LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Khái niệm và vai trò của thị trường
*Khái niệm của thị trường
Thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh tế, nơi nhu cầu của các chủ thể được thỏa mãn thông qua việc trao đổi và mua bán hàng hóa, dịch vụ Giá cả và số lượng hàng hóa được xác định dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội.
Thị trường có thể được nhận diện ở nhiều cấp độ, từ những hình thức cụ thể như chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động đến các tổ chức giao dịch như phòng giao dịch và siêu thị Ở cấp độ trừu tượng hơn, thị trường được hình thành từ các mối quan hệ trao đổi hàng hóa và dịch vụ trong xã hội, chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế và xã hội Theo cách hiểu này, thị trường bao gồm tổng thể các mối quan hệ kinh tế như cung, cầu, giá cả, quan hệ hàng – tiền, giá trị và giá trị sử dụng, cùng với các mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh, cũng như quan hệ trong nước và ngoài nước.
Theo đối tượng trao đổi và mua bán, thị trường được chia thành hai loại chính: thị trường hàng hóa và thị trường dịch vụ Mỗi loại thị trường này có thể phân chia thành nhiều thị trường cụ thể khác nhau, tùy thuộc vào các loại hàng hóa và dịch vụ phong phú.
Căn cứ vào phạm vi các quan hệ, có các loại thị trường trong nước, thị trường thế giới.
Căn cứ vào vai trò của các yếu tố được trao đổi, mua bán, có thị trường tư liệu tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất.
Thị trường được phân loại dựa trên tính chất và cơ chế vận hành thành bốn loại chính: thị trường tự do, thị trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (độc quyền).
*Vai trò của thị trường
Xét đến mối quan hệ thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa, vai trò chủ yếu của thị trường được khái quát như sau:
Một là , thị trường thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho sản xuất phát triển
Thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối sản xuất và tiêu dùng, tạo ra các nhu cầu cho cả hai bên Nó không chỉ xác định nhu cầu sản xuất mà còn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, từ đó cung cấp thông tin và định hướng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự sáng tạo của từng cá nhân trong xã hội, đồng thời tạo ra phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả cho nền kinh tế.
Thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế và sự phát triển không ngừng Sự sáng tạo được thị trường công nhận sẽ mang lại lợi ích tương xứng cho các chủ thể sáng tạo Khi lợi ích này được đáp ứng, động lực cho sự sáng tạo sẽ được tăng cường Thị trường cũng giúp điều tiết và phân bố các nguồn lực sản xuất đến những chủ thể sử dụng hiệu quả, từ đó tạo ra cơ chế lựa chọn các chủ thể có khả năng khai thác nguồn lực một cách tối ưu trong nền sản xuất.
Ba là , thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự thống nhất giữa các quan hệ sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng trong phạm vi quốc gia Đồng thời, thị trường cũng kết nối nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, giúp các quan hệ này không chỉ giới hạn trong nội bộ quốc gia mà còn mở rộng ra toàn cầu Nhờ vào vai trò này, thị trường thúc đẩy sự gắn kết giữa nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới.
Thị trường đóng vai trò quan trọng trong cơ chế thị trường, và sự vận hành của cơ chế này làm cho thị trường trở nên sôi động.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo yêu cầu của các quy luật kinh tế
Cơ chế thị trường là phương thức chủ yếu để phân phối và sử dụng các nguồn lực như vốn tài chính, tài nguyên, công nghệ, lao động, thông tin và trí tuệ trong nền kinh tế thị trường.
Cơ chế của thị trường
1.2.1 Ưu điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường khuyến khích các chủ thể kinh tế hoạt động tích cực và tạo điều kiện cho sự tự do trong kinh doanh Doanh nghiệp có quyền tự quyết định hình thức sản xuất, đồng thời chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình Điều này góp phần thúc đẩy sự phát triển năng động và hiệu quả của nền kinh tế.
Cơ chế thị trường thúc đẩy sự thích ứng tự phát giữa tổng cung và tổng cầu trong xã hội, điều chỉnh khối lượng và cơ cấu sản xuất để phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Cơ chế thị trường thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật và tối ưu hóa quy trình sản xuất Sự cạnh tranh gia tăng yêu cầu các doanh nghiệp phải giảm chi phí bằng cách áp dụng các phương pháp đổi mới và công nghệ sản xuất tiên tiến Điều này bao gồm việc cải tiến sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và nâng cao quản lý kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Cơ chế thị trường tối ưu hóa việc phân phối nguồn lực kinh tế, cho phép các nguồn lực sản xuất tự điều chỉnh và di chuyển đến những nơi có hiệu quả sử dụng cao nhất, dựa trên các nguyên tắc thị trường.
Cơ chế thị trường mềm dẻo có khả năng điều tiết linh hoạt, giúp thích ứng hiệu quả với những thay đổi trong điều kiện kinh tế - xã hội, từ đó tạo sự hài hòa giữa sản xuất xã hội và nhu cầu của người tiêu dùng.
1.2.2 Nhược điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường hoạt động hiệu quả nhất trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo; tuy nhiên, khi có sự xuất hiện của cạnh tranh không hoàn hảo, hiệu lực của cơ chế thị trường sẽ bị suy giảm.
1 Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lê Nin, Chủ biên PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa, Hà Nội 2019
Các doanh nghiệp thường đặt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, dẫn đến việc lạm dụng tài nguyên xã hội và gây ô nhiễm môi trường Hành động này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng sống của con người mà còn làm giảm hiệu quả kinh tế – xã hội.
Cơ chế thị trường gây ra sự phân hóa giàu nghèo và phân phối thu nhập không công bằng, dẫn đến tình trạng phân cực về của cải Hệ quả của điều này không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế mà còn tác động xấu đến đạo đức và tình người trong xã hội.
Nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết một cách thuần túy khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp 2
Nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó các quan hệ kinh tế giữa cá nhân và doanh nghiệp được thể hiện qua giao dịch mua bán hàng hoá và dịch vụ Mỗi thành viên trong nền kinh tế đều hướng tới việc tối đa hoá lợi ích cá nhân, dựa trên sự biến động của giá cả thị trường Đây là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, nơi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá Các yếu tố sản xuất như đất đai, tài nguyên, vốn, sức lao động, công nghệ, quản lý và sản phẩm dịch vụ đều trở thành đối tượng mua bán trong thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là một quá trình khách quan trong lịch sử, bắt đầu từ kinh tế tự nhiên và tự túc, sau đó tiến hóa thành kinh tế hàng hóa Kinh tế thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ những hình thức sơ khai cho đến nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay Đây chính là sản phẩm của sự tiến bộ và văn minh của nhân loại.
Kinh tế thị trường là một chủ đề gây tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau Theo Adam Smith, với lý thuyết "bàn tay vô hình", nền kinh tế thị trường tự điều chỉnh theo quy luật thị trường mà không cần sự can thiệp của Nhà nước Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng kinh tế thị trường cần sự can thiệp trực tiếp từ Nhà nước để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững.
Cơ chế thị trường tại Việt Nam, được định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý bởi Nhà nước, đã được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1986 Sự phát triển này được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp, phản ánh quan điểm của Kâynơ về việc làm, lãi suất và tiền tệ trong nền kinh tế.
Từ năm 1992, Việt Nam đã chuyển mình từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế đa dạng Trước đây, chỉ có kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, nhưng hiện nay, kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài đã trở thành những yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế Nhà nước Việt Nam đã xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế hoạt động và phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh.
1.3.2 Các đặc trưng của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển với các mô hình đa dạng Những nền kinh tế thị trường thường có những đặc trưng chung, phản ánh sự tương tác giữa cung và cầu, cạnh tranh và vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế.
Trong nền kinh tế hiện đại, sự đa dạng của các chủ thể kinh tế và nhiều hình thức sở hữu là điều quan trọng Tất cả các chủ thể kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử và có quyền tự do sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật Điều này tạo cơ hội cho các chủ thể tiếp cận hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực xã hội qua các bộ phận như thị trường hàng hóa, dịch vụ, sức lao động, tài chính, bất động sản và khoa học công nghệ Việc lành mạnh hóa các yếu tố này sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền vững và hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường, nơi cạnh tranh không chỉ là môi trường mà còn là động lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh Lợi nhuận và các lợi ích kinh tế - xã hội khác là động lực chính của các chủ thể sản xuất Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều tiết kinh tế, khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy các yếu tố tích cực, đồng thời đảm bảo sự bình đẳng xã hội và ổn định cho toàn bộ nền kinh tế.
Nền kinh tế mở của Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường quốc tế, trong đó nhà nước đóng vai trò điều tiết nền kinh tế thị trường Việc áp dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện Việt Nam và bối cảnh hội nhập quốc tế nhằm định hướng phát triển kinh tế, tạo ra môi trường ổn định và bền vững, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Các đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường có tính phổ biến, nhưng mỗi quốc gia sẽ có những đặc điểm riêng biệt tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và chế độ chính trị xã hội Điều này tạo ra sự đa dạng và tính đặc thù trong các mô hình kinh tế thị trường khác nhau.
1.3.3 Ưu thế của nền kinh tế thị trường
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể có cơ hội tìm ra động lực sáng tạo và cải tiến cách làm việc, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để phát triển không ngừng Vai trò của thị trường giúp kích thích sự sáng tạo trong hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tự do, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất Nền kinh tế thị trường chấp nhận ý tưởng sáng tạo mới trong sản xuất, kinh doanh và quản lý, đồng thời tạo ra môi trường mở cho các mô hình kinh doanh mới theo sự phát triển của xã hội.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng và lợi thế đều có thể được khai thác, góp phần tạo ra lợi ích cho xã hội Nhờ vào vai trò kết nối của thị trường, nền kinh tế thị trường thể hiện hiệu quả vượt trội so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay kế hoạch hóa, giúp phát huy tiềm năng và lợi thế của từng cá nhân, vùng miền trong quốc gia cũng như của từng quốc gia trong mối quan hệ kinh tế toàn cầu.
Nền kinh tế thị trường không ngừng phát triển các phương thức nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ đó góp phần thúc đẩy tiến bộ và văn minh xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, người dân có cơ hội tối ưu để thỏa mãn nhu cầu của mình Sự tác động của các quy luật thị trường giúp cân bằng sản xuất và tiêu dùng, đảm bảo nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ được đáp ứng kịp thời Điều này không chỉ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà còn góp phần thúc đẩy văn minh và tiến bộ xã hội.
1.3.4 Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng những khuyết tật vốn có Những khuyết tật chủ yếu của kinh tế thị trưởng bao gồm:
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng
Khái quát kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.4.1 Khái niệm. a Quan niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, nơi các quan hệ kinh tế diễn ra chủ yếu trên thị trường và tuân theo các quy luật kinh tế tự nhiên Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng dưới sự quản lý của nhà nước, nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội chủ nghĩa Nó bao gồm việc sử dụng công nghệ kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân.
1.4.2 Phát triển kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan. a Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, với nền sản xuất thấp kém, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn: cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém…
Trước đây, do thiếu kiên nhẫn trong việc tiến tới chủ nghĩa xã hội và không dựa vào thực tiễn, chúng ta đã áp dụng cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu và bao cấp Việc vận dụng mô hình kinh tế có quan hệ sản xuất phát triển cao trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém đã dẫn đến sự không phù hợp, gây ra khủng hoảng cho nền kinh tế.
Chúng ta thường nhầm lẫn rằng kinh tế hàng hoá, đặc biệt là kinh tế thị trường, chỉ là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, nhưng thực tế cho thấy nó không thuộc về một chế độ xã hội nào và sẽ tồn tại qua nhiều giai đoạn phát triển Để hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn, việc phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là điều cần thiết Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu bước chuyển quan trọng từ cơ chế tập trung quan liêu sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo tiền đề cho việc chuyển đổi sang kinh tế thị trường Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng việc áp dụng mô hình kinh tế hàng hoá là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tế vẫn phải tồn tại kinh tế thị trường vì nó còn cơ sở khách quan cho sự tồn tại, đó là:
Sự phân công lao động xã hội vẫn tồn tại và ngày càng chuyên môn hóa sâu sắc, đồng thời gắn liền với hợp tác phân công quốc tế Các quan hệ kinh tế và hoạt động lao động trong xã hội cần dựa trên thước đo giá trị, được thực hiện hiệu quả nhất thông qua quan hệ hàng hoá- tiền tệ Mặc dù có sự tách biệt về kinh tế với nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế vẫn cùng tồn tại trong hệ thống phân công lao động xã hội, vừa cạnh tranh vừa hợp tác Sự tương tác này chỉ có thể diễn ra thông qua trao đổi hàng hoá- tiền tệ trong cơ chế thị trường.
Trong môi trường kinh tế hiện nay, sự tách biệt giữa các doanh nghiệp vẫn tồn tại, dẫn đến sự khác biệt về quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh cũng như lợi ích kinh tế Các mối liên hệ giữa các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu diễn ra qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ, điều này phản ánh tính tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại toàn cầu Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, các quy luật kinh tế buộc các chủ thể phải tối ưu hóa kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất Sự năng động và sáng tạo của các chủ thể kinh tế chính là ưu điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường.
Chủ nghĩa tư bản đã tận dụng vai trò quan trọng của kinh tế thị trường để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, mang lại lợi ích cho giai cấp tư sản Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm độc quyền của chủ nghĩa tư bản Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phát huy những ưu điểm của kinh tế thị trường và khắc phục những hạn chế của nó Việc cải tiến kỹ thuật là một trong những yếu tố quan trọng, do đó Đảng ta đã chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Mô hình này không chỉ phù hợp với đặc điểm kinh tế thời kỳ quá độ của đất nước mà còn khai thác tối đa tiềm năng kinh tế Đây là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong những năm đầu thực hiện đổi mới, đất nước đã chứng kiến những kết quả khả quan, với sự thay đổi rõ rệt trong đời sống kinh tế - xã hội Sản xuất trong nước phát triển, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân được cải thiện đáng kể Điều này chứng minh rằng kinh tế thị trường không chỉ không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà còn là phương thức hiệu quả để đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
1.4.3 Những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. a Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ ở nước ta, là sự kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù.
Do sự khác biệt về trình độ kinh tế, cấu trúc xã hội và phong tục tập quán giữa các quốc gia, việc áp dụng mô hình kinh tế thị trường cũng sẽ khác nhau Bên cạnh những đặc điểm chung và phổ biến, mỗi quốc gia còn có những đặc điểm riêng biệt Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của quy luật này.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, cung cầu và cạnh tranh Cơ chế thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc vận hành nền kinh tế, với nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân góp phần làm phong phú thị trường Sự can thiệp của nhà nước là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của nền kinh tế, thông qua hệ thống luật lệ và chính sách nhằm hạn chế khuyết tật của thị trường và tạo lập các cân đối vĩ mô Giá cả chủ yếu hình thành từ thị trường và cạnh tranh, trong khi các đơn vị kinh tế hoạt động tự chủ theo pháp luật Thị trường quốc gia là một thể thống nhất, từng bước hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế, bao gồm nhiều loại thị trường như hàng hoá, vốn và lao động, với tiêu chuẩn tăng trưởng và phát triển kinh tế làm thước đo đánh giá.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ mang những đặc điểm chung của một nền kinh tế thị trường mà còn sở hữu những đặc trưng riêng biệt, phản ánh sự kết hợp giữa phát triển kinh tế và các giá trị xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được đảm bảo bởi sự quản lý vĩ mô của nhà nước, với mục tiêu phục vụ lợi ích của nhân dân Nhà nước xã hội chủ nghĩa định
Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam được đặc trưng bởi việc xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất, cũng như cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội Điều này bao gồm việc thiết lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo rằng phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở khía cạnh tài chính mà còn chú trọng đến các vấn đề xã hội Mục tiêu cuối cùng là tạo ra sự giàu có cho nhân dân, củng cố sức mạnh quốc gia, đồng thời thực hiện dân chủ và công bằng xã hội.
Đặc trưng về chế độ sở hữu.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế đa dạng với nhiều hình thức sở hữu như sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước Đa dạng hoá sở hữu là yếu tố thiết yếu, tạo nên nhiều thành phần kinh tế khác nhau Khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất Sự đa dạng này không chỉ tạo ra sự cạnh tranh mà còn khuyến khích hợp tác giữa các thành phần kinh tế.
Đặc trưng về quan hệ phân phối.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
Khái quát về nền kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đang phát triển theo mô hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức xác định khái niệm này tại Đại hội IX năm 2001, coi đây là chiến lược phát triển bền vững trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội Nền kinh tế Việt Nam có cấu trúc đa dạng với nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong khi kinh tế tư nhân được xem là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Bảng 2.1 : Cơ cấu đóng góp GDP của các thành phần kinh tế từ năm 2016 - 2018
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không chỉ điều tiết mà còn quản lý để đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội Để thực hiện điều này, Việt Nam áp dụng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Kinh tế thị trường trở thành công cụ quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, giúp Việt Nam chuyển mình từ một trong những nước nghèo nhất thế giới thành quốc gia có thu nhập trung bình chỉ trong 4 năm từ 2016.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một chủ đề quan trọng, được phân tích bởi TS Đặng Quang Định trong bài viết ngày 18-07-2021 Bài viết đề cập đến các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến mô hình kinh tế này, nhấn mạnh sự cần thiết phải kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội Qua đó, tác giả cũng chỉ ra những thách thức và cơ hội mà Việt Nam đang đối mặt trong quá trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế toàn cầu.
2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất.” 6
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng 2,91% vào năm 2020, giúp GDP trung bình trong giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,9% mỗi năm, nằm trong nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới Năm 2021, GDP Việt Nam ước tính tăng 2,58% so với năm trước, phản ánh sự phục hồi ấn tượng của nền kinh tế giữa những thách thức do dịch bệnh.
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ tăng trưởng GDP qua các năm
Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh
Kinh tế phát triển không chỉ nâng cao đời sống vật chất mà còn cải thiện tinh thần của người dân Năm 1985, bình quân thu nhập đã có sự thay đổi đáng kể, phản ánh sự tiến bộ trong chất lượng cuộc sống.
6 Nguyễn Minh Phong & Nguyễn Trần Minh Trí, (10/01/2021), Vị thế và cơ đồ kinh tế Việt Nam, Truy cập từ https://nhandan.vn
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 2.786 USD, cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong bối cảnh khó khăn Các cân đối lớn của nền kinh tế như tích lũy - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực và lao động - việc làm vẫn được duy trì ổn định, khẳng định bản lĩnh của Việt Nam trong việc vượt qua thách thức kinh tế.
Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém:
Hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam hiện đang bộc lộ nhiều yếu kém và bất cập, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ thống pháp luật hiện nay còn thiếu tính toàn diện và đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật Nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến đổi mới kinh tế - xã hội vẫn chưa được thể chế hóa kịp thời, như quản lý nhà nước đối với tài sản sở hữu nhà nước, đăng ký kinh doanh bất động sản, cạnh tranh trung thực và kiểm soát độc quyền.
- Một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao.
- Tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp: Những sai phạm về hình thức văn bản vẫn xảy ra
Các chính sách kinh tế và tổ chức thực hiện của Nhà nước cần được thiết kế phù hợp với cơ chế thị trường để đảm bảo lợi ích và công bằng xã hội Điều này sẽ giúp ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hợp lý, đồng thời ngăn chặn tình trạng độc quyền và lạm dụng, tránh làm méo mó thị trường, lệch lạc nguồn lực và tổn hại lợi ích cộng đồng, cũng như hạn chế các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.
Do khối lượng công việc lớn và đa dạng, cùng với tính chất phức tạp, nhiều công việc tồn đọng kéo dài qua các thời kỳ chính sách khác nhau Số lượng cán bộ hiện tại còn hạn chế, chưa đạt đủ định biên cần thiết Ngoài ra, một số tập đoàn và tổng công ty chưa thực hiện chế độ báo cáo đúng hạn, đặc biệt là trong các báo cáo tài chính và giám sát tài chính.
8 https://solieukinhte.com/gdp-binh-quan-dau-nguoi-cua-viet-nam/
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện đang chậm và chưa bền vững, dưới mức tiềm năng, với lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để và năng suất lao động thấp Theo nghiên cứu và dữ liệu từ Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năng suất lao động chỉ tăng 5,4%, giảm so với 6,2% năm 2019, đạt mức bình quân 117,94 triệu đồng, tương đương khoảng 5.081 USD/lao động, đây là mức thấp nhất trong 5 năm qua Khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam cũng còn hạn chế.
So với các nước trong khu vực ASEAN, năng lực cạnh tranh của Việt Nam hiện đứng thứ 7, chỉ vượt trên Lào, Campuchia và Myanmar Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải triển khai các chính sách toàn diện nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam cần tận dụng các cơ hội từ cả nội tại và quốc tế để phấn đấu thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Việc phân bổ nguồn lực cho phát triển hiện nay còn dàn trải và lãng phí, dẫn đến hiệu quả thấp và sự bất công trong xã hội Tình trạng phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội ngày càng gia tăng, cùng với sự gia tăng tệ nạn xã hội Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư, đặc biệt là nông dân ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa, vẫn chậm được cải thiện và ít được hưởng lợi từ sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Những chuyển biến thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam
2.2.1.Từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường
Từ năm 1986 đến 2000, Việt Nam đã thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung và bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến quan trọng với cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng đã khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo trong các loại hình kinh tế, góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng sản phẩm cho xã hội Trong giai đoạn 1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm tăng 6,51%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%.
9 Phan hậu (31/03/2021), Năng suất lao động của Việt Nam tụt hậu 60 năm so với Nhật Bản, truy cập từ: thanhnien.vn
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch rõ rệt, với khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06% và khu vực dịch vụ tăng 6,66% Cơ cấu kinh tế đang dần chuyển mình theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, trong đó tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ còn 24,53% GDP, giảm 13,53% so với năm 1986 Ngược lại, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73% GDP, tăng 7,85%, trong khi khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68%.
Thành tựu nổi bật của thời kỳ đổi mới tại Việt Nam là sự phát triển mạnh mẽ của ngành nông nghiệp Ngành này không chỉ giải quyết hiệu quả vấn đề lương thực mà còn đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, giúp Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Trong giai đoạn này, tăng trưởng kinh tế đã kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa và xây dựng con người, với 90% trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học và 94% dân số từ 15-35 tuổi biết chữ Sau 10 năm nỗ lực, đến giữa năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành chương trình chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học Chính sách cải cách tiền lương đã thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân Thu nhập bình quân tăng nhanh giúp giảm tỷ lệ nghèo từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% vào năm 1998.
2.2.2 Nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng (2001 đến nay)
Trong thời gian qua, nhờ nắm bắt thời cơ và vượt qua khó khăn, nền kinh tế Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng và đạt được nhiều thành tựu lớn Kinh tế liên tục tăng trưởng, giúp đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và gia nhập nhóm các nước đang phát triển với mức thu nhập trung bình thấp.
Trong bài viết của TS Nguyễn Thị Hương vào ngày 3 tháng 9 năm 2020, tác giả đã trình bày những dấu ấn quan trọng về kinh tế – xã hội trong hành trình 75 năm xây dựng và phát triển đất nước, dựa trên các số liệu thống kê đáng tin cậy Thông tin này có thể được truy cập từ trang web gso.gov.vn, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tiến bộ và thách thức mà đất nước đã trải qua trong suốt thời gian qua.
Bài viết của TS Nguyễn Thị Hương (3/9/2020) nêu bật những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội trong hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước, dựa trên các số liệu thống kê Thông tin này được truy cập từ trang gso.gov.vn, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tiến bộ và thách thức mà Việt Nam đã trải qua trong suốt thời gian qua.
Kể từ hội XII, dưới sự điều hành quyết liệt và quyết tâm cao của Chính phủ, Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng Tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%, vượt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5% đến 7% trong kế hoạch 5 năm 2016 - 2020.
Quy mô nền kinh tế Việt Nam đã mở rộng đáng kể, dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân của người dân, với GDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 2.715 USD, gấp 15 lần so với năm 1990 Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng cũng tăng lên 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần so với năm 2002 Năng suất lao động (NSLĐ) đã tăng từ 4,3%/năm trong giai đoạn 2011 – 2015 lên 5,8%/năm trong giai đoạn 2016 – 2020, với đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trung bình đạt khoảng 45,2% trong 5 năm này, vượt qua mục tiêu đề ra Sự cải thiện đáng kể về NSLĐ đã góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và toàn diện, góp phần thúc đẩy sự hội nhập sâu rộng với nền kinh tế khu vực và toàn cầu Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm nay đạt mức cao, phản ánh sự gia tăng trong giao thương quốc tế và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
2018 ước đạt 475 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 239 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm
Năm 2017, hàng hóa Việt Nam đã tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống và mở rộng tìm kiếm nhiều thị trường mới Xuất khẩu sang các nước có hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao, cho thấy nền kinh tế nước ta đang ngày càng mở cửa và phát triển nhanh chóng Điều này phản ánh việc Việt Nam đã tận dụng được thế mạnh kinh tế trong nước và khai thác hiệu quả thị trường toàn cầu.
Những nỗ lực đổi mới trong những năm qua đã cải thiện môi trường đầu tư, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư phát triển Sau hơn 30 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cả nước hiện có khoảng 334 tỷ USD vốn đăng ký với hơn 26.600 dự án còn hiệu lực Khu vực FDI ngày càng phát triển và trở thành một trong những khu vực năng động nhất của nền kinh tế.
14 Mai Trung Dũng (31/01/2021), Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước, truy cập từ: phutho.gov.vn
15 Nguyễn Đức Kiên, Kinh tế Việt Nam – nhìn lại sau 35 năm đổi mới, truy cập từ: bqllang.gov.vn
16 https://www.vass.gov.vn/tap-chi-vien-han-lam/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-boi-canh-cuc-dien-kinh-te-the- gioi-moi-20
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Hiện tại, khu vực FDI chiếm khoảng 25% vốn đầu tư toàn xã hội và đóng góp hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước FDI không chỉ tăng thu ngân sách mà còn tạo việc làm và ổn định tình hình xã hội Hơn nữa, hoạt động này đã giúp mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và toàn cầu.
Sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và sự nhất quán trong chính sách của Nhà nước Nhờ đó, vị thế của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể trên trường quốc tế và trong khu vực ASEAN.
Khái quát sơ lược thành phần kinh tế ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cấu trúc kinh tế của mỗi quốc gia có thể khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử riêng Theo Lênin, phổ biến ở các nước có ba thành phần kinh tế: xã hội chủ nghĩa, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân Đặc biệt, trong bối cảnh một nước thuộc địa, nửa phong kiến chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội mà không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kết cấu kinh tế - xã hội trở nên phức tạp hơn với sự hiện diện của cả quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa và quan hệ xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã xác định rằng nền kinh tế nước ta hiện nay bao gồm các thành phần kinh tế đa dạng.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, xí nghiệp quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, tài nguyên thiên nhiên và ngân sách Kinh tế nhà nước không chỉ rộng lớn mà còn mạnh mẽ hơn so với doanh nghiệp nhà nước, thể hiện vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước Đây là một bước tiến trong nhận thức về vai trò của kinh tế nhà nước trong quá trình đổi mới Kinh tế nhà nước dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội Nó cũng hỗ trợ và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển, đồng thời là lực lượng quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
2.3.2 Kinh tế tập thể, hợp tác
Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện giữa những người lao động, nhằm kết hợp sức mạnh cá nhân với sức mạnh tập thể để giải quyết hiệu quả các vấn đề trong sản xuất, kinh doanh và đời sống Hình thức hợp tác này phát triển đa dạng, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã, dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ, tuân thủ đúng luật hợp tác xã.
Kinh tế tập thể đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng trong nhiều lĩnh vực cả nông thôn lẫn thành thị, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành những trụ cột vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và là yếu tố chiến lược trong phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việc phát triển kinh tế tư nhân không chỉ hỗ trợ công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn nâng cao nội lực quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, tất cả đều thuộc sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể Mặc dù lý thuyết phân tích, kinh tế cá thể và tiểu chủ có sự khác biệt về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và bản chất quan hệ sản xuất, nhưng chúng đều góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Kinh tế tư nhân ngày càng được nhận thức và đánh giá cao trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế Vai trò của nó trong việc huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đang gia tăng, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội.
2.3.4 Kinh tế có vố đầu tư nước ngoài
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thuật ngữ chỉ các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài Tại Việt Nam, khái niệm này được xác định từ văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
+ Các doanh nghiệp, công ty 100% vốn nước ngoài.
+ Các doanh nghiệp, công ty liên doanh
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần huy động vốn, công nghệ và phương thức quản lý hiện đại Nó cũng giúp mở rộng thị trường xuất khẩu và được khuyến khích phát triển theo chiến lược và quy hoạch kinh tế - xã hội.
Vận dụng vào phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta
2.4.1 Khái niệm kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là một chiến lược lâu dài mà còn là yếu tố then chốt trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Sự phát triển này góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao nội lực quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Thành phần kinh tế tư nhân:
Kinh tế cá thể và tiểu chủ đều dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, nhưng có sự khác biệt quan trọng Kinh tế cá thể hoàn toàn phụ thuộc vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, trong khi kinh tế tiểu chủ, mặc dù cũng chủ yếu dựa vào lao động và vốn của gia đình, nhưng có yếu tố thuê lao động.
Kinh tế tư bản tư nhân là hệ thống kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự bóc lột lao động làm thuê Hệ thống này thể hiện sự năng động và nhạy bén với thị trường, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế quốc gia Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân cũng mang tính tự phát cao, điều này có thể dẫn đến những biến động không mong muốn trong quá trình phát triển.
2.4.1.1 Khái niệm sở hữu tư nhân
Sở hữu tư nhân là quyền sở hữu riêng của cá nhân hoặc pháp nhân kinh tế đối với tài sản phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần Quyền này được xác lập dựa trên các căn cứ pháp lý do luật pháp quy định, mà không bị giới hạn về số lượng hay giá trị tài sản thuộc sở hữu.
Sở hữu tư nhân được phân loại thành ba loại chính dựa trên tính chất vốn, cách thức tổ chức sản xuất và sử dụng lao động Đầu tiên là sở hữu cá thể, thường có phần vốn nhỏ và tổ chức sản xuất theo kiểu tự cung, tự cấp Tiếp theo là sở hữu tiểu chủ, nơi cá nhân đã biết tổ chức sản xuất và thuê nhân công để đáp ứng nhu cầu xã hội Cuối cùng, sở hữu tư bản tư nhân với vốn lớn và tổ chức sản xuất ở trình độ cao, cho phép phát triển quy mô và hiệu quả sản xuất.
2.4.1.2 Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ, được tạo điều kiện thuận lợi trong việc kinh doanh và được đối xử công bằng với các thành phần kinh tế khác Sự tiếp cận các yếu tố sản xuất và thị trường ngày càng dễ dàng hơn, giúp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh Hoạt động kinh tế tư nhân hiện diện đa dạng trong hầu hết các ngành nghề và khu vực, đồng thời đã hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, có khả năng cạnh tranh không chỉ trên thị trường nội địa mà còn cả quốc tế.
Kinh tế tư nhân tại Việt Nam đang duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, đóng góp từ 39-40% vào GDP và thu hút khoảng 85% lực lượng lao động Điều này không chỉ giúp huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất, mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách và tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, cũng như bảo đảm an sinh xã hội Đội ngũ doanh nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ với khát vọng làm giàu chính đáng, nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị Bên cạnh đó, trách nhiệm xã hội, đạo đức và văn hóa kinh doanh của doanh nhân cũng ngày càng được nâng cao.
Các cấp ủy đảng đang chú trọng đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức cùng phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng trong khu vực kinh tế tư nhân Đặc biệt, việc cho phép đảng viên tham gia vào hoạt động kinh tế tư nhân và thí điểm kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng đang được triển khai.
Hoạt động giám sát và phản biện chính sách của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị - xã hội và xã hội - nghề nghiệp đang được chú trọng đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cả người lao động và người sử dụng lao động.
Qua các kỳ Đại hội Đảng, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định Văn kiện Đại hội X năm 2006 nhấn mạnh kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế Nghị quyết Đại hội XI năm 2011 cũng chỉ ra cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, khẳng định vị trí của nó trong sự phát triển kinh tế quốc gia.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng năm 2016 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân trong hầu hết các ngành, xem đây là động lực quan trọng cho nền kinh tế Đồng thời, cần chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như khuyến khích khởi nghiệp Ngoài ra, việc hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng được coi là cần thiết để phát triển kinh tế tư nhân.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII vào tháng 5/2017 đã thông qua Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, nhằm biến kinh tế tư nhân thành một động lực quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Mục tiêu là thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng, bền vững và đa dạng của kinh tế tư nhân, đạt được tốc độ tăng trưởng cao về cả số lượng.
19 ,20 https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te-tu-nhan-la-dong-luc-quan-trong-cua-nen-kinh-te-436696.html
Nghị quyết về quy mô, chất lượng và tỷ trọng trong GDP đánh dấu bước tiến mới, thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân và toàn bộ nền kinh tế Điều này khẳng định quan điểm liên tục phát triển của Đảng đối với kinh tế tư nhân Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm cho thấy Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân ngày càng được công nhận và đánh giá cao trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế Vai trò của nó trong việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tái cấu trúc nền kinh tế, và tăng thu ngân sách nhà nước là rất quan trọng Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân cũng góp phần tạo ra việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội.
Kinh tế tư nhân tại Việt Nam đóng góp ổn định khoảng 39-40% vào GDP, với sự hình thành của nhiều tập đoàn lớn và đội ngũ doanh nhân ngày càng phát triển Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, đa dạng về loại hình và phong trào khởi nghiệp đang được thúc đẩy mạnh mẽ Hiện nay, cả nước có hơn 500.000 doanh nghiệp tư nhân hoạt động, với hàng vạn doanh nghiệp mới được thành lập mỗi năm Kinh tế tư nhân thu hút khoảng 51% lực lượng lao động và tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm hàng năm, góp phần quan trọng vào tái cấu trúc nền kinh tế và nâng cao thu nhập cho người dân.
22 Tiếp tục khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Bài 2: Tạo không gian phát triển của kinh tế tư nhân (dcs.vn)