1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn

125 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đời của Mạc Ngôn
Tác giả Cao Nhã
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Chính
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Ngôn ngữ học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 125
Dung lượng 2,37 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (0)
  • 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu (9)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (9)
  • 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài (10)
  • 6. Bố cục của luận văn (10)
  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN (12)
    • 1.1. Câu nhƣợng bộ tiếng Việt và những vấn đề liên quan (12)
      • 1.1.1. Khái niệm câu nhượng bộ (12)
      • 1.1.2. Tình hình nghiên cứu câu nhượng bộ trong tiếng Việt (14)
      • 1.1.3. Phân loại câu nhượng bộ tiếng Việt (0)
    • 1.2. Cơ sở lý luận của câu nhƣợng bộ tiếng Hán (21)
      • 1.2.1 Khái niệm câu ghép nhượng bộ tiếng Hán (21)
      • 1.2.2. Tình hình nghiên cứu của câu nhượng bộ tiếng Hán (22)
      • 1.2.3. Phân loại câu nhượng bộ và câu ghép (24)
    • 1.3. Các vấn đề lý luận liên quan (25)
      • 1.3.1. Dịch thuật (25)
      • 1.3.2. Lý luận ngôn ngữ học so sánh đối chiếu (26)
      • 1.3.3. Một số nguyên tắc và phương pháp (27)
    • 1.4. Tiểu kết (28)
  • CHƯƠNG 2. CÂU NHƯỢNG BỘ TRONG TÁC PHẨM “BÁU VẬT CỦA ĐỜI” BẢN TIẾNG VIỆT (30)
    • 2.1. Giới thiệu tác phẩm “Báu vật của đời” (30)
    • 2.2. Khảo sát đặc điểm câu nhƣợng bộ trong tác phẩm “Báu vật của đời” (34)
      • 2.2.1. Cú pháp câu nhượng bộ trong tác phẩm “Báu vật của đời” (35)
        • 2.2.1.1. Chủ ngữ (35)
        • 2.2.1.2. Liên từ (38)
        • 2.2.1.3. Trật tự cú pháp của câu nhượng bộ (41)
        • 2.2.1.4. Quan hệ ngữ nghĩa giữa hai mệnh đề của câu nhượng bộ (43)
        • 2.2.1.5. Chức năng ngữ dụng của câu nhượng bộ trong "Báu vật của đời" (45)
    • 2.3. Tiểu Kết (0)
  • CHƯƠNG 3. CÁCH CHUYỂN DỊCH CÂU NHƯỢNG BỘ TỪ TIẾNG HÁN SANG TIẾNG VIỆT (49)
    • 3.1. Câu nhƣợng bộ tiếng Hán trong nguyên bản《丰乳肥臀》 (49)
      • 3.1.1. Đặc điểm cú pháp của câu nhượng bộ tiếng Hán (50)
        • 3.1.1.1. Chủ ngữ (50)
        • 3.1.1.2. Liên từ (50)
        • 3.1.1.3. Trật tự cú pháp (52)
    • 3.2. Các thủ pháp chuyển dịch (0)
      • 3.2.1. Chuyển dịch tương đương (54)
      • 3.2.2. Chuyển dịch không tương đương (56)
    • 3.3. Cách chuyển dịch câu nhƣợng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt (0)
      • 3.3.1. Chuyển dịch tương đương (58)
        • 3.3.1.1. Tương đương ngữ pháp (58)
        • 3.3.1.2. Tương đương ngữ nghĩa (62)
        • 3.3.1.3. Tương đương ngữ dụng (62)
      • 3.3.2. Chuyển dịch không tương đương (0)
        • 3.3.2.1. Chủ ngữ (0)
        • 3.3.2.2. Kết từ (0)
    • 3.3. Tiểu kết (0)
  • KẾT LUẬN (74)

Nội dung

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Bài viết phân tích những đặc điểm của câu nhượng bộ trong tiếng Việt qua tác phẩm "Báu vật của đời", tập trung vào các khía cạnh cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng Những câu nhượng bộ này không chỉ thể hiện sự linh hoạt trong cấu trúc ngữ pháp mà còn mang ý nghĩa sâu sắc, phản ánh tâm tư và tình cảm của nhân vật Đồng thời, ngữ dụng của chúng cho thấy cách mà tác giả khéo léo sử dụng ngôn ngữ để tạo ra hiệu ứng cảm xúc mạnh mẽ cho người đọc.

- Nêu ra những nét tương đồng và khác biệt của câu nhượng bộ tiếng Việt và tiếng Hán về phạm trù cú pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng;

- Cũng như đề xuất các thủ pháp dịch câu nhượng bộ tiếng từ Hán sang tiếng Việt

Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn chúng tôi sử dụng các phương pháp sau đây:

Phương pháp miêu tả được áp dụng để khảo sát và phân loại các đặc điểm của câu nhượng bộ trong tiếng Việt và tiếng Hán Nghiên cứu này tập trung vào ba bình diện chính: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng, nhằm làm rõ sự khác biệt và tương đồng giữa hai ngôn ngữ.

Phương pháp so sánh và đối chiếu giữa câu nhượng bộ trong tiếng Việt và tiếng Hán giúp phân tích ngữ liệu và dữ liệu một cách hiệu quả Qua đó, chúng ta có thể nhận diện và tìm ra những sự khác biệt nổi bật giữa hai ngôn ngữ này, từ đó làm rõ đặc trưng của từng loại câu nhượng bộ.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Nghiên cứu này sẽ đóng góp vào kho tàng lý luận ngôn ngữ học đối chiếu Việt - Hán, đặc biệt trong lĩnh vực đối chiếu cú pháp giữa hai ngôn ngữ.

Nghiên cứu đặc trưng câu nhượng bộ trong tiếng Việt và tiếng Hán không chỉ hỗ trợ hiệu quả cho việc dịch thuật giữa hai ngôn ngữ mà còn góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt cho người Trung Quốc và ngữ pháp tiếng Hán cho người Việt Những kết quả từ nghiên cứu này sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho cả người dịch và người học.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận

Chương 2: Câu nhượng bộ trong tác phẩm "Báu vật của đời" của bản tiếng Việt

Chương 3: Cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Việt sang tiếng Hán.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Câu nhƣợng bộ tiếng Việt và những vấn đề liên quan

1.1.1 Khái niệm câu nhượng bộ

Câu nhượng bộ là một cấu trúc ngữ pháp phổ biến, xuất hiện trong hầu hết các ngôn ngữ như tiếng Hy Lạp cổ đại, tiếng Latin, tiếng Hán và tiếng Việt Định nghĩa về câu nhượng bộ thường liên quan đến việc bao gồm hai mệnh đề: một mệnh đề chính và một mệnh đề phụ chỉ điều kiện Đây là một kiểu câu cơ bản và quan trọng trong ngôn ngữ tự nhiên Để làm rõ khái niệm và các vấn đề liên quan đến câu nhượng bộ, chúng tôi đã tham khảo nhiều ý kiến khác nhau và thống nhất theo quan điểm của Diệp Quang Ban.

Theo tác giả Diệp Quang Ban, câu nhượng bộ là loại câu ghép Để làm rõ khái niệm câu nhượng bộ, chúng tôi xin bắt đầu từ câu ghép

Câu ghép là loại câu được hình thành từ hai hoặc nhiều câu đơn kết hợp lại mà không có câu nào bao chứa câu nào Mỗi câu đơn trong câu ghép đều tự nó đáp ứng đủ định nghĩa về câu Các câu đơn trong câu ghép còn được gọi là "dạng câu" hoặc "vế câu".

Câu ghép chính phụ là loại câu ghép có quan hệ ngữ pháp không bình đẳng, trong đó vế phụ phụ thuộc vào vế chính Vế phụ thường chứa quan hệ từ phụ thuộc, giúp kết nối hai vế câu Câu ghép chính phụ được phân loại thành nhiều loại nhỏ khác nhau.

2 Câu ghép điều kiện/giả thiết

4 Câu ghép mục đích b Câu ghép đẳng lập: Là câu ghép trong đó quan hệ ngữ pháp giữa các vế câu là ngang hàng nhau, không vế nào phụ thuộc vào vế nào Câu ghép đẳng lập được phân thành các tiểu loại như sau:

1 Câu ghép liên hợp (dùng quan hệ từ liên hợp)

2 Câu ghép tương liên (dùng cặp phó từ, đại từ hô ứng)

3 Câu ghép tiếp liên (không dùng quan hệ từ và cặp từ hô ứng)

Như vậy, câu nhượng bộ thuộc câu ghép chính phụ, chính vì nó mang đầy đủ tính chất của câu ghép và câu ghép chính phụ

Khái niệm câu nhượng bộ được tác giả Diệp Quang Ban đưa ra trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt như sau:

Câu ghép nhượng bộ là loại câu ghép chính phụ, trong đó vế phụ thường bắt đầu bằng các quan hệ từ thể hiện sự nhượng bộ như: tuy, mặc dù, dù, thà Những từ này giúp tạo ra mối quan hệ rõ ràng giữa các ý tưởng trong câu, thể hiện sự đối lập hoặc sự chấp nhận một tình huống nào đó.

Ví dụ: Tuy tôi đã nói nhiều lần, nhưng nó vẫn không nghe lời

我虽然说了几遍,但他还是听不下去。

Một số điểm cần chú ý:

+ Trong kiểu câu này, vế phụ đứng trước vế chính thì sẽ tạo ra quan hệ nhân nhượng như ví dụ trên

Nếu trật tự câu bị đảo ngược, với vế chính đứng trước, sẽ hình thành mối quan hệ giữa sự việc và nhượng bộ Trong tình huống này, việc sử dụng từ "nếu" là không phù hợp.

―nhưng‖ đứng đầu vế chính nữa Ví dụ nếu vế chính được đưa lên trước vế phụ thì câu sẽ có dạng:

Nó không nói gì, tuy rằng nó biết rất rõ

1.1.2 Tình hình nghiên cứu câu nhượng bộ trong tiếng Việt

Trong lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ, nhiều tác giả đã thảo luận về câu nhượng bộ với các mức độ nghiên cứu khác nhau Bài viết này sẽ tóm tắt một số công trình nổi bật liên quan đến câu nhượng bộ.

Hoàng Tuệ đã chỉ ra rằng cấu trúc "dầu P thì Q" là hình thức của những câu phức hợp thể hiện mối quan hệ phụ thuộc nhượng bộ, trong đó P và Q là hai mệnh đề với cấu trúc Đề - Thuyết.

Hoàng Trọng Phiến (1980) đã phân tích cách sử dụng các liên từ "tuy" và "mặc dù" trong câu nhượng bộ, cho rằng "mặc dù " thể hiện giả thiết hoặc điều kiện, trong khi "tuy " lại phản ánh một sự thật.

Nguyễn Kim Thản (1997) phân loại câu có liên từ "tuy", "dù", "mặc dù" vào nhóm câu nhượng bộ Ông cũng nhấn mạnh sự xuất hiện của các vị từ tình thái như "vẫn", "cũng" đi kèm với các liên từ này để thể hiện rõ hơn ý nghĩa của sự nhượng bộ trong câu.

Nguyễn Tài Cẩn (1999) chỉ ra rằng trong câu nhượng bộ, vị trí của vế phụ và vế chính ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa chúng Khi vế phụ đứng trước vế chính, sẽ tạo ra quan hệ "nhượng bộ - tương phản", trong khi nếu vế phụ đứng sau, sẽ hình thành quan hệ "sự việc - nhượng bộ" Trong trường hợp này, vế chính không sử dụng liên từ "nhưng" hay "mà" Thông thường, vế chính đứng sau vế phụ, nhưng trong một số tình huống đặc biệt, do hạn chế của ngữ cảnh và để thể hiện chức năng, vế chính cũng có thể đứng trước vế phụ.

Diệp Quang Ban(2000) xếp câu nhượng bộ vào câu ghép chính phụ.[2]

Ví dụ: a Dù anh có xấu xa cỡ nào, tôi vẫn yêu anh

不管你有多坏,我依然爱你。(nhượng bộ-tương phản) b Tôi vẫn quyết định ra đi, dù mọi người đã can ngăn

我还是决定离开,虽然大家极力劝阻。(sự việc-nhượng bộ)

1.1.3 Phân loại câu nhượng bộ tiếng Việt

Nguyễn Chí Hòa dựa vào vị từ đã chia câu nhƣợng bộ thành 3 loại: a Vế phụ đứng đầu:

Mặc dù

Thấy chồng và con mình trong tình cảnh như vậy, dù có trái tim cứng rắn đến đâu cũng không khỏi đau lòng.

Cô ta định sinh thêm đứa nữa, dù đã có ba đứa con

她打算再多生一个,虽然她已经有三个小孩。

Hồ Lê (Cú pháp tiếng Việt) phân loại nhƣ sau:

Hồ Lê phân loại mối quan hệ điều kiện-hệ quả dựa trên tiêu chí nội dung và tính chất của chúng Theo đó, có bốn kiểu mối quan hệ, trong đó ba kiểu thuộc cấu trúc nhượng bộ.

Bảng 1 bảng phân loại câu điều kiện của Hồ Lê

Tiêu chí Phân loại Dạng thức của cấu trúc

Nội dung của điều kiện Điều kiện giả định Dù(cho) thì Điều kiện hiện thực Tuy nhưng

Tính chất của mối quan hệ điều kiện-hệ quả Điều kiện thuận hệ quả(không phải cấu trúc nhượng bộ)

Vì nên Điều kiện nghịch hệ quả

Cấu trúc nhượng bộ có điều kiện giả định và hiện thực đều thuộc loại nhượng bộ có điều kiện nghịch hệ quả Theo quan điểm của Hồ Lê, có hai loại cấu trúc nhượng bộ dựa trên tiêu chí nội dung của điều kiện và tính chất của mối quan hệ nghịch hệ quả.

1 Cấu trúc nhượng bộ có điều kiện giả định nghịch với hệ quả: dù cho , chi dù , dù , dầu , dù , dầu

2 Cấu trúc nhượng bộ có điều kiện hiện thực nghịch với hệ quả: mặc dù nhưng, tuy nhưng

Nguyễn Đức Dân phân loại nhƣ sau:

Cơ sở lý luận của câu nhƣợng bộ tiếng Hán

1.2.1 Khái niệm câu ghép nhượng bộ tiếng Hán

Khái niệm câu ghép được Vương Ứng Vỹ ―Văn pháp tiếng Hán thực dụng‖

Vào năm 1920, Lưu đã đưa ra khái niệm rằng bất kỳ hai câu đơn trở lên khi ghép lại với nhau sẽ tạo thành một câu ghép Ông được coi là người đầu tiên đưa ra định nghĩa chính xác nhất về vấn đề này.

Theo cuốn "Ngữ pháp tiếng Trung" (1920) của Phục, câu ghép được định nghĩa là bất kỳ hai hoặc hai phân câu hợp thành một câu, trong khi những câu không có hình thức này được gọi là câu đơn.

Việc xác định khái niệm về câu ghép trong ngữ pháp tiếng Hán đã giúp làm rõ thuật ngữ này, đồng thời tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc nghiên cứu Theo Vương Lực trong "Ngữ pháp Trung Quốc hiện đại", câu ghép được định nghĩa là những câu được hình thành từ việc ngắt nghỉ khi đọc Ông nhấn mạnh rằng đặc trưng quan trọng của câu ghép là sự ngừng nghỉ trong quá trình đọc Lã Thúc Tương trong "Sơ lược ngữ pháp Trung Quốc" (1947) đã phân tích sâu hơn về cấu trúc nội bộ của câu ghép, sử dụng kết từ để giải thích hiện tượng này và phân loại thành "sự kết hợp của cấu tạo" và "sự kết hợp của quan hệ", trong đó câu ghép thuộc về loại sau Lê Cẩm Hy trong "Ngữ pháp tiếng Hán hiện đại" cũng đề cập đến khái niệm "câu phạm vi", chỉ ra rằng việc thêm một phạm vi từ chủ ngữ là một phương pháp và điều kiện để hạn chế câu.

Có ba loại điều kiện trong ngữ pháp: thứ nhất là điều kiện trong phạm vi, hay còn gọi là điều kiện tích cực; thứ hai là điều kiện ngoài phạm vi, tức là điều kiện tiêu cực; và thứ ba là câu vô điều kiện, trong đó có thể xuất hiện phó từ, đại từ nghi vấn hoặc hình dung từ.

1.2.2 Tình hình nghiên cứu của câu nhượng bộ tiếng Hán

Từ cuối thế kỷ 19, nhiều học giả đã tham gia nghiên cứu câu nhượng bộ, đạt được những kết quả sâu sắc Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào liên từ nhượng bộ và phân loại câu nhượng bộ trong các công trình ngữ pháp học.

Lê Cẩm Hy (1924) chỉ ra rằng câu chính và câu phụ có vị trí tương phản, nhưng ông cũng thừa nhận sự tồn tại của lý do hoặc sự thật trong câu nhượng bộ, thể hiện sự nhượng bộ của người nói Câu ghép này được gọi là câu nhượng bộ hoặc câu nhân nhượng.

Lã Thúc Tương (1956) trong cuốn "Sơ lược ngữ pháp Trung Quốc" chỉ ra rằng câu tung dư và câu nhân nhượng đều thuộc loại câu nhượng bộ Tuy nhiên, câu nhân nhượng thừa nhận điều kiện thực tế, trong khi câu tung dư lại thừa nhận điều kiện giả định.

Trong cuốn "Nghiên cứu câu ghép tiếng Hán" của Hình Phúc Nghĩa (2001), câu nhượng bộ được định nghĩa là một cấu trúc câu ghép mà trong đó phần nhượng bộ xuất hiện trước và phần chuyển ý theo sau Cấu trúc này được gọi là câu nhượng bộ.

Lưu Nguyệt Hoa cho rằng câu ghép nhượng bộ bao gồm một vế phụ thừa nhận sự việc nào đó, thể hiện sự nhượng bộ, và một vế chính tương phản với vế phụ Vế phụ thường sử dụng các liên từ như "尽管", "即使", "哪怕", và "纵使" để diễn đạt ý nghĩa này.

―固然‖, ―就是‖ Đối với vế chính thì dùng ―也‖, ―都‖

Trương Bân cho rằng câu nhượng bộ thường sử dụng các liên từ, đặc biệt là ở vế phụ, với các cấu trúc như: "即使 也", "纵然 也", "哪怕 也", "即便 也", "就是 也", "就算 也", và "纵使 也".

Các củ thể kể rõ luận văn tìm hiểu về câu nhượng bộ:

Lưu Khiên Công (2000) đã nghiên cứu đặc trưng của câu nhượng bộ từ góc độ sinh viên quốc tế học ngôn ngữ thứ hai Luận văn tập trung vào sinh viên Anh và Hàn Quốc, chưa đề cập đến sinh viên Việt Nam.

Khang Vĩnh Bảo (2004) đã nghiên cứu về những lỗi sai của sinh viên Việt Nam trình độ trung cấp khi sử dụng câu nhượng bộ, nhưng không toàn diện

1.2.3 Phân loại câu nhượng bộ và câu ghép

Kim Triệu Tử ―Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Trung‖ (năm 1922) phân loại câu ghép thành câu phức chính phụ và câu phức hằng phân

Lê Cẩm Hy (1924) trong tác phẩm "Ngữ pháp tiếng Trung hiện đại" đã phân loại liên từ thành 10 loại khác nhau, bao gồm: đẳng lập, thời gian, lựa chọn, giải thích, nhân quả, chuyển ý, phạm vi, điều kiện, so sánh và nhượng bộ.

Lã Thúc Tương (1942) chia câu ghép thành 10 loại: song hành, thay thế, tỷ lệ, so sánh kém, nhân quả, điều kiện, vô điều kiện, giả thiết, nhượng bộ

Trong vấn đề câu ghép và câu nhượng bộ, Lê Cẩm Hy ―Ngữ pháp tiếng Trung hiện đại‖, Trương Trí Công ― Kiến thức Hán ngữ‖, Hoàng Bá Vinh

― Hán ngữ hiện đại‖ phân 2 loại câu ghép thành 2 loại không giống nhau Còn

Trong các tài liệu như "Vương Lực ― Tóm lược ngữ pháp tiếng Hán", "Đinh Thanh Thụ ― Bài giảng ngữ pháp tiếng Hán hiện đại" và "Hồ Dụ Thụ ― Hán ngữ hiện đại", câu ghép giả thiết được xếp vào loại câu nhượng bộ, thể hiện sự liên kết chặt chẽ trong ngữ pháp tiếng Hán hiện đại.

Vương Lực ―Ngữ pháp tiếng Trung hiện đại‖ (năm 2000) chia câu ghép thành câu đẳng lập và câu chính phụ [41]

Câu nhượng bộ là một phần quan trọng trong câu ghép, đóng vai trò thiết yếu trong giao tiếp, đặc biệt trong việc học tiếng Việt và tiếng Trung Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về câu nhượng bộ, nhưng số lượng luận văn vẫn còn hạn chế và chưa đi sâu vào vấn đề Do đó, luận văn này sẽ tập trung vào việc nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Trung sang tiếng Việt trong tác phẩm "Báu Vật của đời", đồng thời so sánh với bản tiếng Trung 《丰乳肥臀》, nhằm làm rõ sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ.

Các vấn đề lý luận liên quan

Dịch là một hoạt động quan trọng trong mọi thời đại, đặc biệt trong thế giới hiện đại, nơi mà nghề dịch ngày càng được công nhận Số lượng người làm công tác phiên dịch, bao gồm thông dịch viên chuyên nghiệp, tự do và bán thời gian, đang gia tăng đáng kể Các ngôn bản được dịch ngày càng phong phú và đa dạng, phản ánh sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực dịch thuật Đồng thời, nghiên cứu về dịch thuật như một khoa học cũng phát triển mạnh mẽ, với nhiều công trình của các nhà ngôn ngữ học trên toàn cầu.

1.3.2 Lý luận ngôn ngữ học so sánh đối chiếu

So sánh là phương pháp thiết yếu trong nghiên cứu và nhận thức sự vật, đặc biệt trong ngôn ngữ học Nhiệm vụ chính của ngôn ngữ là trình bày chi tiết các hiện tượng, yêu cầu phân tích và đối chiếu các biểu hiện của chúng (Halmannl 1980) Ngôn ngữ học đối chiếu, một hình thức so sánh, giúp xác định vị trí của nó trong hệ thống ngôn ngữ và liên kết với các loại ngôn ngữ khác nhau Thuật ngữ "Ngôn ngữ học đối chiếu" được giới thiệu bởi một nhà nghiên cứu ngôn ngữ học người Mỹ vào năm 1941, với tên gốc "contrastive analysis", và đã được cộng đồng nghiên cứu ngôn ngữ chấp nhận Nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Triệu Nguyên Nhiệm cũng đã có những phát biểu quan trọng về lĩnh vực này.

Ngôn ngữ học đối chiếu là một lĩnh vực nghiên cứu so sánh ngôn ngữ, nhằm phân tích và kết luận khoa học về các ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới Được hình thành từ lý luận ngôn ngữ kết cấu chủ nghĩa và tiếng nước ngoài, ngôn ngữ học đối chiếu áp dụng nguyên lý để phân tích hai hoặc nhiều loại ngôn ngữ Theo một học giả, ngôn ngữ học đối chiếu là một phân nhánh của ngôn ngữ học, với nhiệm vụ nghiên cứu sự giống và khác nhau giữa các ngôn ngữ, đặc biệt là sự khác biệt, và kết quả nghiên cứu có thể được ứng dụng trong các lĩnh vực khác.

1.3.3 Một số nguyên tắc và phương pháp

Ngôn ngữ học đối chiếu, với tư cách là một nhánh độc lập, đang trong quá trình tự hình thành và chưa có định hình rõ ràng về đối tượng, quan niệm và phạm vi Để phát triển nghiên cứu đối chiếu, cần dựa vào các nguyên tắc và phương pháp thực tiễn.

- Nguyên tắc đối chiếu đồng đại

Nghiên cứu đối chiếu là một phương pháp nghiên cứu đồng đại, yêu cầu việc tuân thủ nguyên tắc đồng đại trong quá trình phân tích Điều này có nghĩa là không được so sánh các hiện tượng ngôn ngữ thuộc các thời kỳ khác nhau, mà chỉ tập trung vào những hiện tượng ngôn ngữ xảy ra cùng một thời điểm.

- Nguyên tắc đối chiếu đồng ngữ

Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp, với các chức năng ngữ thể đa dạng Mỗi ngôn ngữ có những lựa chọn, quy tắc và quy phạm riêng trong việc tổ chức và sử dụng Cần phân biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, đồng thời so sánh ngôn ngữ viết với ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói với ngôn ngữ nói trong cùng một ngữ hệ.

- Nguyên tắc kết hợp ứng dụng đối chiếu với lý luận đối chiếu

Nghiên cứu đối chiếu có thể mang tính lý luận hoặc ứng dụng, với mục tiêu chính là phục vụ giảng dạy Quá trình đối chiếu và mô tả cần được thực hiện một cách đơn giản và thuận tiện cho giáo viên và học sinh Đồng thời, nghiên cứu lý luận cần phải gắn kết chặt chẽ với thực tiễn và có mối liên hệ mật thiết với việc dạy học.

- Phương pháp thống kê số lượng

Trong các nghiên cứu trước đây, một số tác giả chỉ tập trung vào mô tả định tính mà ít chú trọng đến số liệu thống kê định lượng Để đảm bảo tính khách quan và khoa học, chúng tôi cho rằng cần phải thực hiện phân tích và thống kê ngữ liệu nhằm đưa ra những nhận định khoa học chính xác.

Tiểu kết

Chúng tôi đã trình bày khái niệm, phân loại và tình hình nghiên cứu về câu nhượng bộ trong tiếng Việt và tiếng Hán một cách cụ thể và chi tiết Qua đó, một số điểm nổi bật đã được làm rõ.

1 Về câu nhượng bộ, trong thời gian gần đây các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc và Việt Nam đã đưa ra nhiều ý kiến và các công trình nghiên cứu về câu nhượng bộ Nghiên cứu câu nhượng bộ tiếng Hán được bắt đầu tương đối sớm và đã được khảo sát từ nhiều góc độ khác nhau Còn câu nhượng bộ tiếng Việt suốt một thời gian dài chưa được quan tâm nghiên cứu Tuy vậy, thời gian gần đây các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã chú ý nhiều hơn đến câu nhượng bộ và đề cập đưới nhiều góc độ khác nhau

2 Về cách phân loại : câu nhượng bộ tiếng Việt được phân loại theo các góc độ ngữ nghĩa, ngữ dụng, hình thức câu Còn câu nhượng bộ tiếng Hán thì chủ yếu phân loại theo ngữ nghĩa.

CÂU NHƯỢNG BỘ TRONG TÁC PHẨM “BÁU VẬT CỦA ĐỜI” BẢN TIẾNG VIỆT

Giới thiệu tác phẩm “Báu vật của đời”

"Báu vật của đời" (nguyên tác tiếng Hoa: Phong nhũ phì đồn) là tác phẩm phản ánh một giai đoạn lịch sử bi tráng của Trung Hoa, thể hiện số phận của các thế hệ trong gia đình Thượng Tác phẩm mang đến cái nhìn sâu sắc về những biến động xã hội và văn hóa trong thời kỳ hiện đại, từ đó khắc họa chân thực cuộc sống và những thách thức mà con người phải đối mặt.

Mạc Ngôn, tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, là một tác giả nổi tiếng Do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa, ông phải ngừng học khi còn đang học tiểu học và trải qua nhiều năm lao động ở nông thôn Năm 1976, ông gia nhập quân đội và đến năm 1984, ông được nhận vào khoa văn tại Học viện nghệ thuật Quân Giải phóng, nơi ông tốt nghiệp sau đó.

Ông đã trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh sáng tác tại Học viện Văn học Lỗ Tấn, Trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh vào năm 1988 và tốt nghiệp với học vị thạc sĩ vào năm 1991 Hiện tại, ông đang giữ chức vụ sáng tác viên bậc Một tại Cục Chính trị.

Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã được nhắc đến trong tác phẩm nổi tiếng "Cao lương đỏ" của nhà văn Mạc Ngôn Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm này, do đạo diễn Trương Nghệ Mưu thực hiện, đã giành giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1994.

Truyện dài "Báu vật của đời" (nguyên tác tiếng Hoa: Phong nhũ phì đồn) được xuất bản vào tháng 9 năm 1995 và nhanh chóng trở thành một hiện tượng trong năm đó Tác phẩm đã giành được giải thưởng cao nhất về truyện, khẳng định giá trị và sức hấp dẫn của nó.

"Báu vật của đời" phản ánh một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của Trung Hoa, thông qua số phận của các thế hệ trong gia đình Thượng Quan.

Lịch sử văn học được hình thành từ những số phận đa dạng, mang lại nhiều góc nhìn khác nhau, tạo nên sức sống và sức thuyết phục cho tác phẩm Sự đa dạng trong cách cảm thụ văn chương dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau về một hiện tượng văn học, điều này không chỉ là bình thường mà còn làm phong phú thêm đời sống văn học.

Tác phẩm được dịch sang tiếng Việt với chất lượng cao, giữ vững tinh thần nguyên bản nhờ tài năng của dịch giả Trần Đình Hiến, người có gần 50 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực văn học Trung Hoa Qua bản dịch của ông, độc giả Việt Nam đã tiếp cận được các tác phẩm như "Cống long tu" (Lão xá), "Gieo mầm tình yêu" (Từ Hoài Trung) từ những năm 60, cũng như "Khát vọng" (Trịnh Vạn Long và Lý Hiểu Minh) và "Cây hợp hoan" (Trương Hiền Lượng) từ những năm 90 một cách đầy đủ và trọn vẹn Ngoài ra, ông còn có hàng ngàn trang dịch chưa được xuất bản, trong đó có hai tập "Cao lương đỏ" mà ông dịch từ năm 1993 chỉ vì đam mê, không phải do yêu cầu xuất bản.

2.1.1 Hình thức nhóm câu nhượng bộ trong tác phẩm “Báu vật của đời”

Hình thức phổ biến của nhóm kiểu câu này là A nhưng B, và tuy A nhưng

(1) Tuy người và súc vật giống nhau, nhưng rốt cuộc sống chết có số của nó

(2) Anh ta cố sức ngẩng đầu lên, nhưng một bàn tay khỏe ấn đầu anh ta xuống

(3) Tôi không trông thấy cái dáng mẹ nằm trên giường, nhưng hai tay dang rộng, bàn tay xương xầu tấy đỏ, đầy những vết nứt nẻ

Trong hai kiểu câu này, loại kiểu câu ―Tuy A nhưng B‖ có hai cặp liên từ

―tuy‖, ―nhưng‖ là câu nhượng bộ có cặp liên từ phổ biến nhất trong tác phẩm

―Báu vật của đời‖ Ngoài loại câu này, còn một hình thức khác cũng khá phổ biến là ―Dù A nhưng B‖, ví dụ:

(4) Dù bước thì khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng

(5) Dù chúng tôi đã biết là ai viết, nhưng chỉ cần thành khẩn là chúng tôi có thể khoan hồng

Mặc dù sau này cô khẳng định rằng Thượng đế đã dẫn dắt cô đến với anh, Kim Đồng vẫn luôn tin rằng mọi chuyện đều đã được sắp đặt từ trước.

Trong một số trường hợp, vế chính đứng trước vế phụ, khi đó kết cấu phổ biến nêu trên có hình thức B tuy A hoặc B dù A Ví dụ:

(7) Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán

(8) Được mùa vốn là niềm vui của phụ nữ làm vuộng dù họ đang trong hoàn cảnh đắng như Hoàng Liên

(9) Những năm tháng qua tôi đã từng ăn thử, nhưng dù tôi ăn những thức ngon đến mấy, dạ dày tôi vẫn không chịu

2.1.2 Thống kê các mẫu câu nhượng bộ xuất hiện trong tác phẩm “Báu vật của đời”

Bảng thống kê dưới đây sẽ trình bày tần suất và tỷ lệ xuất hiện của các mẫu câu nhượng bộ trong tác phẩm "Báu vật của đời".

Bảng 2.1 bảng thống kê cụ thể tần suất và tì lệ xuất hiện của các mẫu câu nhượng bộ trong tác phẩm trong tác phẩm ―Báu vật của đời‖

STT Kiệu câu Số câu xuất hiện Tỳ lệ % xuất hiện

Chúng tôi sẽ tiến hành phân tích sâu các mẫu câu nhượng bộ trong tác phẩm này, tập trung vào ba phương diện chính: cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ chỉ ra phương pháp chuyển dịch từ tiếng Việt sang tiếng Hán.

Khảo sát đặc điểm câu nhƣợng bộ trong tác phẩm “Báu vật của đời”

Trong những thập kỷ gần đây, các nhà ngôn ngữ học đã công nhận rằng nghiên cứu ngôn ngữ cần xem xét ba bình diện chính: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng Từ góc độ dịch thuật, ba bình diện này được coi là "trụ cột của nghiên cứu dịch thuật" (Neubert 1984:57).

―công việc trọng tâm của thông dịch viên‖ (Hatim & Mason 1990:25)

Chu Đức Hy đã nhấn mạnh rằng mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu ngữ pháp là hiểu rõ mối quan hệ giữa hình thức và ý nghĩa ngữ pháp Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu có thể bắt đầu từ hình thức hoặc từ ý nghĩa Trong chương này, chúng tôi sẽ tập trung vào việc phân tích đặc điểm cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của các câu nhượng bộ trong tác phẩm "Báu vật của đời".

2.2.1 Cú pháp câu nhượng bộ trong tác phẩm “Báu vật của đời”

Trong 243 câu nhượng bộ của ―Báu vật của đời‖, có 172 câu là có chủ ngữ tương đồng và có 71 câu chủ ngữ không tương đồng

A Chủ ngữ tương đồng Trong những câu nhượng bộ có chủ ngữ thì có những hiện tượng như sau: a) Vế chính và vế phụ đều xuất hiện chủ ngữ

(10) Nó tuy gầy và đen, nhưng vào cái thời ấy, nó là một đứa trẻ khỏe mạnh

(11) Những năm tháng qua tôi đã từng ăn thử, nhưng dù tôi ăn những thức ngon đến mấy, dạ dày tôi vẫn không chịu

(12) Chị sợ, muốn thoát khợi ra bàn tay dính đầy máu lừa của bà mẹ chồng thợ rèn, nhưng chị không còn sức

Chủ ngữ của các câu trong ví dụ đều giống nhau, như câu (10) với chủ ngữ "nó" xuất hiện ở cả vế chính và vế phụ Tương tự, trong câu (11) và (12), chủ ngữ lần lượt là "tôi" và "chị", cho thấy rằng chủ ngữ của hai mệnh đề là giống nhau Ngoài ra, có trường hợp vế phụ hoặc vế chính có thể bị lược bỏ chủ ngữ.

(13) Tuy rằng vú của cô là loại vú bánh dầy, nhưng hình dáng vẫn là vú

(14) Dù bước thì khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng

Chủ ngữ của câu (13) là "vú của cô", xuất hiện trong vế phụ trong khi vế chính không có Tuy nhiên, dựa vào ý nghĩa của vế chính, chúng ta có thể hiểu rằng chủ thể miêu tả của cả vế phụ và vế chính đều là "vú của cô".

Câu (13) là một câu nhượng bộ với chủ ngữ tương đồng Trong câu (14), mặc dù có chủ ngữ rõ ràng là "ông", vế phụ lại không có chủ ngữ, nhưng qua ngữ cảnh, chúng ta hiểu rằng chủ ngữ của vế chính cũng là "ông" Nếu thêm chủ ngữ vào, câu sẽ trở thành "Dù bước ông thì khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng" Chủ ngữ của cả vế chính và vế phụ có thể bị lược bỏ hoàn toàn.

(15) Tuy không giàu nứt, cũng không phải thiếu ăn thiếu mặc

Trong câu (15), chủ ngữ của vế chính và vế phụ bị lược bỏ, nhưng qua phân tích, ta nhận thấy cả hai vế đều liên quan đến một chủ thể chung, cụ thể là "hoàn cảnh của người nói" Điều này cho phép chúng ta khẳng định rằng chủ ngữ của cả vế chính và vế phụ là giống nhau.

B Chủ ngữ không tương đồng

Những câu nhượng bộ có chủ ngữ không tương đồng cũng có thể tổng kết những quy luật như sau: a) Vế chính và vế phụ đều có chủ ngữ

Kim Đồng tin rằng mọi sự kiện đều được sắp đặt từ trước, mặc dù sau này cô đã nói rằng Thượng đế đã dẫn dắt cô đến bên anh.

(17) Dù hắn có thằng cháu ngoại là triệu phú, nhưng ta cảnh nghèo chí không nghèo

(18) Dù chúng tôi đã biết là ai viết, nhưng chỉ cần thành khẩn là chúng tôi có thể khoan hồng

Những câu ví dụ như trên toàn đều có hiện tượng chủ thể chủ ngữ của

Trong bài viết này, chúng ta phân tích cấu trúc câu với các vế không đồng nhất Câu (16) có chủ ngữ vế chính là "Kim Đồng" và chủ ngữ vế phụ là "cô" Tương tự, trong câu (17), chủ ngữ vế chính là "ta", trong khi chủ ngữ vế phụ là "hắn" Đối với câu (18), chủ ngữ của vế phụ là "chúng tôi", mặc dù vế chính không sử dụng ngôi xưng hô ở vị trí chủ ngữ Qua khảo sát, ta nhận thấy chủ ngữ của vế chính là người nghe Nếu bổ sung, câu này sẽ trở thành: "Dù chúng tôi đã biết là ai viết, nhưng chỉ cần anh thành khẩn là chúng tôi có thể khoan hồng." Ngoài ra, cũng có trường hợp vế phụ hoặc vế chính bị lược bỏ chủ ngữ.

(19) Tuy nước trong đầm ấm thật đấy, nhưng xuống thì dẽ, lên thì khó

Chủ ngữ của vế nhượng bộ trong câu (19) là "nước trong đầm", trong khi chủ ngữ của vế chính là chủ ngữ giản lược Phân tích toàn câu cho thấy chủ ngữ hành động là người Dựa vào ngữ cảnh, câu có thể hiểu là "Tuy nước trong đầm ấm thật đấy, nhưng chúng ta xuống thì dễ, lên thì khó" Chủ ngữ "chúng ta" có thể được phục hồi trong ngữ cảnh này Tuy nhiên, trong tác phẩm, phép tỉnh lược chủ ngữ đã được áp dụng, dẫn đến việc chủ ngữ của cả vế chính và vế phụ bị tỉnh lược hoàn toàn.

(20) Dù thế nào chăng nữa cũng không thể để mẹ quay lại

Trong câu (20), chủ ngữ của vế chính và vế phụ bị lược bỏ, nhưng khi phân tích toàn câu trong ngữ cảnh, ta nhận thấy rằng hành động của cả hai vế được thực hiện bởi hai người khác nhau Cụ thể, chủ ngữ của vế chính là người nói, trong khi chủ ngữ của vế phụ là người nghe Nếu thêm chủ ngữ cho cả hai vế, câu sẽ trở thành: "Dù chị thế nào chăng nữa em cũng không thể để mẹ quay lại."

Câu ghép nhượng bộ trong tiếng Việt thuộc loại câu ghép chính-phụ, với vế phụ thừa nhận một sự thật và vế chính thể hiện ý nghĩa nghịch Để liên kết hai vế mệnh đề, cần sử dụng liên từ, chẳng hạn như tuy nhưng hoặc dù nhưng Khi tính liên kết giữa hai mệnh đề đã rõ ràng, liên từ có thể được bỏ qua mà không làm thay đổi ý nghĩa của câu, vẫn giữ nguyên tính nhượng bộ Tuy nhiên, mệnh đề đứng sau vẫn cần có liên từ như tuy (nhiên), nhưng, hoặc dù.

(21)Nhưng bầu trời thì cao vòi vọi và trong vắt, nắng vàng đúng là nắng của mùa thu

Mặc dù đang giữa mùa thu, không khí lại thiếu đi hương vị đặc trưng của mùa này Tuy nhiên, bầu trời vẫn cao và trong vắt, ánh nắng vàng rực rỡ mang đậm chất thu.

时令已是中秋,尽管风里还嗅不到一丝一毫秋天的气味,但天空已

是湛蓝的秋天的天空,阳光已是明媚的秋天的阳光。

(23) Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán

The local representatives and notable figures trailing behind us, despite being out of breath, expressed no complaints.

(24) Chị sợ, muốn thoát khởi hia bàn tay dính đầy máu lửa của bà mẹ chồng thợ rèn, nhưng chị không còn sức

她感到恐惧,她想躲避这个打铁女人沾满驴血的双手,但她没有力

Khi muốn cường điệu sự chuyển ý của câu nhượng bộ, có thể dùng ―cũng‖,

―mà‖ thay thế ―nhưng‖, đây cũng là một thói quen dùng từ tập quán của thông dịch viên Việt Nam Ví dụ:

(25) Tuy không giàu nứt, cũng không phải thiếu ăn thiếu mặc

虽不是大户,可也不算个小户。

(26) Không quay lại, chết cũng về Trung Quốc, chỉ còn cái xác cũng phải về Trung Quốc

不回去,就是淹死,嗯,死尸也要漂回。

(27) Bao nhiêu nỗi ra mà không dám nói ra

尽管她有满肚子苦水,也得自己咽下去。

Một số điểm cần chú ý: a Liên từ của câu nhượng bộ chỉ có tác dụng liên kết, không thể độc lập làm thành phần của câu ví dụ:

(28) Kim Đồng mặc dù đã áp sát tường đến mức tối đa, nhưng vẫn bị quát mắng

Dù lên quan Kim Đồng co rúm người trong góc tường, cô vẫn không tránh khỏi bị mắng mỏ Trong câu (28), sau khi xem xét toàn bộ câu, chúng ta có thể nhận ra rằng liên từ đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết các ý tưởng.

Từ "tuy" và "nhưng" chỉ có chức năng liên kết hai mệnh đề, tạo ra mối quan hệ logic mà không mang ý nghĩa từ vựng cụ thể Trong một số câu nhượng bộ trong tiếng Việt, có thể thấy một phần câu diễn đạt một ý nghĩa, sau đó là phần câu khác mô tả ý nghĩa khác, dẫn đến việc chuyển ý và làm rõ ý chính xác của người nói Trong câu ghép nhượng bộ, liên từ chỉ được sử dụng một lần và không được lặp lại.

(29) Mẹ nhìn nét mặt đầy yêu khí của chị Ba, có bao nhiêu điều muốn nói, nhưng rồi mẹ lại thôi

母亲听了这些话,犹如五雷轰顶,心中交集着百感,她惊悚地看

Tiểu Kết

3.1 Câu nhƣợng bộ tiếng Hán trong nguyên bản《丰乳肥臀》

Trước khi chúng tôi triển khai nội dung của phần luận văn này, chúng tôi sẽ thống kê những câu nhượng bộ trong tác phẩm ―Báu vật của đời‖

Bảng 3.1 Thống kê câu nhượng bộ trong 《丰乳肥臀》

《丰乳肥臀》 Số câu xuất hiện

Vế chính Vế phụ Vế chính Vế phụ

Tuy, cho dù, dù, mặc dầu, mặc dù, mặc cho nhưng

无论、不管 也 8 3.3%

Thà 宁可、宁肯 也 1 0.5% nhưng 但是 166 67.0%

Theo quan điểm Lưu Nguyệt Hoa, chúng tôi sẽ phân tích những kết từ trong câu nhượng bộ tiếng Hán.

CÁCH CHUYỂN DỊCH CÂU NHƯỢNG BỘ TỪ TIẾNG HÁN SANG TIẾNG VIỆT

Câu nhƣợng bộ tiếng Hán trong nguyên bản《丰乳肥臀》

Trước khi chúng tôi triển khai nội dung của phần luận văn này, chúng tôi sẽ thống kê những câu nhượng bộ trong tác phẩm ―Báu vật của đời‖

Bảng 3.1 Thống kê câu nhượng bộ trong 《丰乳肥臀》

《丰乳肥臀》 Số câu xuất hiện

Vế chính Vế phụ Vế chính Vế phụ

Tuy, cho dù, dù, mặc dầu, mặc dù, mặc cho nhưng

无论、不管 也 8 3.3%

Thà 宁可、宁肯 也 1 0.5% nhưng 但是 166 67.0%

Theo quan điểm Lưu Nguyệt Hoa, chúng tôi sẽ phân tích những kết từ trong câu nhượng bộ tiếng Hán

3.1.1 Đặc điểm cú pháp của câu nhượng bộ tiếng Hán

Thông qua khảo sát các câu nhượng bộ tiếng Hán trong tác phẩm ngữ liệu, có thể nhận thấy rằng câu nhượng bộ có chủ ngữ xuất hiện với một số hiện tượng đặc trưng Đầu tiên, khi chủ ngữ của cả hai vế đều nói về một người, để tránh sự rườm rà, thường chỉ giữ lại chủ ngữ của một trong hai vế, hoặc cả hai vế có thể không có chủ ngữ Thứ hai, khi chủ ngữ của hai vế không thống nhất, một trong hai vế có thể lược bỏ chủ ngữ, nhưng không thể để cả hai vế đều thiếu chủ ngữ, nếu không, độc giả sẽ gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung tác phẩm.

Liên từ của câu nhượng bộ tiếng Hán phong phú hơn câu nhượng bộ tiếng

Liên từ trong câu nhượng bộ tiếng Hán có cấu trúc phức tạp hơn so với tiếng Việt Hình Phúc Nghĩa phân loại liên từ thành bốn nhóm chính, giúp người học dễ dàng nắm bắt và áp dụng trong giao tiếp.

Bảng 3.2 Phân loại liên từ của câu nhượng bộ

Phân loại Tiếng Hán Tiếng Việt

虚让 (Hư nhượng) 即使 Tuy, Cho dù,

总让 (Tổng nhượng) 不管

实让 (Thực nhượng) 虽然、尽管

Trong tiếng Hán, các kết từ như "忍让" (Nhân nhượng) và "宁可" (Thà) thể hiện sự phức tạp hơn so với tiếng Việt Điều này cho thấy sự đa dạng trong cách diễn đạt ý nghĩa và cảm xúc giữa hai ngôn ngữ.

Hƣ nhƣợng là giả thiết một sự việc, bất cứ sự việc này có khả năng xảy ra hay không, cũng không ảnh hưởng đến kết quả Ví dụ:

Dù bạn có đói bụng hay cơ thể đang đau ốm, hãy luôn giữ thái độ tích cực và không nên oán thán.

Thông qua phân tích câu (41), chúng tôi nhận thấy rằng dù tình trạng đói khát hay ốm đau chưa xảy ra, nhưng khi chúng xảy ra, chúng ta cũng không nên oán thán.

Tổng nhƣợng là bất cứ tình hình tương lai như thế nào, kết quả cũng giống nhau Ví dụ:

(42) 无论说什么我也不会让你们回去。(Dù thế nào chăng nữa cũng không thể để mẹ quay lại.)

Trong câu trên, tôi không thể để mẹ trở lại, bất kể mẹ nói gì, tôi cũng sẽ không thay đổi quyết định của mình.

Thực nhượng là hai mệnh đề đều công nhận một sự thật, trong đó vế chính trái ngược với kết quả được dự đoán dựa trên sự kiện đã xảy ra.

(43) 我虽然有所预感,但还是大吃一惊。( Tuy đã đoán biết, nhưng không khỏi giật mình.)

Trong câu (43), vế nhượng bộ thể hiện sự nhận thức về việc đã có dự cảm trước đó, tuy nhiên, nhân vật vẫn không thể tránh khỏi cảm giác bất ngờ và hoảng hốt.

Nhân nhượng là quá trình lựa chọn một phương án sau khi cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro Thông thường, sự lựa chọn này không hoàn toàn tích cực, mà được đưa ra trong bối cảnh không thuận lợi Do đó, quyết định nhân nhượng thường phản ánh sự lùi bước của người nói, nhằm tìm kiếm giải pháp khả thi hơn.

Cụm từ "宁可" và "宁肯" thường được sử dụng để chỉ sự nhượng bộ, thể hiện sự lựa chọn giữa hai phương án sau khi so sánh lợi ích và bất lợi của chúng Thông thường, chúng được sử dụng cùng nhau để nhấn mạnh quyết định cuối cùng.

Trong tiếng Trung, các cụm từ như "决不", "也不", và "也别" thường được sử dụng để thể hiện sự phủ định mạnh mẽ và không có hy vọng Khi câu chính kết hợp với những cụm từ này, nó mang ý nghĩa rõ ràng về việc từ chối hoặc không chấp nhận điều gì đó, bất kể giá phải trả từ câu phụ.

(44) 我宁可嫁给猪场里的公猪,也不会嫁给你。(Thà rằng tôi lấy lợn đực còn hơn là lấy anh.)

Trong câu (44), sự so sánh giữa "嫁给你 (lấy anh)" và "嫁给猪场里的公猪 (lấy lợn đực)" cho thấy rằng việc chọn lợn đực còn tốt hơn việc kết hôn với nhân vật được nhắc đến Do đó, câu nói "thà rằng tôi lấy lợn đực còn hơn là lấy anh" thể hiện rõ sự kiên quyết của tác giả Nhân nhượng thường được sử dụng để tăng cường ngữ khí, nhấn mạnh quyết tâm của người nói.

Trật tự hai vế câu của câu nhượng bộ tiếng Hán có hai dạng, đó là:

Trật tự thuận trong câu là khi vế chính đứng sau vế phụ, tạo ra mối quan hệ nhượng bộ và chuyển ý Trong cấu trúc này, vế chính là phần chuyển ý, chứa nội dung chủ yếu, trong khi vế phụ mang tính nhân quả và giả thuyết.

Trật tự nghịch trong câu là khi vế chính được đặt trước vế phụ, tạo ra mối quan hệ giữa sự việc và nhượng bộ Dù cho vế nhượng bộ có phát triển như thế nào, nó cũng không ảnh hưởng đến kết quả của vế sự việc.

3.2 Các thủ pháp chuyển dịch

Dịch thuật là quá trình chuyển đổi ý nghĩa văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tạo thành một đoạn văn mới Từ "dịch" (易) mang ý nghĩa "chuyển đổi" và "biến đổi", trong khi "thuật" (術) có nghĩa là "kỹ thuật" hay "phương pháp" Do đó, "dịch thuật" được hiểu là phương pháp chuyển đổi giữa các ngôn ngữ Trong cuốn "Nghiên cứu dịch thuật", Hoàng Văn Vân đã nêu ra những quan niệm khác nhau về dịch thuật từ ba học giả nổi tiếng.

Các thủ pháp chuyển dịch

Theo quan điểm của Nida, Taber, Newmark và đặc biệt là Koller, Nguyễn Hồng Cổn định nghĩa tương đương dịch thuật là sự trùng hợp hoặc tương ứng trên nhiều bình diện như ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng Tương đương dịch thuật không chỉ là sản phẩm cuối cùng mà còn là một khía cạnh quan trọng trong quá trình giao tiếp của dịch thuật.

Dưới đây chúng tôi sẽ căn cú vào định nghĩa tương đương dịch thuật của Nguyễn Hồng Cổn để triển khai nội dung sau

Nguyễn Hồng Cổn đã phân biệt bốn bình diện của tương đương dịch thuật, bao gồm tương đương ngữ pháp, tương đương ngữ nghĩa và tương đương ngữ dụng Dựa trên ba bình diện này, các tác giả đã phân loại thành hai hình thức: tương đương hoàn toàn và tương đương không hoàn toàn Tương đương hoàn toàn được hiểu là sự tương đồng giữa các yếu tố ngôn ngữ trong quá trình dịch thuật.

Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ gần gũi và lâu dài, với sự tiếp xúc và vay mượn ngôn ngữ giữa hai nước Điều này dẫn đến hiện tượng tương đương dịch thuật hoàn toàn tuyệt đối trên cả ba bình diện ngôn ngữ.

Tương đương trong dịch thuật được xem xét từ ba bình diện chính: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng Những yếu tố như phạm trù từ loại, trật tự từ, cấu trúc ngữ pháp và chức năng ngữ dụng đều đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự tương đương Đây là kiểu tương đương phổ biến nhất, và luận văn này sẽ dựa trên các quan niệm này để khảo sát thủ pháp chuyển dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt.

+ Tương đương không hoàn toàn

Theo quan điểm của Nguyễn Hồng Cổn, trong loại này, ông phân chia thành 4 kiểu

Tương đương ngữ pháp – ngữ nghĩa là hình thức dịch thuật trong đó các đơn vị của văn bản nguồn và văn bản đích có sự tương đồng về ngữ pháp và ngữ nghĩa, nhưng lại khác biệt về ngữ dụng Hình thức này thường được áp dụng khi dịch chú giải nghĩa nguyên văn của câu, và ít khi được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày.

Tương đương ngữ pháp - ngữ dụng là hình thức dịch thuật trong đó các đơn vị ngôn ngữ của văn bản nguồn và văn bản đích tương ứng với nhau về mặt ngữ pháp và ngữ dụng, nhưng lại khác biệt về nghĩa.

Tương đương ngữ nghĩa - ngữ dụng là hình thức dịch thuật trong đó các đơn vị ngôn ngữ của văn bản nguồn và văn bản đích tương đương về mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng, nhưng lại khác nhau về ngữ pháp Loại tương đương này thường được áp dụng trong các trường hợp mà văn bản nguồn và văn bản đích có sự khác biệt lớn, dẫn đến những phức tạp trong ngữ pháp.

Tương đương thuận ngữ dụng là loại tương đương tự do nhất trong dịch thuật, chỉ tương đương về mặt ngữ dụng, đặc biệt là đích ngôn trung và giá trị thông báo Kiểu tương đương này thường độc lập với tương đương ngữ pháp và ngữ nghĩa, và nếu liên kết chúng trong quá trình dịch, sẽ dẫn đến dịch từng từ Thường gặp trong các câu có tính nghi thức và tính thành ngữ cao.

3.2.2 Chuyển dịch không tương đương Đặc điểm phi tương xứng về hình thức và nội dung giữa các ngôn ngữ là một thực tế gây trở ngại cho việc đối dịch Chính tính phi tương xứng giữa các ngôn ngữ đã làm cho việc chọn tương đương trong đối dịch không phải lúc nào cũng áp dụng được Ngoài ra, còn có khá nhiều khác biệt chi phối đến quá trình dịch, như văn hóa, xã hội, tâm lí Để giải quyết vấn đề không tương đương, Nguyễn Hồng Cổn đã đưa ra mấy kiểu thủ pháp chuyển dịch:

Khi dịch một từ từ văn bản nguồn sang văn bản đích, nếu không tìm được từ tương ứng, cần lựa chọn một từ có nghĩa cụ thể và chính xác để thay thế cho khái niệm trong văn bản.

Dịch bằng cách lựa chọn phương án tương đương là một thủ pháp chuyển dịch quan trọng Phương pháp này được áp dụng khi nghĩa của từ hoặc cụm từ giống nhau nhưng hình ảnh lại khác nhau Trong trường hợp này, người dịch cần chọn một phương án phù hợp để đảm bảo ý nghĩa được truyền đạt chính xác.

Dịch bằng những khái niệm văn hóa là phương pháp được sử dụng khi không thể tìm thấy từ tương ứng trong văn bản đích Người dịch cần lựa chọn một khái niệm hoặc cách diễn đạt mang tính văn hóa, có ý nghĩa khác biệt so với từ gốc nhưng vẫn giữ được giá trị tương tự trong ngữ cảnh tổng thể của văn bản đích.

Dịch bằng từ vay mượn là phương pháp tạo ra từ mới trong văn bản đích tương đương với từ trong văn bản nguồn mà không sao chép nguyên từ Sự sáng tạo khái niệm mới hay vay mượn phụ thuộc vào mức độ mới mẻ của khái niệm đó đối với văn bản đích.

Thủ pháp dịch bằng một đoạn văn phù hợp cho những trường hợp khi cần dịch một từ, khái niệm hoặc hình ảnh không có trong văn bản đích Điều này xảy ra khi văn bản đích thiếu khái niệm tương đồng với văn bản nguồn, nhưng ý nghĩa truyền tải lại không phù hợp với mục đích sử dụng của văn bản nguồn.

+ Dịch bằng cách lược bỏ không cần thiết: Thủ pháp này được áp dụng trong các trường hợp dịch một từ hoặc một câu không ảnh hưởng nhiều đến ý

Cách chuyển dịch câu nhƣợng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt

Tương đương dịch thuật thể hiện mối quan hệ giữa văn bản nguồn và văn bản đích, mối quan hệ này được xác lập trong quá trình chuyển dịch.

3.3 Cách chuyển dịch câu nhƣợng bộ từ tiếng Việt sang tiếng Hán Ở phần này, chúng tôi sẽ đối chiếu các câu nhượng bộ tương đương trong văn bản nguồn (tiếng Hán) và văn bản đích (tiếng Việt) của ―Báu vật của đời‖

Chúng tôi sẽ dựa vào quan điểm phân loại thủ pháp chuyển dịch tương đương của Nguyễn Hồng Cổn để phân tích nội dung, cụ thể là trên ba bình diện: ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng.

3.3.1.1 Tương đương ngữ pháp a Chủ ngữ

Qua khảo sát các câu nhượng bộ trong tiếng Việt và tiếng Hán, chúng tôi nhận thấy rằng cả hai ngôn ngữ đều có hiện tượng tương tự Cụ thể, khi chủ ngữ của vế nhượng bộ và vế chính giống nhau hoặc khác nhau, thường chỉ có chủ ngữ xuất hiện trong một mệnh đề, trong khi chủ ngữ của mệnh đề khác có thể bị lược bỏ.

(45) Con người này tuy còn có nửa (45) 这个人虽然只剩下半截,但 người, nhưng vẫn tiềm ẩn một sức mạnh kinh người

仍然具有震慑人心的力量。

(46) Tuy nước trong đầm ấm thật đấy, nhưng xuống thì dễ, lên thì khó

(46) 尽管池塘里的水是热的,但

下去容易上来难。

Trong câu (45), cả bản tiếng Việt và bản tiếng Hán đều thể hiện hiện tượng lược bỏ chủ ngữ ở vế chính, mặc dù vế nhượng bộ vẫn có chủ ngữ Sự liên kết chặt chẽ giữa nội dung hai vế giúp độc giả nhận biết chủ ngữ của vế chính thông qua vế nhượng bộ Ví dụ (46) cho thấy chủ ngữ của vế nhượng bộ là "池塘里的水 (nước trong đầm)", nhưng qua phân tích, chúng ta có thể suy luận chủ ngữ hành động của vế chính là con người, cụ thể là "我们 (chúng tôi)" Khi dịch song ngữ, việc bổ sung hay không bổ sung chủ ngữ trong trường hợp này đều phù hợp với bản nguồn mà không làm thay đổi ý nghĩa của tác phẩm.

Trong phạm vi khảo sát của đề tài là các câu nhượng bộ trong tác phẩm

Trong tiếng Việt và tiếng Hán, câu nhượng bộ thường có hiện tượng chủ ngữ đứng sau kết từ, mặc dù cũng có trường hợp chủ ngữ đứng trước kết từ Ví dụ minh họa cho sự đa dạng này trong cấu trúc câu nhượng bộ.

(47) Từ Tiên Nhi tuy mù nhưng rất chuẩn xác quì trước mặt nhân vật bự

(47) 徐仙儿虽然瞎,但他却准确

无误地对着大人物下了跪

(48) Kim Đồng mặc dù đã áp sát tường đến mức tối đa, nhưng vẫn bị quát mắng

(48) 尽管上官金童在墙角紧缩着

身体,照样也免不了遭到她的训

(49) Tư Mã Khố dù trăm xấu nghìn xa, nhưng vẫn dáng mặt là một thằng đàn ông

(49) 司马库千坏万坏,但到底是

个好样的男人。

(50) Dù chúng tôi đã biết là ai viết, nhưng chỉ cần thành khẩn là chúng tôi có thể khoan hồng

(50) 尽管我们知道这些事是谁干

的,但只要坦白,还是可以从宽 处理的。

(51) Dù tôi nước mắt đầm đìa, dù tôi tự vả sưng cả hai má, Uông

Ngân Chi cười khẩy, không hề có ý tha thứ cho tôi

(51) 尽管我涕泪交流,尽管我打

肿了自己的脸,汪银枝依然冷冷 地笑着,毫无宽恕我的表示。

(52) Mặc dù cô vẫn nước mắt lưng tròng, mặc dù giọng cô vẫn thê

(52) 尽管她眼泪汪汪,说话的声

音还是那样凄婉悲凉,但学生们 thảm, nhưng các học sinh không ai khóc nữa

的哭声却消失了。

Trong các câu nêu trên, chúng ta thấy rằng chủ ngữ có thể đứng trước hoặc sau kết từ, đặc điểm này tồn tại cả trong tiếng Việt và tiếng Hán.

Trong tiếng Việt và tiếng Hán, trật tự câu thường có sự khác biệt, với vế chính thường đứng sau vế phụ, mặc dù trong một số trường hợp, vế chính cũng có thể đứng trước vế phụ.

Binh đoàn Khỉ Vàng tuy không thừa nhận sự hiện diện của nữ tặc siêu hạng Sa Tảo Hoa, nhưng lại âm thầm cử nhiều mật thám theo dõi xung quanh nhà Kim Đồng.

(53) 尽管―金猴造反兵团‖否认超

级女贼沙枣花的存在,但依然把 许多暗探、暗哨布置在上官家周

(54) Cận nhắc kỹ, Thọ Hỉ quyết định đi lên phía bắc rồi quặt sang đông đến, nhà ông ba Phàn, mặc dầu quang cảnh ở chỗ tháp canh hấp dẫn

(54) 经过反复斟酌,上官寿喜决

As he journeyed northward to invite Master Fan San, he couldn't help but be drawn to the allure of both the Sima Ku atop the watchtower and the lively scene below.

Thông qua khảo sát các câu nhượng bộ trong tác phẩm "Báu vật của đời" và "丰乳肥臀", chúng tôi rút ra kết luận rằng phần lớn các câu đều tuân theo trật tự thuận, với vế phụ đứng trước vế chính.

Trong câu nhượng bộ tiếng Việt và tiếng Hán, đặc trưng ngữ nghĩa thường mang tính giả thuyết, cho phép suy đoán rõ ràng về đặc trưng nghịch lý Cặp kết từ nhượng bộ tạo ra hai phần câu đẳng lập, có tác dụng cường điệu và chuyển ý.

(55) Dù thiên binh thiên tướng xuống trần thì cũng chẳng làm gì mẹ góa con côi nhà mình

(55) 就算天老爷带着天兵天将下

了凡,也不会把咱们这些孤儿寡 妇怎么样。

Câu (55) giả thuyết một điều kiện "thiên binh thiên tướng xuống trần" để nhấn mạnh hệ quả "chẳng làm gì mẹ góa con côi nhà mình." Ý nghĩa của câu này mang tính cường điệu, cho thấy dù có thiên binh tướng xuống trần hay không, mẹ góa con côi vẫn không bị ảnh hưởng Tương tự, trong tiếng Hán, giả thuyết "天老爷带着天兵天将下了凡" cũng nhằm cường điệu hệ quả "不会把咱们这些孤儿寡妇怎么样."

Tiếng Việt và tiếng Hán có sự tương đồng hoàn toàn trong cách sử dụng từ ngữ và cấu trúc câu trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong sáng tác Mối quan hệ lôgic giữa hai phân câu, được kết nối bởi các cặp kết từ, rất quan trọng; nếu kết từ không chính xác hoặc không được sử dụng đúng cách, sẽ dẫn đến câu không hoàn chỉnh Do đó, quy tắc sử dụng trong tiếng Việt và tiếng Hán là tương đương, tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong ngôn ngữ.

(56) Dù hắn có thằng cháu ngoại là triệu phú, nhưng ta cảnh nghèo chí không nghèo

(56) 尽管他有富翁外甥市长外

甥,可咱们人穷志不穷。

Nếu chúng ta giản lược một kết từ thì câu này sẽ trở thành:

(*)Dù hắn có thằng cháu ngoại là triệu phú, ta cảnh nghèo chí không nghèo

(*)尽管他有富翁外甥市长外甥, 咱们人穷志不穷。

Câu ghép thể hiện sự nhượng bộ trong tiếng Việt và tiếng Hán thường không đạt yêu cầu về logic, với nghĩa câu không hoàn chỉnh và mục đích nhượng bộ không rõ ràng Do đó, việc sử dụng cặp liên từ nhượng bộ phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể, không thể giản lược hay bỏ qua.

Tiểu kết

Chuyển dịch là quá trình giữ nguyên ý nghĩa gốc trong khi thay đổi hình thức biểu hiện, phương thức tư duy và cấu trúc câu tùy theo tình huống Việc chuyển dịch "thuận" giúp văn bản dịch phù hợp hơn với văn bản nguồn Nhiều nhà nghiên cứu trước đây định nghĩa chuyển dịch dựa trên quan điểm ngữ pháp, nhưng cũng có ý kiến cho rằng chuyển dịch bao gồm cả khía cạnh ngữ nghĩa và ngữ dụng Mỗi phương pháp chuyển dịch cần sự kết hợp giữa ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng để đạt được chất lượng dịch tốt nhất.

Luận văn của chúng tôi lấy ngữ liệu là câu nhượng bộ trong tác phẩm

Bản dịch tiếng Việt và bản gốc tiếng Trung của "Báu vật của đời" được khảo sát và phân tích, nhưng ngữ liệu còn hạn chế và phạm vi nghiên cứu chưa phong phú Điều này dẫn đến việc các phát hiện mới trong nghiên cứu có thể không phản ánh toàn bộ tình hình nghiên cứu về câu nhượng bộ Hơn nữa, luận văn chủ yếu tập trung vào thủ pháp chuyển dịch tương đương, mà không xem xét tất cả các thủ pháp khác, do đó vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình nghiên cứu.

Trong tương lai, chúng tôi mong muốn các nhà nghiên cứu tiếp tục khám phá câu nhượng bộ trong tiếng Việt, với nguồn dữ liệu phong phú và đa dạng hơn.

Ngày đăng: 02/07/2022, 16:19

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Căn cứ bảng trên ta thấy cấu trúc nhượng bộ có điều kiện giả định và điều kiện hiện thực đều thuộc cấu trúc nhượng bộ có điều kiện nghịch hệ quả - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn
n cứ bảng trên ta thấy cấu trúc nhượng bộ có điều kiện giả định và điều kiện hiện thực đều thuộc cấu trúc nhượng bộ có điều kiện nghịch hệ quả (Trang 17)
Trong bảng trên đây, X và Y có thể là cùng một đối tượng hoặc cũng có thể là hai đối tượng - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn
rong bảng trên đây, X và Y có thể là cùng một đối tượng hoặc cũng có thể là hai đối tượng (Trang 21)
Sau đây sẽ là bảng thống kê cụ thể tần suất và tì lệ xuất hiện của các mẫu câu nhượng bộ trong tác phẩm trong tác phẩm ―Báu vật của đời‖: - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn
au đây sẽ là bảng thống kê cụ thể tần suất và tì lệ xuất hiện của các mẫu câu nhượng bộ trong tác phẩm trong tác phẩm ―Báu vật của đời‖: (Trang 33)
Bảng 3.1. Thống kê câu nhượng bộ trong 《丰乳肥臀》 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn
Bảng 3.1. Thống kê câu nhượng bộ trong 《丰乳肥臀》 (Trang 49)
Bảng 3.2. Phân loại liên từ của câu nhượng bộ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn
Bảng 3.2. Phân loại liên từ của câu nhượng bộ (Trang 50)
Bảng 3.3. Khác biệt của từ ―不管‖ và ―尽管‖ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn
Bảng 3.3. Khác biệt của từ ―不管‖ và ―尽管‖ (Trang 68)
Bảng 3.2. Khác biệt của từ ―但是‖ và ―却‖ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu cách chuyển dịch câu nhượng bộ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Trên tư liệu tác phẩm Báu vật của đờicủa Mạc Ngôn
Bảng 3.2. Khác biệt của từ ―但是‖ và ―却‖ (Trang 70)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w