Mục đích, ý nghĩa của đề tài 4
Tác giả luận văn nghiên cứu những đóng góp của thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, nhằm làm rõ vai trò và ảnh hưởng của ông Bài viết nhấn mạnh cả những tác động tích cực lẫn hạn chế, thậm chí là những yếu tố kìm hãm mà thơ văn của Huỳnh Thúc Kháng đã mang lại cho nền văn học thời kỳ này.
Huỳnh Thúc Kháng đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành của văn học hiện đại, thể hiện rõ nét qua cả nội dung và nghệ thuật Ông khẳng định vị trí của mình như một tác giả văn học và một nhà văn hóa tiêu biểu trong ba thập kỷ đầu của thế kỷ XX.
Luận văn này nhằm mục đích khảo sát và tìm tòi một cách nghiêm túc để khẳng định vị trí xứng đáng và khách quan của thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong lịch sử văn học, tách biệt với lịch sử chính trị Qua đó, tác giả hy vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những nghiên cứu sâu hơn về tác phẩm của Huỳnh Thúc Kháng trong tương lai.
Lịch sử nghiên cứu của đề tài 4
Đến nay, vai trò và vị trí của Huỳnh Thúc Kháng trong lịch sử – chính trị đã được khẳng định, nhưng nghiên cứu về tác phẩm văn chương của ông vẫn chưa được đánh giá đầy đủ và còn có phần phiến diện Chẳng hạn, trong công trình "Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng" của tác giả Vương Đình Quang, vẫn chưa phản ánh hết giá trị sáng tác của ông.
Kháng đã nhận xét rằng Huỳnh Thúc Kháng không được công nhận rộng rãi như một nhà văn có quan điểm văn học và mỹ học rõ ràng Mặc dù có một số công trình sưu tầm và tuyển chọn tác phẩm của ông, cuốn "Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng chọn lọc" của nhà nghiên cứu Chương Thâu và tác phẩm "Huỳnh Thúc Kháng – tác giả, tác phẩm" của Nguyễn Q là những ấn phẩm phổ biến nhất.
Mặc dù có những đóng góp quan trọng của Huỳnh Thúc Kháng đối với văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, nhưng hiện nay vẫn thiếu các nghiên cứu khoa học nghiêm túc về tác phẩm của ông Trong chương trình giảng dạy văn học phổ thông, không có tác phẩm nào của Huỳnh Thúc Kháng được đưa vào, và các luận văn, khóa luận tại các trường đại học cũng hầu như không đề cập đến thơ văn của ông Thực trạng này cần được xem xét lại, đặc biệt khi đặt tác phẩm của Huỳnh Thúc Kháng trong bối cảnh phát triển của văn học Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỉ XX.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài 5
Trong quá trình nghiên cứu và triển khai đề tài luận văn, chúng tôi đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu truyền thống như thống kê, phân loại, đối chiếu, so sánh, đồng đại, lịch đại, phân tích và tổng hợp, cũng như phương pháp lịch sử – cụ thể Tùy thuộc vào từng vấn đề cụ thể, chúng tôi lựa chọn hoặc kết hợp các phương pháp này để đạt được hiệu quả biểu đạt tối ưu.
Chúng tôi trình bày luận văn với 4 phần chính:
- Phần II : Phần Nội dung gồm 3 chương :
+ Chương 1 : Con người và sự nghiệp
+ Chương 2 : Văn nghiệp Huỳnh Thúc Kháng
+ Chương 3 : Huỳnh Thúc Kháng và tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam
+ Danh mục Tài liệu tham khảo
Chương 1 CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP
1 C ố t cách x ứ Qu ả ng trong con ng ườ i Hu ỳ nh Thúc Kháng
Quảng Nam, quê hương của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, được ví như điểm giữa của chiếc đòn gánh, nơi miền Trung gánh chịu nỗi khổ của thiên nhiên và khí hậu khắc nghiệt Theo Nguyễn Q Thắng, làng quê nơi Huỳnh Thúc Kháng sinh ra nằm hẻo lánh ở tây nam xứ Quảng, bao quanh là rừng núi khô cằn, cách trở mọi giao thông Cuộc sống của người dân nơi đây luôn phải đối mặt với cảnh sống khó khăn, điều này phần nào lý giải tính cách và tình cảm của người xứ Quảng, cũng như của Huỳnh Thúc Kháng Ông thể hiện sự chịu thương chịu khó, can đảm, nhưng cũng mang nét khô khan, tằn tiện và ương ngạnh Trong một lần tự họa, Huỳnh Thúc Kháng đã thẳng thắn mô tả mình là một học trò xuất thân từ gia đình nông dân nghèo, sống trong hoàn cảnh thô vụng nhưng luôn khát khao học hỏi.
Nghệ - Tĩnh và Nam - Ngãi đã trở thành những “địa chỉ đỏ” trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp từ cuối thế kỷ XIX, nơi xuất thân của nhiều lãnh tụ cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là hai chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh Hai vùng này diễn ra nhiều phong trào yêu nước và cách mạng nhất, với sự tham gia nhiệt tình của sĩ phu, thân hào và người dân, bất chấp sự chỉ đạo từ cấp trên và thậm chí là ý chỉ của vua Sự nổi bật của Nghệ - Tĩnh và Nam - Ngãi trong cuộc đấu tranh chống xâm lược đã khẳng định vai trò quan trọng của các chí sĩ nơi đây trong lịch sử dân tộc.
Cốt cách xứ Quảng đã ảnh hưởng sâu sắc đến Huỳnh Thúc Kháng, khiến nhiều người khi tìm hiểu về cá tính và cốt cách của ông thường quay về quê hương Quảng Nam Đây không chỉ là vùng đất “Lam sơn chướng khí” mà còn là nơi sản sinh ra những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử.
Biến động lịch sử và những thất bại đau thương của Nghĩa hội Quảng Nam đã tác động sâu sắc đến những nhà nho như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Ngô Đức Kế Họ buộc phải hành động trong bối cảnh hỗn loạn với hy vọng tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, thể hiện tinh thần trách nhiệm và tâm huyết của mình trước những thử thách khắc nghiệt của thời đại.
Huỳnh Thúc Kháng, người con ưu tú của quê hương Nam – Ngãi, từ nhỏ đã thể hiện niềm đam mê học hỏi và hiểu biết sâu sắc về học thuyết Nho gia Tinh thần “khắc kỉ phục lễ” mà ông thực hành đã hình thành nên một nhân cách vừa trang nghiêm, cẩn trọng, và kiên quyết, nhưng cũng có phần bảo thủ và ương ngạnh Những đặc điểm này vừa là nét tiêu biểu vừa là hạn chế trong tính cách của ông Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, mặc dù bị thực dân Pháp và tay sai cám dỗ, ông vẫn kiên trung và vững vàng trên trận tuyến chống quân thù, trở thành tấm gương trung nghĩa sáng ngời cho quốc dân, đặc biệt trong số những nho sĩ yêu nước đầu thế kỷ XX.
Huỳnh Thúc Kháng, một nhân vật trung tâm trong cả hoạt động cách mạng và sáng tác văn học, đã đóng góp quan trọng vào công cuộc giải phóng dân tộc Ông không chỉ là một cây bút tiêu biểu mà còn là một trong những nhà nho chí sĩ có quyền uy, chọn con đường lập ngôn để tham gia vào sự hiện đại hóa văn học Việt Nam Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông là minh chứng rõ ràng cho quan niệm về vai trò của văn học trong thời đại cách mạng.
Giàu sang lợi lộc đừng ham
Chông gai, cay đắng cũng cam một bề
Nét tính cách này không chỉ phản ánh con người thường nhật của Huỳnh Thúc Kháng mà còn là nền tảng cho những dấu ấn sáng tạo trong văn chương của ông Chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đề này trong chương tiếp theo của luận văn.
2 Con ng ườ i và s ự nghi ệ p
Huỳnh Thúc Kháng (1876 – 1947), còn được biết đến với tên gọi Huỳnh Hanh, là một nhân vật nổi bật trong lịch sử Việt Nam, sinh ra tại làng Thạnh Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam Xuất thân từ gia đình nông dân, ông mang trong mình giấc mộng khoa cử và đã nỗ lực không ngừng để đạt được thành công trong thi cử, nổi bật là việc đỗ tiến sĩ vào năm 1904 Tuy nhiên, thay vì theo đuổi con đường quan trường, ông đã chọn tham gia hoạt động cách mạng cùng với những người bạn đồng chí hướng như Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc.
Vào cuối thế kỷ XIX, Việt Nam rơi vào cảnh nô dịch dưới thực dân Pháp, khiến nhiều nhân sĩ yêu nước không thể đứng yên nhìn đất nước khổ cực Để cứu nước, họ đã dũng cảm tham gia vào cuộc đấu tranh với tinh thần tự giác và nghị lực phi thường Trong số đó, các chí sĩ như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp đã chọn con đường duy tân, tự cường Huỳnh Thúc Kháng, mặc dù đã đạt được ước nguyện học hành, đã quyết định từ bỏ con đường quan trường một cách độc lập và dũng cảm, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng không chỉ cho sự nghiệp của ông mà còn cho lịch sử dân tộc trong giai đoạn đầu thế kỷ XX Lịch sử ghi nhận rằng, việc đỗ đạt mà không ra làm quan không phải là điều hiếm, nhưng những trường hợp như Huỳnh Thúc Kháng và Ngô Đức Kế, cùng chung số phận và tâm trạng, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử khoa cử Việt Nam.
Sự tiếp xúc với các sách báo Tân thư và Tân văn từ phương Tây đã tác động mạnh mẽ đến các nhà chí sĩ, khiến họ quyết định dứt khoát thực hiện nam du Họ kêu gọi bài xích lối học khoa cử cũ, đả kích chế độ quân chủ và đề xướng tân học.
Phong trào Duy tân, với sự lãnh đạo của Huỳnh Thúc Kháng, đã nhanh chóng lan rộng khắp Trung Kỳ, thể hiện những kêu gọi hòa bình nhằm thức tỉnh nhân dân tham gia xây dựng lối sống mới Khi phong trào này đi vào từng thôn xóm, nó đã kích thích sự nổi dậy của các phong trào đấu tranh xã hội, dù chỉ mang tính tự phát, nhưng đã góp phần quan trọng làm thay đổi tính chất và mục tiêu của các cuộc đấu tranh đang diễn ra trong bối cảnh im ắng lúc bấy giờ, khiến chính quyền thực dân Pháp phải chú ý.
Doumer trong bức thư gửi về nước đã viết : “Từ năm 1897 đến nay không hề có một tên lính nào chết vì trận mạc ở Đông Dương 1 ”
Trong Huỳnh Thúc Kháng niên phổ, tác giả ghi lại rằng vào năm Thành Thái thứ 18 (Bính Ngọ – 1906), ông đã dạy học tại làng Mỹ An và cùng với các thân hào trong vùng khởi xướng việc lập thương cuộc tại Hội An Ông cũng tham gia thành lập trường học, hội nông và trồng quế Thời điểm này, phong khí xã hội có nhiều biến đổi, người dân bắt đầu ăn mặc theo kiểu Âu Tây và cắt tóc ngắn, điều này đã khiến những người bảo thủ phải chú ý.
Bộ ba hào kiệt xứ Quảng đã đạt được nhiều thành tựu trong thời gian ngắn, trở thành những lãnh tụ của một trong hai khuynh hướng cách mạng tiêu biểu nhất vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Các hoạt động cách mạng ôn hòa đã khơi dậy phong trào đấu tranh mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là phong trào chống sưu ở Quảng Nam Phong trào này nhanh chóng lan rộng từ Hà Tĩnh đến Bình Định, thậm chí xâm nhập vào những thôn làng hẻo lánh ở miền ngược.