1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN án TIẾN sĩ) sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học việt nam những năm đầu thế kỷ XX

234 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sự Hình Thành Hệ Thống Thể Loại Tự Sự Nghệ Thuật Trong Tiến Trình Hiện Đại Hóa Văn Học Việt Nam Những Năm Đầu Thế Kỷ XX
Tác giả Phạm Xuân Thạch
Người hướng dẫn GS. TS. Lê Văn Lân, PGS. TS. Trần Ngọc Vương
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2008
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 234
Dung lượng 1,34 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU 4 (6)
    • 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Lịch sử vấn đề 7 (6)
    • 3. Nhiệm vụ của đề tài 15 (17)
    • 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 16 (18)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu 17 (19)
    • 6. Đóng góp của luận án 20 (22)
    • 7. Cấu trúc của luận án 20 (22)
  • B. PHẦN NỘI DUNG 22 (24)
  • Chương 1: Những tiền đề hiện đại hóa tự sự 22 (24)
    • 1.1. Những tiền đề văn hóa xã hội 23 (23)
      • 1.1.1. Đô thị và đời sống đô thị 23 (25)
      • 1.1.2. Những thiết chế văn hóa và các hoạt động văn hóa 25 (27)
        • 1.1.2.1. Báo chí và xuất bản 25 (27)
        • 1.1.2.2. Nhà trường Pháp - Việt và mô hình giáo dục hiện đại kiểu phương Tây 27 (30)
        • 1.1.2.3. Dịch thuật 30 (32)
        • 1.1.2.4. Những lựa chọn ngôn ngữ 31 1.1.3. Những vận động văn hóa và tinh thần thời đại 33 1.2. Những vận động nội sinh của văn học 38 1.2.1. Truyền thống văn xuôi và tƣ duy tự sự; sự vận động của văn học trước thế kỷ XX 38 (34)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU 4

Lý do chọn đề tài 4 2 Lịch sử vấn đề 7

Lịch sử văn học Việt Nam được chia thành hai thời đại lớn: văn học Hán - Nôm thời trung đại, tương tự như mô hình văn học Trung Quốc, và văn học quốc ngữ hiện đại, theo mô hình văn học thế giới Sự phân chia này đã được công nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu văn học, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề cơ bản cho những người nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc.

Quá trình chuyển đổi hệ hình trong lịch sử văn học Việt Nam đặt ra câu hỏi về tính quy luật của nó Liệu sự hiện đại hóa văn học dân tộc có phải là sản phẩm của sự cƣỡng bức văn hóa từ bên ngoài hay là kết quả của sự phát triển nội tại? Mô hình văn học hiện đại, đã được hình thành từ những năm 30 của thế kỷ XX, có phải là bước phát triển tất yếu, hay nền văn học dân tộc sẽ tự vận động đến mà không cần tác động từ phương Tây? Thêm vào đó, vấn đề đứt gãy giữa hai thời đại lớn của văn học dân tộc cũng cần được xem xét, đặc biệt là quá trình thay thế chữ viết.

Sự chuyển đổi từ Hán và chữ Nôm sang chữ quốc ngữ có thể tạo ra một khoảng cách văn hóa giữa thế hệ hiện đại và di sản văn hóa truyền thống Câu hỏi đặt ra là liệu văn học hiện đại chỉ đơn thuần là sự du nhập và bản địa hóa từ văn học châu Âu, dẫn đến việc từ bỏ quá khứ văn học, hay thực sự là một sự phát triển tự nhiên dựa trên những biến chuyển của văn học dân tộc trong giai đoạn hậu kỳ trung đại Để làm rõ những vấn đề này, cần phải xem xét quá trình chuyển đổi hệ hình văn học diễn ra trong ba thập niên đầu thế kỷ XX.

Theo quan điểm của chúng tôi, giữa hai thời đại lớn của văn học dân tộc có một giai đoạn đặc biệt đáng chú ý Giai đoạn này được định hướng từ các nghiên cứu lịch sử văn học, cho thấy sự phát triển và biến đổi của văn hóa dân tộc.

Giai đoạn đầu thế kỷ XX, từ năm 1904-1905, đánh dấu sự khởi đầu của cuộc cách mạng văn hóa lớn tại Việt Nam, với các phong trào Duy tân Thời kỳ này kéo dài cho đến năm 1932, khi Phan Khôi công bố bài thơ Tình già, mở đầu cho phong trào văn hóa mới.

Thơ mới Đây chính là quãng thời gian diễn ra quá trình chuyển đổi hệ hình của văn học dân tộc

Văn học Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX được xem như một phòng thí nghiệm khổng lồ, nơi các nhà văn và người làm văn học cùng tham gia vào việc kiến tạo một thực tế mới mẻ chưa từng tồn tại Giai đoạn này đặc biệt phong phú với sự đa dạng của công chúng và tác giả, dẫn đến nhiều khuynh hướng hiện đại hóa văn học Sự đa dạng này không chỉ phản ánh sự phong phú về thành phần sáng tác mà còn mở ra những hướng đi mới cho văn học Việt Nam.

Văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930 chứng kiến sự song hành của hai khuynh hướng: đổi mới văn học truyền thống và tiếp nhận, bản địa hóa văn học thế giới Cả hai xu hướng này đều có những đại diện xuất sắc, tạo nên một bức tranh đa dạng với nhiều nhóm tác giả và công chúng khác nhau về nguồn gốc văn hóa Điều này khiến cho không có khuynh hướng nào phát triển một cách thuần nhất, mà thay vào đó, sự pha trộn và thỏa hiệp trở thành đặc trưng chung của đời sống văn học Khẩu hiệu văn hóa nổi bật trong giai đoạn này chính là “Điều hòa tân cựu - Thổ nạp Âu Á”.

Trong bối cảnh chuẩn bị cho những điều chưa định hình và những sáng tạo mới, nhiều công việc đã được khởi động nhằm chuẩn hóa và làm mới tiếng Việt Cảm hứng tạo ra cái mới kết hợp với tinh thần dân tộc đã hình thành một tâm lý chung trong giới trí thức về việc “tổng kiểm kê” di sản văn chương Đồng thời, dịch thuật được coi là một “quốc sách”, góp phần đưa nhiều truyền thống văn học đến gần nhau trong thời gian ngắn, từ văn học Việt Nam đến văn học thế giới, bao gồm cả phương Đông và phương Tây, từ những giá trị cổ điển đến những giá trị thị trường.

Giai đoạn này chứng kiến sự hình thành của trường văn học (le champ littéraire), đánh dấu sự tách biệt của văn học khỏi các hình thái ý thức xã hội khác, trở thành một lĩnh vực tương đối tự trị với quy luật nội tại Thị trường văn học không chỉ hỗ trợ sự tự trị của văn học thông qua báo chí và các nhà xuất bản, mà còn áp đặt những quy luật nghiêm ngặt lên đời sống văn chương Đồng thời, bên cạnh xu hướng thị trường hóa, còn tồn tại khuynh hướng bảo vệ những giá trị tinh hoa của văn học.

Diễn ngôn của các nhân vật như Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng và Ngô Đức Kế thể hiện rõ ràng khuynh hướng văn hóa và tư tưởng của thời kỳ đó Đồng thời, khuynh hướng này cũng được phản ánh qua nhiều công trình sưu tầm, dịch thuật và khảo cứu của các nhà nghiên cứu uy tín thời bấy giờ.

Ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn hấp dẫn trong lịch sử văn học, không chỉ bởi sự xuất hiện của những tác giả lớn mà còn bởi sự độc đáo và phong phú của các hiện tượng văn học Giai đoạn này đóng vai trò quan trọng trong việc khôi phục mắt xích còn thiếu của lịch sử dân tộc, giúp trả lời câu hỏi về sự phát triển liên tục của tiến trình văn học Chúng tôi đặc biệt chú ý đến các tác phẩm có sức sống đặc biệt, được người đương thời gọi tên theo những cách riêng biệt.

Trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam chứng kiến những biến đổi mạnh mẽ trên tất cả các thể loại, đặc biệt là các thể văn tự sự So với các giai đoạn trước, sự phát triển của thể loại này chưa từng có trong lịch sử văn học dân tộc Chỉ trong ba thập kỷ, thể văn tự sự đã tạo ra một kho tàng văn bản phong phú, thu hút một đội ngũ sáng tác đa dạng và phản ánh nhiều khuynh hướng tìm tòi, thể nghiệm Nó đã vươn từ vị trí bên lề vào trung tâm đời sống văn học, đánh dấu một bước tiến đột phá về chất lượng và nội dung.

Có thể thấy mối liên hệ giữa sự phát triển đột biến trong văn học và những vận động hiện đại hóa trong đời sống văn hóa Sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến nội dung mà còn định hình phong cách sáng tác, phản ánh những xu hướng mới trong xã hội.

Luận án này khảo sát sự vận động của thể văn tự sự bằng chữ quốc ngữ trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, nhằm làm rõ sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam Chúng tôi hy vọng sẽ giải đáp những câu hỏi liên quan đến chủ đề này.

Chúng tôi khảo sát vấn đề tự sự bằng chữ quốc ngữ xuất bản công khai ở Việt Nam trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, một chủ đề đã được đề cập từ sớm, ngay từ giai đoạn đầu của nghiên cứu lịch sử văn học tại Việt Nam.

Nhiệm vụ của đề tài 15

Bài viết này trình bày lịch sử của các thể văn tự sự bằng chữ quốc ngữ trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, khẳng định rằng các tài liệu quan trọng đã được khôi phục đầy đủ Trong nghiên cứu lịch sử, mặc dù không thể khẳng định điều gì một cách tuyệt đối, nhưng có thể dự đoán rằng trong nhiều năm tới, khó có thể có phát hiện nào làm thay đổi các lý thuyết hiện có Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng mô hình mô tả quá trình hình thành và phát triển các thể văn tự sự trong giai đoạn sơ khởi của văn học hiện đại Việt Nam Luận án sẽ trả lời hai câu hỏi chính: Thứ nhất, quá trình hiện đại hóa tự sự nghệ thuật ở Việt Nam diễn ra như thế nào trong giai đoạn giao thời; Thứ hai, xác định các tiểu loại tự sự sẽ trở thành "truyện ngắn" và "tiểu thuyết" trong những giai đoạn tiếp theo.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài 16

Để xác định phạm vi nghiên cứu của luận án, trước tiên cần làm rõ một số khái niệm trong tiêu đề Chúng tôi hiểu rằng "sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật" bao gồm hai nội dung chính: (1).

Sự hình thành của thể tự sự nghệ thuật bao gồm quá trình phân chia các thể tài nhỏ trong tổng thể thể loại này Quan niệm này sẽ được áp dụng khi chúng tôi trình bày nội dung đề tài, từ khía cạnh nghệ thuật đến thực tiễn sáng tác của nhà văn.

Sự hình thành các thể văn tự sự nghệ thuật trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam phản ánh quá trình chuyển mình của nền văn học Điều này đồng nghĩa với việc hiện đại hóa các thể văn tự sự nghệ thuật trong giai đoạn giao thời Khái niệm "tự sự nghệ thuật" ở đây được hiểu là tự sự hư cấu, liên quan chặt chẽ đến các thể loại như tiểu thuyết Một số ví dụ tiêu biểu như Tản Đà gọi tác phẩm Giấc mộng con I, II của mình là "mộng ký" và các "ba đào ký" của Nguyễn Công Hoan trên An Nam tạp chí sẽ được làm rõ trong quá trình khảo sát.

Khái niệm "những năm đầu thế kỷ XX" trong tiêu đề và luận án được hiểu tương đương với "giai đoạn giao thời" mà Trần Đình Hữu đã đề cập Giai đoạn lịch sử này bắt đầu từ năm 1904 - 1905, đánh dấu sự khởi đầu của cuộc cách mạng văn hóa lớn tại Việt Nam với các phong trào Duy Tân và Đông Du do các nhà Nho chí sĩ lãnh đạo, và kết thúc vào năm 1932.

Khôi công bố bài Tình già trên Phụ nữ tân văn khởi đầu cho phong trào Thơ mới

Về cơ bản, đối tƣợng khảo sát của luận án này nằm trong quãng thời gian nói trên

Để hiểu rõ về quá trình hiện đại hóa văn chương ở Việt Nam, cần xem xét sự phát triển không đồng thời của nó Một trong những hiện tượng văn chương tiêu biểu cuối thế kỷ XIX là tác phẩm "Truyện thầy Lazarô Phiền" của Nguyễn.

Trọng Quản hoặc một số sáng tác của Trương Vĩnh Ký

Trong luận án này, chúng tôi tập trung vào các văn bản được viết bằng chữ quốc ngữ và được công khai xuất bản tại Việt Nam trong khoảng thời gian đã nêu Các tác phẩm bằng chữ Hán hoặc lưu hành ở nước ngoài không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án.

Phương pháp nghiên cứu 17

Mục tiêu của luận án này không chỉ đơn thuần là khai thác và làm sáng tỏ những tài liệu chưa được biết đến trong giới nghiên cứu, mà còn nhằm xây dựng một khung lý thuyết khả thi để mô tả bản chất sự vận động của đối tượng Đối tượng khảo sát của luận án là sự tồn tại lịch sử của một thể loại văn học, đây là một vấn đề mang tính bản chất trong văn học và thể hiện sự đa chiều của nó.

Bản chất của thể loại văn học là những nguyên tắc mang tính siêu cá nhân, được hình thành từ sự đồng thuận cộng đồng, do đó nó có tính xã hội Thể loại không chỉ là tập hợp quy ước trong một thời điểm lịch sử mà còn quyết định cách thức sáng tác của nhà văn và cách tiếp nhận của độc giả, liên quan đến khái niệm "ngưỡng đợi" (horizon d'attent) trong mỹ học tiếp nhận Ngoài ra, thể loại còn là sản phẩm chịu ảnh hưởng từ đời sống xã hội, gắn liền với nhu cầu thẩm mỹ đặc thù của từng giai đoạn lịch sử và liên quan đến các thiết chế xã hội như nhà trường, báo chí, xuất bản, cũng như sự vận động của nó bị chi phối bởi các hoạt động văn hóa - xã hội, chẳng hạn như giao lưu văn hóa.

Chiều kích thứ hai của thể loại liên quan đến các nguyên tắc hình thành khái niệm về thể loại trong bối cảnh một thời đại cụ thể Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, F.de

Saussure đã xác định hai mặt cấu thành nên hiện tƣợng ngôn ngữ: Cái biểu đạt và

Cái đƣợc biểu đạt Có thể lấy hình dung này quy chiếu cho hiện tƣợng thể loại

Nguyên tắc thể loại hướng đến việc viết một tác phẩm cụ thể, trong đó tác phẩm chứa đựng hai mặt: nội dung và hình thức Nghiên cứu Tự sự học hiện đại phát triển theo hai con đường: tìm hiểu nội dung được kể và cách thức kể lại câu chuyện Bên cạnh đó, ngôn ngữ cũng là một bình diện quan trọng trong tự sự Nhà văn không chỉ xây dựng cốt truyện, nhân vật và biểu tượng, mà còn phải sáng tạo chiến lược kể chuyện, từ góc nhìn và trật tự trình bày Cuối cùng, tất cả những yếu tố này cần được thể hiện qua ngôn ngữ để tạo nên tác phẩm hoàn chỉnh.

Tính đa chiều kích của vấn đề thể loại không chỉ tồn tại độc lập mà còn có sự tương tác chặt chẽ giữa các chiều kích Để nghiên cứu lịch sử thể loại một cách hiệu quả, cần xem xét tất cả các khía cạnh này Điều này có nghĩa là việc tìm kiếm mô hình hiện đại hóa của tự sự phải bao gồm những thông số liên quan đến các chiều kích đã nêu.

Đặc thù của đối tượng nghiên cứu yêu cầu chúng tôi áp dụng phương pháp luận liên ngành, hiểu là sự kết hợp các lý thuyết nghiên cứu văn chương khác nhau Trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi không đặt mục tiêu giải quyết các vấn đề văn chương trong mối quan hệ với khoa học xã hội Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp phù hợp trong luận án này.

Bài viết này khám phá xã hội học văn chương, đặc biệt là việc áp dụng mô hình trường văn học của Pierre Bourdieu để phân tích sự hình thành đời sống văn học tại Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XX Chúng tôi nhấn mạnh mối quan hệ giữa thể loại, ngôn ngữ và ý thức hệ xã hội, từ đó khẳng định rằng xã hội học văn bản là phương pháp khảo sát quan trọng trong luận án này.

Những lý thuyết hình thức về trần thuật, từ thi pháp học đến trần thuật học, đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu tự sự Một trong ba chiều kích cơ bản của tự sự là chiều kích thẩm mỹ, cho thấy mỗi tự sự đều là một cấu trúc thẩm mỹ độc đáo Việc nghiên cứu sự vận động của tự sự trong lịch sử đòi hỏi áp dụng các công cụ nghiên cứu hình thức để tái hiện diện mạo lịch sử của các thể loại này.

Trong bài viết này, chúng tôi đã tóm tắt những định hướng lý thuyết chính mà sẽ được áp dụng trong luận án Mỗi chương của luận án sẽ trình bày cụ thể các định hướng lý thuyết và giải thích rõ ràng các khái niệm được sử dụng trong từng chương.

Đóng góp của luận án 20

Luận án tiến sĩ với đề tài "Sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX" đã chỉ ra những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và phân tích sự phát triển của thể loại tự sự nghệ thuật trong bối cảnh văn học Việt Nam hiện đại Những đóng góp này không chỉ làm rõ quá trình hiện đại hóa văn học mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự chuyển biến của các thể loại văn học trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này.

Luận án này không chỉ đóng góp bằng cách giới thiệu một số tư liệu mới, như những tài liệu lần đầu tiên được công bố về giảng dạy văn chương trong nhà trường Pháp - Việt, mà còn quan trọng hơn là mô hình hóa lại toàn bộ quá trình hiện đại hóa các thể văn tự sự ở Việt Nam.

Một trong những tham vọng của chúng tôi là áp dụng lý thuyết văn chương hiện đại từ phương Tây vào nghiên cứu văn học Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XX Chúng tôi muốn làm mới nghiên cứu văn học sử thông qua việc ứng dụng các lý thuyết này Việc Việt hóa những lý thuyết phương Tây không chỉ giúp hiểu rõ hơn về văn học Việt Nam mà còn mở rộng khả năng nghiên cứu cho các giai đoạn tiếp theo, bao gồm cả văn chương đương đại.

Luận án này, với tư cách là một đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản, mang lại những kết quả có thể ứng dụng trong việc giảng dạy văn chương Việt Nam ở bậc đại học Hiện tại, công việc chính của tác giả là áp dụng những kết quả này vào quá trình giảng dạy.

Cấu trúc của luận án 20

Luận án của chúng tôi được trình bày trong bốn chương với cấu trúc như sau:

CHƯƠNG I: NHỮNG TIỀN ĐỀ HIỆN ĐẠI HÓA TỰ SỰ

1.1 Những tiền đề văn hóa xã hội

1.2 Những vận động nội sinh của văn học

CHƯƠNG II: DIỄN TIẾN QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA TỰ SỰ

TRONG GIAI ĐOẠN GIAO THỜI

2.1 Quá trình hình thành một quan niệm thể loại đặc trƣng của giai đoạn

2.2 Một phát triển đầy đứt đoạn

CHƯƠNG III: NHỮNG KHUYNH HƯỚNG HIỆN ĐẠI HÓA

CẤU TRÚC HÌNH THỨC THỂ LOẠI

3.1 Tự sự ngắn - Một không gian mơ hồ

3 2 Những cấu trúc hình thức của truyện kể

3.3 Đằng sau những kĩ thuật

CHƯƠNG IV: NGÔN NGỮ, TỰ SỰ VÀ Ý THỨC HỆ

4.1 Từ vựng, ý thức hệ và cái nhìn thế giới

4.2 Cú pháp - Cuộc xung đột giữa các giá trị

4.3 Diễn ngôn Diễn ngôn ý thức hệ và diễn ngôn phê phán Ngữ nghĩa

Cấu trúc hệ thống nhân vật

4.4 Trần thuật và xã hội

Những tiền đề hiện đại hóa tự sự 22

Những tiền đề văn hóa xã hội 23

1.2 Những vận động nội sinh của văn học

CHƯƠNG II: DIỄN TIẾN QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA TỰ SỰ

TRONG GIAI ĐOẠN GIAO THỜI

2.1 Quá trình hình thành một quan niệm thể loại đặc trƣng của giai đoạn

2.2 Một phát triển đầy đứt đoạn

CHƯƠNG III: NHỮNG KHUYNH HƯỚNG HIỆN ĐẠI HÓA

CẤU TRÚC HÌNH THỨC THỂ LOẠI

3.1 Tự sự ngắn - Một không gian mơ hồ

3 2 Những cấu trúc hình thức của truyện kể

3.3 Đằng sau những kĩ thuật

CHƯƠNG IV: NGÔN NGỮ, TỰ SỰ VÀ Ý THỨC HỆ

4.1 Từ vựng, ý thức hệ và cái nhìn thế giới

4.2 Cú pháp - Cuộc xung đột giữa các giá trị

4.3 Diễn ngôn Diễn ngôn ý thức hệ và diễn ngôn phê phán Ngữ nghĩa

Cấu trúc hệ thống nhân vật

4.4 Trần thuật và xã hội

CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HIỆN ĐẠI HÓA TỰ SỰ

Từ trước đến nay, trong các nghiên cứu văn học sử trên thế giới và ở Việt

Việc đặt các hiện tượng và tiến trình văn học trong mối quan hệ với bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa là yêu cầu bắt buộc trong nghiên cứu Người nghiên cứu cần xác định đúng bản chất của mối quan hệ này, tránh lối giải thích đơn giản và một chiều Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi sẽ tập trung vào một số yếu tố cụ thể như quá trình đô thị hóa, sự hình thành các thiết chế văn hóa hiện đại như báo chí và nhà xuất bản, cũng như các vận động văn hóa đặc thù trong giai đoạn giao thời Ý thức về ảnh hưởng của những yếu tố này đối với quá trình hiện đại hóa văn chương Việt Nam đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây Công việc của chúng tôi không chỉ kế thừa mà còn hệ thống hóa và đi sâu vào những thành tố chưa được chú ý đúng mức, như sự xuất hiện của nền giáo dục kiểu mới và quá trình nhận thức lại truyền thống, từ đó tạo tiền đề cho sự hiện đại hóa các thể văn tự sự nghệ thuật ở Việt Nam trong giai đoạn này.

Chúng tôi không chỉ xem xét những yếu tố ngoại sinh mà còn chú trọng đến các vận động nội sinh trong nền văn học, đặc biệt là thể loại tự sự Quá trình hiện đại hóa của thể loại này gắn liền với sự phát triển chung của văn học Việt Nam Do đó, bên cạnh các tác động bên ngoài, chúng tôi nhận diện những nguyên nhân nội sinh quan trọng, như quá trình tiềm tàng của hiện đại hóa văn học trước thế kỷ XX và sự hình thành của các trường văn học trong ba thập kỷ đầu thế kỷ Đối tượng nghiên cứu của luận án này là hiện tượng hiện đại hóa các thể văn tự sự trong bối cảnh văn học những năm đầu thế kỷ XX Trong các chương tiếp theo, chúng tôi sẽ lần lượt giải đáp những câu hỏi liên quan đến quá trình này.

Trong chương này, chúng tôi sẽ khám phá "như thế nào" và "ý nghĩa" của sự vận động, với những chủ đề đã được nêu ra trước đó Câu hỏi chính cần được đặt ra và giải quyết là bản chất và tác động của sự vận động trong cuộc sống.

1.1 Những tiền đề văn hóa xã hội

1.1.1 Đô thị và đời sống đô thị

Đô thị và đời sống đô thị đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển văn chương, đặc biệt từ thời Trung đại sang thời Hiện đại Ở Việt Nam, đô thị hình thành từ thời Trung đại dựa trên các trung tâm văn hóa - hành chính của nhà nước phong kiến như kinh đô và phủ lỵ Vào thế kỷ XVII - XVIII, sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã thúc đẩy đô thị phát triển mạnh mẽ hơn, trở thành nơi tập trung các cơ quan hành chính, văn hóa, cũng như các phường thợ và cơ sở thương mại Thành phần cư dân đô thị đa dạng, bao gồm quý tộc, quan lại, nho sĩ, thương nhân và thợ thủ công, với lối sống vượt ra ngoài chuẩn mực xã hội Khổng giáo Tuy nhiên, đặc điểm trọng nông của nền kinh tế và văn hóa Nho giáo Việt Nam đã hạn chế sự phát triển của các đô thị như Thăng Long và Phố Hiến.

Phú Xuân, Gia Định có thể phát triển đến mức trở thành những đô thị lớn nhƣ ở

Nhật Bản, Trung Quốc và các nước phương Tây đều có sự phát triển đô thị đáng chú ý Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, sự phát triển này diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn hậu kỳ, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình đô thị hóa của các quốc gia này.

Thời kỳ Trung đại ở Việt Nam đã thúc đẩy sự phát triển của nền văn học phi truyền thống, đặc biệt là văn học của nhà nho tài tử, với nhiều yếu tố vượt ra ngoài khuôn khổ của văn học quan phương và văn học dân gian Những tác phẩm này không chỉ là nguồn sinh khí mới cho văn học dân tộc mà còn là mầm mống quan trọng cho quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam.

Sau khi bước vào thời kỳ Pháp thuộc, đặc biệt là sau Đại chiến Thế giới thứ I, quá trình thực dân hóa đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của đô thị tại Việt Nam Những đô thị này không chỉ là trung tâm kinh tế mà còn phản ánh rõ nét những chuyển biến của xã hội Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa, đồng thời xuất hiện những tầng lớp xã hội mới chưa từng có trong truyền thống.

Quá trình xây dựng xã hội thuộc địa của người Pháp đã tạo ra một cấu trúc xã hội đa dạng tại các đô thị, bao gồm viên chức, quan chức, công chức, nhà thầu tư sản và tầng lớp dân nghèo từ nông thôn Sự hình thành nền kinh tế tư bản và lối sống mới đã làm nổi bật vai trò của đô thị như một cửa ngõ giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và thế giới, đồng thời phản ánh những mâu thuẫn trong việc chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghệ và thương mại Đời sống đô thị đã trở thành yếu tố quan trọng trong sự phát triển của văn học hiện đại Việt Nam, khi thu hút một công chúng văn học đa dạng và gắn liền với các thiết chế kinh tế xã hội mới Mặc dù mối liên hệ với văn hóa truyền thống vẫn tồn tại, nhưng đời sống mới đã làm phai nhạt và đặt ra những nhu cầu tâm lý và văn hóa mới cho người dân đô thị.

Nhiều người trong số họ đã tiếp nhận văn hóa phương Tây với những mức độ khác nhau, dẫn đến nhu cầu về một loại văn học mang đậm sắc thái phương Tây.

Văn nghệ phương Tây đã thu hút một bộ phận công chúng dễ chấp nhận và đòi hỏi cái mới, đặc biệt trong môi trường đô thị với sự phát triển của các cơ quan báo chí và nhu cầu thưởng thức văn học ngày càng cao Điều này tạo điều kiện cho sự hình thành đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp, nơi văn chương có thể trở thành một nghề Cuộc sống đô thị phức tạp tác động mạnh mẽ đến các nhà văn, buộc họ phải dấn thân vào những thể nghiệm văn học mới mẻ, vượt ra ngoài khuôn khổ truyền thống Tuy nhiên, để xây dựng một nền văn chương đích thực, cần có sự chuyển biến trong tư tưởng triết - mỹ của nhà văn, đòi hỏi họ phải có trình độ học vấn và bản lĩnh văn hóa, từ đó tạo ra những tác phẩm có sức sống và tầm cỡ Trong bối cảnh đó, môi trường đô thị và đời sống tư sản hóa có thể trở thành thách thức đối với sự phát triển nghệ thuật.

1.1.2 Những thiết chế văn hóa và các hoạt động văn hóa

1.1.2.1 Báo chí và xuất bản

Báo chí là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần đƣợc du nhập vào Việt

Vào năm 1861, sau khi hoàn tất việc chinh phục Nam Kỳ, người Pháp đã cho ra mắt những tờ công báo đầu tiên bằng tiếng Việt, nhằm tạo cầu nối ngôn ngữ giữa thực dân và người dân bản địa trong bối cảnh thực dân hóa Đông Dương.

Trong thời kỳ cai trị Đông Dương, người Pháp nhận thấy rằng báo chí là công cụ quan trọng để "chinh phục tinh thần người bản xứ" Họ đã duy trì và phát triển một hệ thống báo chí bằng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ, do chính họ hoặc các tổ chức, cá nhân người Việt thân Pháp thực hiện Đồng thời, chính quyền thực dân cũng ban hành nhiều bộ luật và văn bản nhằm kiểm soát hoạt động báo chí và xuất bản Trong khi đó, người Việt Nam ban đầu có phản ứng tiêu cực đối với ảnh hưởng phương Tây, nhưng đến đầu thế kỷ, tình hình có sự thay đổi.

Báo chí đã thâm nhập sâu sắc vào đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, phát triển độc lập với chính quyền thực dân dù vẫn chịu ảnh hưởng của khung pháp lý do người Pháp ban hành Sự xuất hiện và phát triển của báo chí, cùng với các nhà in, nhà xuất bản và hiệu sách, đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nền văn học mới ở Việt Nam Có thể coi báo chí như một bà đỡ của nền văn học mới, là kênh giao lưu văn học Pháp - Việt, giúp giới thiệu mô hình văn học phương Tây và định hình nền văn học mới tại Việt Nam.

Việc du nhập văn học Nam vào xứ sở này đánh dấu sự khởi đầu quan trọng cho quá trình dịch thuật trên báo chí, đóng vai trò là bước đầu tiên trong "chu trình ba bước" gồm dịch thuật, phóng tác và sáng tạo mới của nền văn học Quốc ngữ.

Báo chí chính là môi trường sống của văn học hiện đại, nơi mà các tác phẩm mới được ra đời và phổ biến rộng rãi Trái ngược với văn học truyền thống, vốn được nuôi dưỡng trong giáo dục Nho giáo và đời sống văn hóa của trí thức, văn học hiện đại cần một nền tảng phi truyền thống Với khả năng lan tỏa mạnh mẽ, báo chí không chỉ giúp các sáng tác văn học mới tiếp cận công chúng mà còn định hướng cho sự phát triển của văn học hiện đại thông qua việc lựa chọn đăng tải và hoạt động phê bình.

“đỡ đầu” cho nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ nhƣ: Đông Dương tạp chí 2 ,

Ngày đăng: 29/06/2022, 06:01

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình  thức  nói  trên  giống  như  người  ta  có  thể  lấp  đầy  dần  bảng  tuần  hoàn  các - (LUẬN án TIẾN sĩ) sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học việt nam những năm đầu thế kỷ XX
nh thức nói trên giống như người ta có thể lấp đầy dần bảng tuần hoàn các (Trang 154)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w