấu nguồn vốn huy động dân cư ghi nhận sự gia tăng tỷ trọng tiền gửi VNĐ, chiếm 78,68% tổng nguồn vốn Tuy nhiên, tỷ trọng tiền gửi trên 12 tháng và không kỳ hạn chỉ đạt 25,48%, giảm mạnh 52,62% so với năm 2007 Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là do lãi suất tiết kiệm thường xuyên biến động, có thời điểm tăng cao.
21% vì vậy ngưởi gửi tiền thường gửi kỳ hạn ngắn để chờ đợi các đợt tăng lãi suất của các NHTM
Vào năm 2008, giấy tờ có giá đã tăng mạnh so với năm 2007 nhờ BIDV thực hiện 5 đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn với lãi suất hấp dẫn Chính sách thanh toán trước hạn linh hoạt cũng đã thu hút nhiều khách hàng tham gia.
BẢNG 2.9: THỊ PHẦN HUY ĐỘNG VỐN DÂN CƯ CỦA BIDV VÀ CÁC NHTM
CHặ TIEÂU NAấM 2006 NAấM 2007 NAấM 2008
(Nguồn: Báo cáo hoạt động ngân hàng bán lẻ của BIDV năm 2008)
Trong ba năm qua, thị phần huy động vốn từ dân cư của BIDV đã liên tục giảm, với mức sụt giảm bình quân đạt 2,11% mỗi năm Tình hình này diễn ra đặc biệt rõ ràng trong hai năm 2007.
Năm 2008, thị phần của BIDV giảm mạnh với tỷ lệ 3% mỗi năm, chủ yếu do việc tuân thủ quy định về trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước BIDV đã chủ động hạ lãi suất huy động, dẫn đến lãi suất huy động dân cư của ngân hàng này thấp hơn so với các ngân hàng thương mại khác, gây ra hiện tượng chuyển dịch tiền gửi của khách hàng từ BIDV sang các ngân hàng khác.
BIDV, bắt đầu gia nhập thị trường thẻ từ năm 2002, là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc triển khai dịch vụ thẻ và hệ thống ATM Hiện tại, BIDV là một trong hai ngân hàng có hệ thống ATM rộng khắp trên toàn quốc, với tổng số 1.000 máy ATM trải dài trên 64 tỉnh thành Sự phát triển này đã giúp BIDV đứng thứ ba trên thị trường về số lượng máy phục vụ, tạo nền tảng vững chắc cho việc phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ khác trong tương lai.
Hoạt động kinh doanh thẻ của BIDV đã có sự phát triển mạnh mẽ, với 500.000 thẻ được phát hành trong năm 2008, nâng tổng số thẻ lên 1.549.769 Tính đến cuối năm 2008, BIDV chiếm 13% thị phần phát hành thẻ tại Việt Nam, đứng thứ 5 trên thị trường Số lượng POS cũng tăng đáng kể, với 400 POS mới được triển khai, đưa tổng số lên 962 điểm.
Chất lượng thẻ của BIDV đã được cải thiện đáng kể, với số lỗi giao dịch giảm mạnh và hệ thống ATM hoạt động ổn định, đạt trung bình 3.650 giao dịch mỗi máy, tăng 105% so với năm 2007 BIDV cũng tích cực kết nối với 14 ngân hàng trong nước thuộc hệ thống Banknet, Smartlink và hỗ trợ thanh toán thẻ Visa Ngoài ra, ngân hàng đã phát triển nhiều dịch vụ tiện ích như thanh toán tiền điện và nạp tiền điện thoại qua thẻ (VN-Topup).
Hoạt động cho vay bán lẻ của BIDV bắt đầu được chú trọng phát triển từ năm 2007, sau một thời gian dài chỉ phát triển tự phát tại các chi nhánh Đến năm 2008, BIDV nhận thức rõ rằng ngân hàng bán lẻ không chỉ giúp xây dựng nền khách hàng vững chắc mà còn mang lại lợi nhuận cao và giảm thiểu rủi ro, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển của các ngân hàng hiện đại trên thế giới.
Đến ngày 31/12/2008, dư nợ tín dụng bán lẻ đạt 16.220 tỷ đồng, giảm 2,09% so với cùng kỳ năm 2007 nhưng tăng 62,16% so với năm 2006 Tỷ trọng dư nợ tín dụng bán lẻ chiếm 10,9% tổng dư nợ tín dụng, giảm 3% so với năm 2007, chủ yếu do chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát trong những tháng đầu năm 2008.
BIDV có quy mô tín dụng bán lẻ tương đương với VCB, ACB, và STB, với số liệu cụ thể lần lượt là 16.220 tỷ đồng, 8.809 tỷ đồng, 16.258 tỷ đồng và 18.356 tỷ đồng Tuy nhiên, tỷ trọng tín dụng bán lẻ của BIDV chỉ đạt 11% trên tổng dư nợ, trong khi các ngân hàng thương mại khác dao động từ 35-50% Nguyên nhân chính là do BIDV phát triển ngân hàng bán lẻ chậm hơn so với các đối thủ.
HÌNH 2.7 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG BÁN LẺ CỦA BIDV SO VỚI MỘT
Chất lượng tín dụng trong lĩnh vực tín dụng bán lẻ đang có xu hướng giảm, với tỷ lệ nợ quá hạn tăng từ 2,65% vào năm 2007 lên 3% vào cuối năm 2008.
BẢNG 2.10: CƠ CẤU TÍN DỤNG BÁN LẺ CỦA BIDV
CHO VAY Dử nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng
Tăng trưởng so với năm
Cho vay hỗ trợ nhu cầu nhà ở 2.592 15,64% 2.799 17,27% 7,99%
Cho vay hộ kinh doanh 5.383 32,49% 6.357 39,22% 18,09%
Cho vay cầm cố chứng khoán, ứng trước, repo 3.336 20,13% 2.311 14,26% -30,73%
Cho vay caàm coá, chieát khaáu giấy tờ có giá 1.585 9,57% 930 5,74% -41,32%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động ngân hàng bán lẻ của BIDV năm 2008)