Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại 6 1 Xác định chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
Trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại
Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm đó gây ra, bất kể có lỗi hay không Điều này khẳng định rằng chủ sở hữu, người chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là những chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý đầu tiên, và họ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có hành vi trái pháp luật.
Lê Mai Anh (1997) trong luận văn thạc sĩ luật học của mình tại Trường Đại học Luật Hà Nội đã nghiên cứu về những vấn đề cơ bản liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự.
Nguyễn Thanh Hồng (2001) đã trình bày trong luận án tiến sĩ luật học của mình tại Trường Đại học Luật Hà Nội về "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ" Nghiên cứu này phân tích các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường trong các vụ tai nạn giao thông, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan.
Trong bài viết của Nguyễn Xuân Quang (2011) trên Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, tác giả đã phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra Đỗ Văn Đại (2018) cũng đã nghiên cứu về luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Việt Nam, cung cấp những bản án và bình luận chi tiết về các vụ việc liên quan Các nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong bối cảnh pháp lý hiện nay.
Trong Tập 2 của Hội Luật gia Việt Nam, NXB Hồng Đức, có nêu rõ rằng không có ai khác chịu trách nhiệm bồi thường, điều này hoàn toàn khác biệt so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con người hoặc các loại tài sản thông thường khác gây ra.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do nguồn nguy hiểm này gây ra trong một số trường hợp điển hình Qua thực tiễn xét xử, có thể nhận thấy những tình huống cụ thể mà trách nhiệm bồi thường được quy định rõ ràng, nhằm bảo vệ quyền lợi của nạn nhân và đảm bảo công bằng trong pháp luật.
- Trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đồng thời là người trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại:
Trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu trong các vụ án liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là rất rõ ràng Chủ sở hữu, người trực tiếp chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm, phải bồi thường thiệt hại, ngay cả khi nguyên nhân gây ra thiệt hại không phải do lỗi của họ hoặc do hành vi trái pháp luật trong việc quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm Điều này được minh chứng qua nhiều vụ án thực tế.
Vụ án thứ nhất liên quan đến việc xác định chủ sở hữu thông qua hợp đồng mua bán điện, không yêu cầu xác định lỗi của chủ sở hữu Bản án số 07/2019/DS-ST, ban hành ngày 31/5/2019, đã đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến vấn đề này.
Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội
Vào lúc 2 giờ 00 ngày 10/02/2017, tại xưởng sản xuất mây tre đan của ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị S, một vụ cháy đã xảy ra và lan sang nhà của anh Nguyễn Văn Q, gây thiệt hại tài sản trị giá 87.200.000 đồng Do đó, nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại này.
Tòa án xác định nguyên nhân vụ cháy do chập điện tại xưởng sản xuất của bị đơn Chủ sở hữu hệ thống điện phải chịu trách nhiệm về thiệt hại, theo hợp đồng mua bán điện, bên mua có nghĩa vụ quản lý tài sản và đảm bảo an toàn cho dây dẫn điện từ thiết bị đo đến nơi sử dụng Do đó, có đủ cơ sở để xác định bị đơn là chủ sở hữu đường dây điện gây thiệt hại Theo Điều 601 BLDS 2015, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ nguồn nguy hiểm đó.
Trong tác phẩm "Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án" của Đỗ Văn Đại (2018), được xuất bản bởi NXB Hồng Đức, trang 283 (Tập 2), tác giả đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Việt Nam, cùng với phân tích và bình luận về các bản án tiêu biểu.
5 Xem Phụ lục, Bản án số 07/2019/DS-ST ngày 31/5/2019 của Tòa án nhân dân H Phú Xuyên, TP Hà Nội
Trong vụ án nêu trên, cách giải quyết vụ án của HĐXX có những nội dung đáng chú ý gồm:
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, cụ thể là nguồn điện, được xác định dựa trên hợp đồng mua bán điện Hợp đồng này quy định rằng "bên mua chịu trách nhiệm … từ sau thiết bị đo đếm điện đến nơi sử dụng điện."
- Tòa án xác định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ theo Điều 601 BLDS 2015;
- Tòa án không xác định lỗi của chủ sở hữu hay nói cách khác chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi;
Việc xác định hành vi chiếm hữu và sử dụng tài sản có thể diễn ra thông qua những hành động không rõ ràng, như việc không can thiệp vào các nguồn nguy hiểm cao độ, đặc biệt là những nguồn điện có khả năng gây cháy.
Vụ án thứ 2 - không xác định rõ chủ sở hữu, phải bồi thường thiệt hại:
Bản án số 37/2018/DS-ST ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
Vào ngày 14/01/2017, bà Phan Thị K khi đi làm bằng xe mô tô đã va chạm với xe ô tô do anh Lục Văn T điều khiển ở xã Xuân Lương, gây ra thương tích 44% cho bà K Bà K yêu cầu anh T bồi thường 66.463.000 đồng, nhưng anh T không đồng ý do cho rằng mình không có lỗi trong vụ tai nạn.
Tòa án nhận định rằng vụ tai nạn xảy ra đã lâu, không có nhân chứng trực tiếp và lời khai của các bên có sự khác biệt, khiến việc xác định lỗi nguyên nhân gặp khó khăn Dựa trên khoản 3 Điều 601 BLDS 2015, tòa án xác định anh T là người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, do đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường một phần thiệt hại
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Điều 585 BLDS 2015 yêu cầu bồi thường toàn bộ và kịp thời Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là người đầu tiên chịu trách nhiệm Tuy nhiên, việc bồi thường cũng phải dựa trên phần lỗi của bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án liên quan đến bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, có nhiều cách tiếp cận khác nhau Một số vụ án yêu cầu chủ sở hữu bồi thường toàn bộ thiệt hại mà không xem xét mức độ lỗi, trong khi những vụ khác lại buộc bồi thường dựa trên mức độ lỗi Ngoài ra, cũng có những trường hợp phải liên đới bồi thường thiệt hại Dưới đây là một số ví dụ về các vụ án đã được giải quyết.
Vụ án thứ 3 liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, được ghi nhận trong Bản án số 02/2018/DS-ST ngày 18/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hà Giang Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm phải chịu trách nhiệm một phần cho những thiệt hại xảy ra, theo quy định pháp luật về bồi thường Bản án này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn từ các nguồn nguy hiểm và trách nhiệm của các chủ sở hữu trong việc bồi thường thiệt hại cho nạn nhân.
Vào ngày 03/4/2016, anh Nông Văn L, chồng của chị H, đã điều khiển xe mô tô va chạm với xe ô tô do anh Phùng Đình H điều khiển, dẫn đến việc anh L tử vong khi đang cấp cứu tại bệnh viện Chị H, nguyên đơn trong vụ án, yêu cầu bị đơn bồi thường tổng số tiền 432.431.000 đồng, bao gồm chi phí mai táng, viện phí và cấp dưỡng Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án dựa trên các chứng cứ và yêu cầu của nguyên đơn.
Anh Nông Văn L điều khiển xe mô tô với nồng độ cồn 0,59mg/l trong khí thở Trong khi không quan sát phía trước, anh đã vượt ẩu xe ô tô đang quay đầu, dẫn đến tai nạn Hành vi này vi phạm khoản 8 Điều 11 của Luật giao thông đường bộ.
Anh Phùng Đình H đang điều khiển xe ô tô quay đầu trên đoạn đường cho phép, có bật tín hiệu báo rẽ và không có lỗi trực tiếp trong vụ tai nạn.
Anh H là người điều khiển phương tiện có nguy cơ cao, và việc anh quay đầu xe đã dẫn đến việc anh L đâm vào xe của anh Mặc dù anh H không trực tiếp gây ra tai nạn, nhưng hành động của anh đã gián tiếp tạo ra nguyên nhân dẫn đến sự cố và gây thiệt hại.
- Anh L tuy điều khiển xe có nồng độ cồn đã đâm vào xe của anh H nhưng anh L không cố ý đâm vào xe của anh H
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ, cần gắn trách nhiệm cho chủ sở hữu Do đó, anh Phùng Đình H phải bồi thường một phần thiệt hại theo quy định tại Điều 591 và khoản 3 Điều 601 của Bộ luật Dân sự 2015.
Tòa án đã xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu xe dựa trên yếu tố lỗi, trong đó lỗi trực tiếp thuộc về bị hại và lỗi gián tiếp thuộc về bị đơn Điều này giúp phân định mức độ bồi thường thiệt hại, buộc bị đơn phải chịu trách nhiệm bồi thường một phần thiệt hại theo yêu cầu của nguyên đơn.
Việc xác định nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp trong Bộ luật Dân sự vẫn chưa được quy định rõ ràng Mặc dù Tòa án đã xác định bị đơn có trách nhiệm bồi thường một phần thiệt hại, nhưng lại chưa đưa ra căn cứ cụ thể để tính toán giá trị bồi thường dựa trên mức độ lỗi của thiệt hại.
Vụ án thứ 4 liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong Bản án số 225/2018/DS-PT, ban hành ngày 06/3/2018, bởi Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Trong vụ án này, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm đã phải bồi thường một phần thiệt hại do sự cố xảy ra, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý an toàn đối với các nguồn nguy hiểm Bản án đã làm rõ trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan và là một ví dụ điển hình trong việc áp dụng luật về bồi thường thiệt hại.
7 Xem Phụ lục, Bản án số 02/2018/DS-ST ngày 18/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hà Giang
Vào lúc 15 giờ ngày 13/8/2013, ông Dương Bá H1, nguyên đơn, đã bị tai nạn giao thông khi xe mô tô do anh NLQ1 chở va chạm với xe ô tô của anh Phạm Công H2, bị đơn, khi anh H2 đang quay đầu xe Vụ va chạm đã gây tổn hại đến sức khỏe của ông H1, dẫn đến việc ông yêu cầu bị đơn bồi thường số tiền 163.415.000 đồng.
Tòa án xác định rằng lỗi chính dẫn đến tai nạn là do xe ô tô của bị đơn quay đầu trái quy định trong khu dân cư, vi phạm khoản 3 Điều 15 Luật giao thông đường bộ Đồng thời, lái xe mô tô cũng có lỗi khi chở nguyên đơn vào đường cấm Cụ thể, tòa án phân chia tỷ lệ lỗi là 75% do xe ô tô và 25% do xe máy Dựa trên mức độ lỗi này, tòa án áp dụng các Điều 604, 605, 609, 623 Bộ luật Dân sự 2005 để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và giải quyết vụ án.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại
Quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ là yếu tố quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường Qua nghiên cứu các vụ án, tác giả nhận thấy có nhiều cách áp dụng pháp luật khác nhau, ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng.
1.3 Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại
Trong các mục 1.1 và 1.2, tác giả đã nêu rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của họ, pháp luật cũng quy định những trường hợp mà chủ sở hữu không phải bồi thường khi xảy ra thiệt hại Tác giả sẽ phân tích một số vụ án để làm rõ các trường hợp này.
Vụ án thứ 5 liên quan đến chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại, được nêu rõ trong Bản án số 52/2020/DS-PT ngày 23/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định Bản án này khẳng định rằng, trong một số trường hợp cụ thể, chủ sở hữu không phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại phát sinh từ nguồn nguy hiểm cao độ mà họ quản lý.
Vào lúc 14 giờ ngày 17/02/2018, anh Đặng Minh T1, con trai ông Đặng Văn D (nguyên đơn), đã điều khiển xe mô tô chở bạn và va chạm với xe mô tô của anh Trương Văn Nh (bị đơn) Hậu quả, anh T1 tử vong khi đang cấp cứu tại bệnh viện, trong khi anh Nh bị thương nặng ở vùng mặt Nguyên đơn yêu cầu anh Nh và chủ sở hữu xe, anh Trương Văn T, phải liên đới bồi thường số tiền 202.266.000 đồng Tuy nhiên, anh T và bị đơn Nh không đồng ý bồi thường, và anh Nh đã phản tố yêu cầu nguyên đơn bồi thường 100.108.000 đồng.
Tòa án xác định nguyên nhân tai nạn là do lỗi hỗn hợp, trong đó anh T1 lấn sang phần đường của anh Nh và anh Nh vượt sai quy định Lỗi chính dẫn đến tai nạn thuộc về anh T1 Tòa án sơ thẩm cho rằng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại và xác định anh Trương Văn T, chủ sở hữu xe, phải liên đới bồi thường cho nguyên đơn là chưa chính xác.
Hội đồng xét xử tòa án phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm, xác định rằng anh T1 và anh Nh đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra Đồng thời, chủ sở hữu xe, anh Trương Văn T, không phải bồi thường thiệt hại trong vụ việc này.
Tòa án cấp phúc thẩm đã dựa vào các Điều 584, 589, 590, 615 của Bộ luật Dân sự 2015 để đưa ra quyết định Trong vụ án này, Tòa không xem xét thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ mà xác định thiệt hại do con người gây ra theo trách nhiệm bồi thường chung theo Điều 584 Mặc dù Tòa đã phân định lỗi và xác định trách nhiệm bồi thường, nhưng lại không dựa vào Điều 585 để giải thích cho việc phân định trách nhiệm.
Vụ án thứ 6 liên quan đến việc chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, được thể hiện rõ trong Bản án số 204/2021/DS-PT ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Vụ án xảy ra vào ngày 13/3/2019, khi anh Trần Phạm Ngọc Th điều khiển xe mô tô và va chạm với xe mô tô của ông Trương Hoài Sơn, dẫn đến cái chết của ông Sơn trên đường cấp cứu và anh Th bị thương nặng Gia đình ông Sơn đã khởi kiện, xác định xe mô tô của Trần Phạm Ngọc Th là nguồn nguy hiểm cao độ, yêu cầu anh Th cùng với cha mẹ là ông Trần Ngọc H và bà Phạm Thị Tr phải liên đới bồi thường 148.000.000 đồng Tuy nhiên, bị đơn không đồng ý với yêu cầu bồi thường từ nguyên đơn.
8 Xem Phụ lục, Bản án số 52/2020/DS-PT ngày 23/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
Tòa án xác định rằng tai nạn xảy ra do ông Trương Hoài Sơn điều khiển xe mô tô với nồng độ cồn trong máu vượt mức cho phép (265,34mg/100ml), vi phạm quy định tại khoản 8 Điều 8 của Luật Giao thông đường bộ Bên cạnh đó, ông Sơn cũng đã tham gia giao thông không đúng làn đường, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Giao thông đường bộ.
Từ nhận định trên, việc nguyên đơn cho rằng chiếc xe mô tô Biển số 52Z4-
Trong vụ việc liên quan đến chiếc xe mô tô biển số 52Z4-8566, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không thuộc về anh Trần Phạm Ngọc Th và chủ sở hữu ông Trần Ngọc H cùng bà Phạm Thị Tr, vì thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật của ông Trương Hoài Sơn, người điều khiển xe với nồng độ cồn vượt mức quy định và tham gia giao thông không đúng làn đường Hành vi này là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng đối với ông Sơn và sức khỏe đối với anh Th, không phải do hoạt động tự thân của chiếc xe Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án này là do hành vi trái pháp luật của con người, và anh Th không phải chịu trách nhiệm bồi thường vì không có lỗi trong cái chết của nạn nhân Tuy nhiên, việc anh Th tự ý sử dụng xe mô tô khi chưa đủ tuổi và không có giấy phép lái xe sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Trong vụ án, Tòa án xác định nguyên nhân chính gây ra tai nạn là hành vi trái pháp luật của người bị thiệt hại Tòa cũng khẳng định rằng thiệt hại trong vụ án là thiệt hại thông thường do hành vi trái pháp luật của con người, không phải do tự thân tài sản gây ra Do đó, chủ sở hữu tài sản không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Trong vụ án này, việc áp dụng pháp luật có những điểm khác biệt so với các vụ án trước Tòa án đã xác định rằng nguyên nhân gây ra thiệt hại là do hành vi trái pháp luật của con người, không phải do nguồn nguy hiểm cao độ Do đó, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
9 Xem Phụ lục, Bản án số 204/2021/DS-PT ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An
Vụ án thứ 7: Bản án số 04/2021/DS-PT ngày 05/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An
Nội dung vụ án: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 04/8/2019, tại địa phận Ấp
Vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra tại xã T, huyện T, tỉnh Long An giữa hai xe mô tô do ông Trần Văn D và ông Trịnh Văn P điều khiển, dẫn đến cái chết của ông D Vợ ông D, bà S, đã khởi kiện yêu cầu ông P và ông P1, chủ sở hữu xe của ông P, liên đới bồi thường thiệt hại về tính mạng tổng cộng 189.000.000 đồng, bao gồm chi phí mai táng 40.000.000 đồng và tổn thất tinh thần 149.000.000 đồng Sau khi nhận 20.000.000 đồng tiền mai táng từ ông P, bà S yêu cầu bồi thường tiếp 169.000.000 đồng.
Ông Trịnh Văn P khẳng định rằng nguyên nhân cái chết của ông Trần Văn D vào ngày 04/8/2019 do va chạm giao thông giữa hai người là chính xác, nhưng lỗi dẫn đến vụ tai nạn hoàn toàn thuộc về ông D Do đó, ông P không đồng ý với yêu cầu của bà S, vợ ông D, về việc bồi thường số tiền 169.000.000 đồng từ ông P và ông P1.
Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
Vướng mắc trong quy định của pháp luật
Trong pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra bao gồm các trường hợp như nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối và công trình xây dựng Theo Bộ luật dân sự 2015, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu tài sản của họ gây ra thiệt hại, theo quy định tại khoản 3 điều 584 Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường sẽ phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, dựa trên ai là chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc quản lý, sử dụng tài sản.
Theo quy định tại khoản 1 điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, người gây ra thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và lợi ích hợp pháp của người khác sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường Điều này có nghĩa là khi các điều kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường được đáp ứng, người gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường cho nạn nhân.
Theo quy định tại Điều 597 và Điều 600 Bộ luật Dân sự 2015, pháp nhân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao Đồng thời, cá nhân và pháp nhân cũng phải bồi thường thiệt hại do người làm công hoặc người học nghề gây ra khi thực hiện công việc được giao Việc xác định chủ thể nào quản lý người gây thiệt hại là rất quan trọng, vì chủ thể đó sẽ chịu trách nhiệm bồi thường Do đó, việc nhận diện người có hành vi gây thiệt hại là cần thiết để xác định đúng đối tượng chịu trách nhiệm bồi thường, điều này được nhấn mạnh qua các bản án đã bình luận.
Trong trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường, người không gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm, vì pháp luật chỉ quy định trách nhiệm cho người gây thiệt hại Do đó, nếu không đủ cơ sở để khẳng định rằng người liên quan có hành vi gây thiệt hại, thì người này sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường, mặc dù người bị thiệt hại có thể cho rằng hành vi của họ là trái pháp luật.
Trong nhiều trường hợp, theo Bộ luật Dân sự (BLDS), người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không nhất thiết phải là người gây ra thiệt hại Cụ thể, nếu người gây thiệt hại chưa đủ 15 tuổi hoặc còn cha mẹ, thì cha mẹ sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường, tài sản riêng của người chưa thành niên cũng có thể được sử dụng để bù đắp phần thiếu Tương tự, đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, họ phải bồi thường bằng tài sản của mình, và nếu không đủ, cha mẹ sẽ phải bù đắp phần còn thiếu Do đó, để áp dụng đúng quy định, cần xác định rõ người gây thiệt hại là người chưa thành niên.
Qua phân tích trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ trong các bản án, tác giả nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc và bất cập cần được giải quyết.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu thiệt hại đó được gây ra bởi hành vi trái pháp luật hoặc do lỗi của họ, hoặc chỉ cần xác định rằng thiệt hại đã bị tác động từ nguồn nguy hiểm cao độ.
Phần lớn các vụ việc về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ thường liên quan đến phương tiện vận tải cơ giới, chủ yếu là hành vi điều khiển phương tiện gây thiệt hại Tuy nhiên, Hội đồng xét xử trong nhiều trường hợp không phân biệt giữa hành vi điều khiển phương tiện gây thiệt hại và nguồn nguy hiểm cao độ, dẫn đến việc xác định thiệt hại không chính xác Điều này cho thấy việc áp dụng cơ sở pháp lý về bồi thường thiệt hại trong nhiều vụ việc còn thiếu chính xác.
Thứ hai, vấn đề xác định yếu tố lỗi để phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn nhiều cách áp dụng khác nhau
Trong một số vụ án, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, ngay cả khi họ không vi phạm quy định về quản lý và sử dụng nguồn nguy hiểm đó Ví dụ, trong vụ án số 1, chủ sở hữu nguồn điện đã phải bồi thường toàn bộ thiệt hại dù nguyên nhân gây ra thiệt hại xuất phát từ chính nguồn nguy hiểm cao độ.
Trong vụ án số 3, chủ sở hữu xe buộc phải bồi thường một phần thiệt hại dù không có lỗi, vì bị hại đã tự gây tai nạn do vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông Điều này cho thấy trách nhiệm của chủ sở hữu xe trong việc bồi thường thiệt hại, ngay cả khi không trực tiếp gây ra sự cố.
Trong các vụ án liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, nếu chủ sở hữu không có lỗi và thiệt hại xảy ra do lỗi của bị hại, thì chủ sở hữu không phải bồi thường Tòa án cần phân biệt rõ giữa thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ tự thân gây ra và thiệt hại do hành vi con người gây ra, vì điều này ảnh hưởng đến trách nhiệm của chủ sở hữu Hiện nay, việc áp dụng căn cứ pháp lý và xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn chưa thống nhất.
Điều 601 BLDS 2015 chưa rõ ràng trong việc phân định trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ dựa trên yếu tố lỗi, và không dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 585 để xác định mức độ lỗi cùng với mức độ bồi thường tương ứng Trong các vụ án phân tích, có Tòa án xác định lỗi theo các khái niệm như “lỗi cố ý, lỗi vô ý” hay “lỗi trực tiếp, lỗi gián tiếp”, trong khi một số Tòa án khác lại sử dụng thuật ngữ “nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp” Khi giải quyết, nhiều Tòa chỉ yêu cầu chủ sở hữu bồi thường một phần thiệt hại, với một số Tòa xác định tỷ lệ phần lỗi dưới dạng phần trăm hoặc số cụ thể tương ứng với thiệt hại phải bồi thường.
NGƯỜI CHIẾM HỮU, SỬ DỤNG NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ LÀ CHỦ THỂ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN
Xác định người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
2.1.1 Căn cứ phân định trách nhiệm của chủ sở hữu và người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ tại khoản 2, 3 Điều 601 BLDS 2015 đã kế thừa gần như toàn bộ nội dung của Điều 623 BLDS 2005 Thực tế cho thấy, người được giao chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể là cá nhân được chỉ định thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn, hoặc thông qua quyết định của cơ quan, tổ chức, hay quyết định của người sử dụng lao động.
Người được giao chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nguồn này gây ra thiệt hại Mặc dù cả Bộ luật Dân sự 2005 và 2015 không quy định rõ ràng, nhưng Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP đã hướng dẫn cụ thể rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ áp dụng cho người được giao thông qua một giao dịch.
Khi chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định pháp luật, nếu nguồn nguy hiểm này gây thiệt hại cho cá nhân hoặc tổ chức khác, người giao phải chịu trách nhiệm bồi thường Việc giao nguồn nguy hiểm cao độ thường diễn ra thông qua các giao dịch dân sự như hợp đồng thuê hoặc mượn tài sản, không phải qua các quan hệ hành chính hay lao động.
Tác giả đồng tình với Nghị quyết 03/2006, nhấn mạnh rằng chỉ những người được giao quyền chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ qua giao dịch dân sự mới phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm này gây ra thiệt hại Điều này bởi vì khi được chuyển giao, các chủ thể này có quyền quản lý và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo ý chí của mình.
Việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ thỏa thuận giữa các bên và các quy định pháp luật nghiêm ngặt Người được giao quản lý nguồn nguy hiểm có quyền khai thác công dụng của nó để phục vụ nhu cầu cá nhân, nhưng không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nếu việc quản lý và sử dụng đó tuân theo quyết định của cơ quan Nhà nước Hơn nữa, mục đích của việc quản lý nguồn nguy hiểm cao độ là để mang lại lợi ích cho cơ quan, tổ chức, chứ không phải cho cá nhân người sử dụng.
Theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 601 BLDS 2015, người được giao chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có trách nhiệm tương tự như chủ sở hữu, phải chịu trách nhiệm ngay cả khi không có lỗi trong quản lý nguồn nguy hiểm Họ cũng phải liên đới bồi thường thiệt hại nếu có lỗi dẫn đến việc nguồn nguy hiểm bị chiếm hữu và sử dụng trái pháp luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của họ xuất phát từ việc vi phạm trong quản lý nguồn nguy hiểm hoặc từ nguyên tắc công bằng trong việc hưởng lợi và gánh chịu thiệt hại Tuy nhiên, không phải lúc nào người được giao chiếm hữu cũng được hưởng lợi từ việc sử dụng nguồn nguy hiểm, như trường hợp người trông giữ Điều này đặt ra câu hỏi về tính công bằng khi họ phải bồi thường thiệt hại dù không có lỗi và không được hưởng lợi.
2.1.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
Mối quan hệ giữa chủ sở hữu, người sử dụng lao động và người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thường đi kèm với thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xảy ra sự cố Một số thỏa thuận này được Tòa án công nhận, trong khi một số khác lại bị từ chối do bị cho là nhằm trốn tránh nghĩa vụ Tuy nhiên, lập luận của Tòa án trong các trường hợp này chưa thật sự rõ ràng và thuyết phục Dưới đây là một số ví dụ minh họa cho vấn đề này.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hợi (2017) tại Trường Đại học Luật Hà Nội trình bày về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam Luận án tiến sĩ này phân tích các quy định pháp lý liên quan đến trách nhiệm bồi thường, nhằm làm rõ cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng trong việc xử lý thiệt hại do tài sản gây ra.
Vụ án thứ 8 liên quan đến việc người được chủ sở hữu giao quyền chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thông qua giao dịch dân sự phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại Bản án số 32/2018/DS-PT, được ban hành vào ngày 22/11/2018 bởi Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, đã làm rõ vấn đề này.
Vào khoảng 16 giờ ngày 23/8/2017, bà Nguyễn Thị T điều khiển xe mô tô trên đoạn đường xã Y, huyện M, tỉnh Tuyên Quang thì xảy ra tai nạn với xe ô tô do ông Chẩu Văn L điều khiển Hậu quả vụ tai nạn khiến bà T bị thương tích, tổn hại sức khỏe 9% Bà T yêu cầu ông L và ông Trần Anh U, chủ sở hữu xe ô tô, phải liên đới bồi thường số tiền 50.000.000 đồng.
Toà án khẳng định ông Chẩu Văn L, người lái xe thuê cho ông Trần Anh U, có hợp đồng giao xe với ông U, trong đó ông L hoàn toàn chịu trách nhiệm trong quá trình sử dụng xe Ông L cũng thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà T Vì vậy, HĐXX không chấp nhận yêu cầu của bà T về việc buộc ông Trần Anh U, chủ sở hữu xe, phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Trong vụ án này, mối quan hệ giữa người lái xe ô tô và người sử dụng xe gây thiệt hại với chủ sở hữu xe được xác định là quan hệ lao động, trong đó ông L lái xe thuê cho ông U Hai bên đã ký hợp đồng quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng xe, yêu cầu họ phải chịu toàn bộ trách nhiệm trong quá trình sử dụng Tòa án xác định trách nhiệm của người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dựa trên hợp đồng với chủ sở hữu xe theo Điều 601 BLDS 2015, từ đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận đã được ký kết.
Trong trường hợp giao xe thông qua quan hệ công việc, không phải chủ sở hữu xe luôn phải bồi thường thiệt hại, như đã nêu trong Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP Tòa án trong vụ án được bình luận đã xác định rằng ngoài việc giao xe để nhận tiền công, còn có giao dịch liên quan đến trách nhiệm giữa chủ sở hữu xe và người được giao xe Điều này phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 mục 1 phần III của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP.
13 Xem Phụ lục, Bản án số 32/2018/DS-PT ngày 22/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang
Theo điểm 14 mục 2 phần III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, trong trường hợp A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe cho B, và B đã lái xe gây tai nạn dẫn đến thiệt hại, cần phân biệt rõ trách nhiệm của các bên liên quan.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu, sử dụng nguồn
2.2.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
Khoản 2 Điều 601 quy định: người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hợp pháp thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại Người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể tiếp nhận theo hai hình thức đó là, được giao theo phạm vi uỷ quyền (Điều 187 BLDS 205), giao theo giao dịch dân sự (Điều 188 BLDS 2015), khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì người này phải có trách nhiệm bồi thường
Trong thực tiễn xét xử, có hai trường hợp phổ biến liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người được chủ sở hữu giao chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ Trường hợp thứ nhất là khi người được giao chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Bản án số 106/2021/DS-ST ngày 26/04/2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang đã chỉ ra rằng việc chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng Trong trường hợp người được chủ sở hữu giao chiếm hữu tiếp tục chuyển giao nguồn nguy hiểm cho người khác, trách nhiệm pháp lý sẽ được xác định khác nhau theo từng vụ án Tác giả sẽ trình bày một số ví dụ điển hình để minh họa cho vấn đề này.
Trường hợp 1, người được chủ sở hữu giao nguồn nguy hiểm cao độ là người trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại:
Vụ án thứ 11: Bản án 67/2017/DS-ST ngày 27/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp
Nội dung vụ án: khoảng 06 giờ 55 phút ngày 03/9/2015 con gái của anh S là
Hồ Thị Kim H, nguyên đơn, đang điều khiển xe đạp đến phà CL để đi học thì bị Nguyễn Ngọc H, bị đơn, điều khiển xe gắn máy biển số 66FL-1486 va chạm.
Bị cáo B, người sở hữu xe, đã gây tai nạn khi chạy cùng chiều, khiến Kim H bị gãy 4 chiếc răng cửa và xe đạp hư hỏng Nguyên đơn yêu cầu chị Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc B bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cho Hồ Thị Kim H với số tiền 15.315.000 đồng, bao gồm chi phí khám chữa và trồng lại răng bị gãy.
Chị Nguyễn Ngọc H cho biết, chị điều khiển xe máy do cha mình, ông Nguyễn Ngọc B, đứng tên sở hữu, đã va chạm với xe đạp của nguyên đơn Hồ Thị Kim H Chị H không đồng ý bồi thường thiệt hại do cho rằng mình không có lỗi trong vụ tai nạn Ông Nguyễn Ngọc B, cha của chị H, xác nhận ông là chủ sở hữu xe máy biển số 66FL-1486, đã giao xe cho chị H sử dụng để đi học Cả hai đều không đồng ý bồi thường số tiền 15.315.000đ cho Hồ Thị Kim H vì cho rằng không có lỗi trong vụ việc.
Tòa án xác định rằng theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu và người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ trường hợp người bị thiệt hại có lỗi cố ý Trong vụ tai nạn giao thông này, cả nguyên đơn và bị đơn đều không cố ý va chạm xe, mà chỉ là do lỗi vô ý Do đó, nguyên đơn đã yêu cầu bồi thường.
Chị Nguyễn Ngọc H và ông Nguyễn Ngọc B có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Hồ Thị Kim H do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, theo quy định tại Điều 601 của Bộ luật dân sự năm 2015, và điều này đã được Tòa án chấp nhận.
Trong vụ án này, Tòa án không xem xét tính hợp pháp của việc ông B giao xe cho chị H quản lý, cũng như không xác định trách nhiệm bồi thường của chị H Tòa án chỉ khẳng định rằng chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại dù không có lỗi, buộc ông B và chị H cùng chịu trách nhiệm bồi thường cho bị đơn là cháu H Tuy nhiên, trách nhiệm liên đới chỉ phát sinh khi tài sản được giao cho người khác một cách trái pháp luật Cách giải quyết của Tòa án vì vậy chưa thuyết phục.
Trong trường hợp thứ hai, nếu người được chủ sở hữu giao quyền chiếm hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn này cho người thứ ba, dẫn đến việc gây thiệt hại, thì trách nhiệm sẽ thuộc về người đã giao nguồn nguy hiểm.
Vụ án thứ 12: Bản án số 19/2019/HSPT ngày 22/04/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
Khoảng 19 giờ 10 phút ngày 28/2/2018 Nguyễn Văn Thanh điều khiển xe mô tô BKS 90B1-90568 chở anh Vũ Quang Sự ngồi sau Khi đi đến thôn Triệu Xá, xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý do lúc này có mưa phùn nên Thanh sử dụng 01 tay điều khiển xe môtô còn 01 tay đưa lên vuốt nước mưa hắt vào mặt Cùng lúc đó chị Trần Thị H, điều khiển xe mô tô BKS 90 B1- 29529 đi theo chiều ngược lại, do mất tập trung quan sát nên Thanh đã điều khiển xe đi lấn đường ngược chiều, đâm vào bánh trước phần bên phải của xe mô tô chị Huê đang điều khiển gây tai nạn Hậu quả làm chị Huê tử vong Nguyễn Văn T và Vũ Quang S bị chấn thương phần mềm, hai xe mô tô bị hư hỏng
Bản án sơ thẩm xác định trách nhiệm dân sự theo Điều 48 BLHS 2015 và các Điều 584, 585, 586, 591 BLDS 2015, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải bồi thường tổng số tiền 310.000.000 đồng cho người đại diện hợp pháp của bị hại, anh Trần Ngọc D, để chi trả cho các khoản phí cấp cứu và điều trị cho chị Trần Thị H, cũng như chi phí tổ chức tang lễ cho chị Huệ Ngoài ra, bị cáo còn phải trả khoản tiền cấp dưỡng một lần 50.000.000 đồng cho mẹ đẻ chị Huệ, người đang mắc bệnh tật, cùng khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần.
Theo bản án 67/2017/DS-ST ngày 27/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, bị cáo phải bồi thường tổng cộng 430.000.000 đồng cho anh Trần Ngọc D, trong đó có 70.000.000 đồng cho người thân thích của bị hại.
Anh Trần Ngọc D, người đại diện hợp pháp của bị hại, đã nộp đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo và đề nghị truy cứu trách nhiệm đối với anh Vũ Quang S cùng ông Vũ Văn T, chủ sở hữu phương tiện giao thông.
Bản án phúc thẩm xác định rằng bị cáo Nguyễn Văn T đã điều khiển xe mô tô chở anh Vũ Quang S mà không có giấy phép lái xe, dẫn đến việc đâm vào xe mô tô BKS 90B1 - 295.29 do chị Trần Thị H điều khiển, gây ra tai nạn trên phần đường của mình.
Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại anh Trần Ngọc