Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, ban hành theo Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg, là kết quả của nhiều nghiên cứu từ Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Các đề tài nghiên cứu như “Đổi mới quản lý KH&CN địa phương” của Đăng Trọng Khánh, “Đổi mới phương thức lựa chọn nhiệm vụ nghiên cứu khoa học” của Lê Thành Ý, và “Nghiên cứu các chỉ số lựa chọn và đánh giá đề tài nghiên cứu khoa học” của Hoàng Ngọc Doanh đã làm rõ lý luận về quản lý KH&CN và nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới theo hướng thị trường Tuy nhiên, việc cụ thể hóa và thực hiện các chính sách tại địa phương vẫn chưa được đề cập rõ ràng, do mỗi địa phương có những điều kiện và đặc điểm riêng biệt.
Những năm gần đây, có một số đề tài nghiên cứu liên quan thực trạng nêu trên như:
Đề tài “Giảm thiểu rủi ro trong việc áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học” của tác giả Phạm Văn Bình, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Hải Dương, tập trung vào việc tìm kiếm các phương pháp hiệu quả nhằm giảm thiểu rủi ro khi áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá, phân tích và ứng dụng các kết quả nghiên cứu một cách cẩn thận để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong các lĩnh vực liên quan Việc này không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình ứng dụng mà còn nâng cao giá trị thực tiễn của các nghiên cứu khoa học trong đời sống.
- Đề tài: “Chính sách triển khai các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn tại trường Đại học Nông Lâm - Thành phố Hồ Chí Minh” Tác giả
- Đề tài: “Chuyển hướng kế hoạch khoa học và công nghệ theo định hướng nhu cầu” Tác giả Phạm Hoàng Minh - Sở Khoa học và Công nghệ Bạc Liêu
Đề tài "Xây dựng tiêu chí lựa chọn đề tài, dự án theo định hướng nhu cầu nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học tỉnh An Giang" của tác giả Phan Anh Thi, Sở Khoa học và Công nghệ An Giang, tập trung vào việc xác định các tiêu chí quan trọng để lựa chọn các đề tài và dự án nghiên cứu phù hợp với nhu cầu thực tiễn Mục tiêu là nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học tại tỉnh An Giang, đảm bảo các dự án được triển khai có tính ứng dụng cao và đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Mặc dù các nghiên cứu hiện tại đã đề cập đến những bất cập trong quy trình xét chọn đề tài NCKH, nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích và đưa ra giải pháp đổi mới quy trình này theo nhu cầu thực tiễn Điều này cho thấy cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề này để giải quyết những vướng mắc trong khâu xét chọn, từ đó nâng cao khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất thực tiễn.
Hằng năm, ngân sách Nhà nước dành một khoản lớn cho hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH), tuy nhiên, nhiều đề tài và dự án không có khả năng ứng dụng hoặc chỉ có khả năng ứng dụng rất thấp Thực trạng này không chỉ tồn tại ở tỉnh Bạc Liêu mà còn phổ biến ở nhiều tỉnh khác trong cả nước, cho thấy một điểm yếu trong hoạt động nghiên cứu và triển khai Dù đã có một số nghiên cứu chỉ ra nguyên nhân, nhưng chúng vẫn dừng lại ở góc độ cá nhân Cần thiết phải nghiên cứu theo hướng tiếp cận quản lý khoa học và công nghệ (KH&CN) hiện tại để đề xuất các giải pháp chiến lược, nhằm đổi mới hoạt động KH&CN, đặc biệt là quy trình xét chọn đề tài NCKH dựa trên nhu cầu thực tế.
Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chung Đổi mới quy trình xét chọn đề tài nghiên cứu khoa học định hướng nhu cầu
3.2 Mục tiêu cụ thể Để thực hiện mục tiêu chung như đã nêu, luận văn đặt ra các mục tiêu cụ thể như sau:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận về quy trình xét chọn đề tài là rất quan trọng để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các nghiên cứu Việc xét chọn đề tài cần phải định hướng theo nhu cầu thực tiễn, nhằm đáp ứng các vấn đề xã hội và khoa học hiện nay Mối quan hệ giữa việc xét chọn đề tài và áp dụng kết quả vào thực tiễn đóng vai trò then chốt, giúp tối ưu hóa giá trị của nghiên cứu và tạo ra những giải pháp thiết thực cho cộng đồng.
Trong giai đoạn 2006 - 2010, tỉnh Bạc Liêu đã thực hiện việc áp dụng kết quả nghiên cứu từ các đề tài và dự án, tuy nhiên, cần đánh giá thực trạng này để hiểu rõ hơn về mối quan hệ với quy trình xét chọn hiện hành Việc phân tích các kết quả nghiên cứu sẽ giúp xác định hiệu quả và tính khả thi của các dự án, từ đó cải thiện quy trình xét chọn và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
- Xác định nguyên nhân các đề tài/dự án không ứng dụng, nhân rộng được kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất
- Đề xuất giải pháp chuyển hướng xét chọn đề tài, dự án khoa học theo định hướng nhu cầu thực tiễn.
Mẫu khảo sát
- Những đề tài/dự án sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010
- Một số đơn vị có đề tài nghiên cứu đã nghiệm thu
- Một số đơn vị ứng dụng các kết quả NCKH vào thực tiễn.
Câu hỏi nghiên cứu
Đổi mới quy trình xét chọn đề tài nghiên cứu khoa học theo định hướng nhu cầu có thể nâng cao khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
- Tai sao phải đổi mới quy trình xét chọn đề tài nghiên cứu khoa học theo định hướng nhu cầu?
- Đổi mới quy trình xét chọn đề tài nghiên cứu khoa học theo định hướng nhu cầu như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu
Đổi mới quy trình xét chọn đề tài nghiên cứu khoa học theo định hướng nhu cầu sẽ tăng cường khả
Đổi mới quy trình xét chọn đề tài nghiên cứu khoa học theo hướng nhu cầu sẽ giúp cải thiện tình trạng áp dụng và nhân rộng thấp Việc này không chỉ nâng cao chất lượng lựa chọn đề tài mà còn đảm bảo sự thực hiện hiệu quả hơn trong nghiên cứu.
Đổi mới quy trình đề xuất các đề tài và dự án nghiên cứu khoa học theo hướng khuyến khích người sử dụng tham gia và đề xuất ý tưởng Việc này không chỉ nâng cao tính thực tiễn của nghiên cứu mà còn tạo cơ hội cho người dùng góp phần vào quá trình phát triển khoa học.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu bao gồm việc phân tích các tài liệu và số liệu liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) tại tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn 2006 - 2010, đồng thời xem xét các văn bản pháp luật và chính sách khoa học và công nghệ của nhà nước.
Phương pháp điều tra bảng hỏi và phỏng vấn sâu được thực hiện thông qua việc thiết kế bảng câu hỏi riêng cho từng nhóm đối tượng như chủ nhiệm đề tài/dự án, đơn vị áp dụng kết quả, và thành viên hội đồng xét chọn/nghiệm thu Đồng thời, phỏng vấn sâu các cán bộ quản lý đại diện cho các lĩnh vực công tác và chuyên môn khác nhau, bao gồm chủ nhiệm đề tài, cán bộ quản lý hoạt động KH&CN, cùng các chuyên gia tham gia thẩm định và xét chọn các đề tài, dự án khoa học tại tỉnh trong giai đoạn 2006 - 2010.
- Phương pháp quan sát: Phương pháp quan sát được sử dụng để kiểm chứng thêm thông tin trong mẫu khảo sát.
Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung Luận văn được chia thành 3 chương:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÉT CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG NHU CẦU
Một số khái niệm có liên quan
Đề tài nghiên cứu khoa học là hình thức tổ chức mà trong đó một nhóm người cùng nhau thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu chính của đề tài là trả lời các câu hỏi về ý nghĩa học thuật, tuy nhiên, chưa chú trọng nhiều đến việc áp dụng vào thực tế.
Dự án là một loại đề tài nhằm mục đích ứng dụng cụ thể trong lĩnh vực kinh tế xã hội Khác với các đề tài nghiên cứu thông thường, dự án cần đáp ứng một nhu cầu cụ thể và thường phải tuân thủ các ràng buộc về thời gian cũng như nguồn nhân lực.
Theo Wikipedia, "dự án" được định nghĩa là những điều mà con người có ý định thực hiện trước đó, hay là những gì xảy ra trước khi một hành động khác được thực hiện Thuật ngữ này bao gồm hai yếu tố quan trọng: tính ý tưởng, ý đồ và tính hành động, nỗ lực biến những ý tưởng và mong muốn thành hiện thực.
Dự án là một chuỗi các hành động được thực hiện để đạt được những mục tiêu cụ thể đã được xác định trước, trong một khoảng thời gian nhất định và với nguồn ngân sách xác định.
Một dự án phải có:
- Các bên liên quan được xác định rõ ràng, bao gồm các nhóm mục tiêu cơ bản và những lợi ích tài chính;
- Có sự điều phối, quản lý và sắp xếp tài chính rõ ràng;
- Một hệ thống đánh giá và kiểm tra (để hỗ trợ việc quản lý);
1 http://en.wikipedia.org/wiki/Project
- Một cấp độ phân tích kinh tế và tài chính thích hợp, để từ đó xác định được lợi nhuận thu được sẽ vượt quá chi phí ban đầu
Trong lĩnh vực NCKH, cần phân biệt rõ ràng giữa hai khái niệm đề tài và dự án Dự án có thể được coi là một loại đề tài “hành động”, nhằm tạo ra sản phẩm ứng dụng cụ thể trong đời sống kinh tế - xã hội Đồng thời, dự án cũng là giai đoạn cần thiết sau khi thực hiện đề tài, giúp đưa kết quả nghiên cứu học thuật vào thực tiễn Khi nói đến đề tài khoa học, chúng ta cần chú trọng đến cấu trúc logic của nó.
- Phương pháp chứng minh luận điểm
Tóm lại, Luận văn nhận định rằng đề tài tập trung vào việc giải đáp các câu hỏi liên quan đến ý nghĩa học thuật, trong khi dự án lại nhấn mạnh vào việc hiện thực hóa những kiến thức đó trong hoạt động thực tiễn.
1.1.2 Đề tài, dự án KH&CN
Trong nghiên cứu khoa học (NCKH) và việc áp dụng các kết quả nghiên cứu, cần nhận thức rằng đề tài và dự án khoa học có mục tiêu nghiên cứu, triển khai và ứng dụng Theo “Quy chế quản lý các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp tỉnh” được ban hành theo Quyết định số 94/2005/QĐ-UBND ngày 10 tháng 3 năm 2005 của UBND tỉnh Bạc Liêu, đề tài KH&CN cấp tỉnh được định nghĩa là một hình thức tổ chức nghiên cứu nhằm giải quyết một hoặc nhiều vấn đề trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Khoa học tự nhiên, KH&CN, Bảo vệ môi trường, Y tế, điều tra cơ bản… trên địa bàn tỉnh
Dự án KH&CN cấp tỉnh là hình thức tổ chức áp dụng kết quả nghiên cứu đã được chứng minh để giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội cấp bách Mục tiêu của dự án là nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội trong hoạt động của doanh nghiệp, ngành kinh tế kỹ thuật, tổ chức hoặc địa phương trong tỉnh.
Một đề tài/dự án khoa học nói chung phải có những đặc điểm đặc trưng sau:
Đóng góp vào lý thuyết khoa học có ý nghĩa quan trọng, giúp bổ sung và nâng cao nhận thức về các vấn đề trong lĩnh vực này, đồng thời phát hiện ra những quy luật đang tồn tại.
- Có tính phù hợp Đối với một đề tài/dự án KH&CN cấp tỉnh, yêu cầu được đặt ra:
Cần giải thích các vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc định hướng phát triển chung của tỉnh, nhằm đáp ứng hiệu quả và thiết thực các nhu cầu, bức xúc về khoa học và công nghệ (KH&CN) Điều này đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KH - XH) và bảo vệ an ninh quốc phòng tại địa phương.
Đề tài hoặc dự án cần có tính mới, sáng tạo và tiên tiến so với hiện trạng của tỉnh, đồng thời phải đảm bảo tính khả thi Việc xác định mục tiêu và đối tượng của dự án cần dựa trên đánh giá khách quan thực trạng phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) trong tỉnh, cũng như thành tựu KH&CN trong nước và quốc tế Ngoài ra, cần xem xét nguồn lực KH&CN của tỉnh và khả năng hợp tác với các cơ quan nghiên cứu, đào tạo hoặc các tỉnh, thành phố khác.
Các kết quả của đề tài/dự án cần được ứng dụng trong sản xuất, đời sống và an ninh quốc phòng, đồng thời phải có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển khoa học và công nghệ, cũng như kinh tế - xã hội của tỉnh.
Theo UNESCO, hoạt động KH&CN được định nghĩa là các hoạt động hệ thống liên quan đến sản xuất, nâng cao, truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học và kỹ thuật trong mọi lĩnh vực của khoa học và công nghệ Định nghĩa này có hai khía cạnh chính: đầu tiên, nó nhấn mạnh bản chất của hoạt động KH&CN, tập trung vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng kiến thức khoa học và kỹ thuật Thứ hai, nó đề cập đến các lĩnh vực mà hoạt động này bao quát, bao gồm khoa học tự nhiên, công nghệ, y học, nông nghiệp, cũng như khoa học xã hội và nhân văn.
Hoạt động KH&CN theo nghĩa này bao gồm:
- Hoạt động NCKH, bao gồm nghiên cứu (nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng) và triển khai, viết tắt tiếng Anh là R&D
- Hoạt động chuyển giao công nghệ
- Hoạt động phát triển công nghệ
- Hoạt động dịch vụ KH&CN
Theo phân loại của UNESCO, một số hoạt động không được xem là hoạt động khoa học và công nghệ, bao gồm giáo dục phổ thông, đào tạo không chính quy trong ngành công nghiệp như học việc hay vừa học vừa làm Ngoài ra, các hoạt động thường nhật của nhà xuất bản, cơ quan phát thanh, truyền hình, dịch vụ y tế, cũng như sản xuất công nghiệp và phân phối hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả sản xuất thử nghiệm các vật mẫu sau khi thử nghiệm thành công) cũng không được tính UNESCO cho rằng việc sản xuất các vật mẫu thuộc về chức năng sản xuất.
Trên đây là quan điểm của UNESCO trình bày vào giữa những năm
Vào năm 1970, khái niệm “hoạt động KH&CN” tại Châu Âu đã được hình thành Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, việc sản xuất các prototype trong các xưởng pilot vẫn được coi là giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu và triển khai.
Việc ứng dụng kết quả NCKH
Trong hoạt động khoa học và công nghệ, "điểm giao thoa" giữa khoa học và thực tiễn nằm ở việc triển khai và áp dụng kết quả của các đề tài, dự án khoa học vào thực tế Quản lý khoa học và công nghệ đóng vai trò là cầu nối giữa các nhà nghiên cứu và thực tiễn sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng đời sống.
Trong những năm qua, việc ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã được chú trọng và phát triển mạnh mẽ, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng hàng hóa, dịch vụ Sự chuyển mình này không chỉ tạo ra các ngành nghề mới mà còn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giúp sản xuất ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế Hiện nay, nhiều lĩnh vực tại Việt Nam đang tích cực ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Công nghệ thông tin đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực kinh tế và xã hội, bao gồm ngân hàng, dầu khí, hàng không và bưu chính viễn thông Đến năm 2005, khoảng 50% doanh nghiệp đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và sản xuất kinh doanh, trong khi hơn 30% doanh nghiệp đã kết nối Internet.
Công nghệ sinh học đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong việc sử dụng thiết bị và công nghệ nhập khẩu kết hợp với nguyên liệu nội địa để sản xuất vắc-xin và chế phẩm sinh học đạt tiêu chuẩn khu vực Trong lĩnh vực trồng trọt, công nghệ nuôi cấy mô đã giúp nhân nhanh các giống cây trồng có giá trị kinh tế và năng suất cao, trong khi công nghệ vi sinh đã tạo ra nhiều sản phẩm để sản xuất nấm ăn từ phụ phẩm nông nghiệp Ngoài ra, trong y tế, công nghệ sinh học cũng đã được ứng dụng để sản xuất kháng sinh, góp phần phòng ngừa các bệnh hiểm nghèo.
Tự động hoá đang được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp như khai thác dầu khí, viễn thông, điện lực, vật liệu xây dựng và hàng không Việc này không chỉ giúp nâng cao năng suất lao động mà còn cải thiện hiệu quả kinh doanh.
Nhiều loại vật liệu tiên tiến hiện nay đã được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như xây dựng, cơ khí, chế tạo, điện tử ứng dụng, tàu thủy, nông nghiệp và giao thông vận tải.
Công nghệ đã trở thành yếu tố then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ của đất nước, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ và tốc độ phát triển Sự ảnh hưởng của công nghệ không chỉ làm thay đổi chất lượng phát triển mà còn hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững cho Việt Nam.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ tại Việt Nam chưa tạo ra nhiều công nghệ đột phá, với nhiều kết quả nghiên cứu không thể áp dụng vào sản xuất do công nghệ chưa ổn định Nhu cầu ứng dụng công nghệ còn hạn chế, phản ánh quy mô nhỏ của nền kinh tế vẫn đang trong tình trạng lạc hậu Sự phát triển của các ngành công nghiệp công nghệ cao chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghệ thông tin, trong khi phần lớn doanh nghiệp công nghệ cao chỉ ở mức lắp ráp Doanh nghiệp ít được khuyến khích và quan tâm đến việc nhập khẩu bí quyết công nghệ cao, dẫn đến khả năng cạnh tranh dài hạn bị hạn chế Quan hệ với các công ty đa quốc gia qua đầu tư nước ngoài chủ yếu chỉ dừng lại ở việc đưa vốn vào đầu tư.
Chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, để sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam phụ thuộc vào kế hoạch của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài Vai trò của các công ty này trong việc đưa công nghệ cao vào Việt Nam vẫn chưa được thể hiện rõ ràng.
Nhu cầu về sản phẩm NCKH
Sản phẩm từ hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và nâng cao trình độ con người, tạo nền tảng cho tiến bộ xã hội Sự gia tăng tri thức của con người dẫn đến việc phát triển các sản phẩm khoa học tiên tiến hơn Tuy nhiên, nhiều quốc gia đang phát triển vẫn chưa chú trọng đến việc tích hợp phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) vào kế hoạch phát triển quốc gia, cho thấy sự thiếu quan tâm đối với vấn đề này.
Công nghệ đang trở thành yếu tố then chốt cho sự phát triển, đặc biệt tại các nước đang phát triển Nhiều quốc gia đang điều chỉnh chiến lược phát triển quốc gia và ngành nghề, tập trung vào việc áp dụng công nghệ Tuy nhiên, những nỗ lực này thường không đạt được kết quả như mong đợi do một số nguyên nhân nhất định.
Nhiều quốc gia đang phát triển thiếu cơ chế tích hợp công nghệ vào kế hoạch phát triển quốc gia, dẫn đến việc thiếu sự cam kết chính trị rõ ràng trong việc coi công nghệ là yếu tố chiến lược quan trọng.
Các kế hoạch cấp ngành thường thiếu nhận thức về các công nghệ cần thiết và ảnh hưởng của chúng đến ngành Điều này thể hiện qua việc các quá trình đánh giá và thẩm định dự án không chú trọng đúng mức đến vấn đề công nghệ, trong khi các ưu tiên khác thường được đặt lên hàng đầu.
Công nghệ chuyển giao vào các ngành khác nhau thường chỉ dừng lại ở mức độ tỉnh tại, do các cơ sở nhận công nghệ thiếu cơ chế tổ chức phù hợp, như các cơ quan nghiên cứu và triển khai Điều này dẫn đến việc không tận dụng được tối đa các thành phần động của công nghệ nước ngoài, từ đó không khai thác được hết lợi ích từ những tác dụng khác của chúng.
Khi thiếu kế hoạch phát triển công nghệ và chính sách tự lực, quyết định công nghệ thường bị ảnh hưởng bởi giá cả và sở thích cá nhân của các tổ chức, cá nhân Điều này dẫn đến việc phải đối mặt với áp lực từ các cơ quan bên ngoài trong các dự án được hỗ trợ từ nước ngoài.
Các vấn đề trong việc xác định nhu cầu công nghệ xuất phát từ sự thiếu thống nhất giữa các nhà làm chính sách và kế hoạch Sự khác biệt trong quan điểm giữa các nhà lập kế hoạch truyền thống và các chuyên gia khác là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này, đặc biệt khi liên quan đến công nghệ.
Nhu cầu phát triển công nghệ ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng, trở thành yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Phát triển công nghệ liên quan đến nhiều ngành và là trách nhiệm chung của toàn xã hội Tuy nhiên, những hạn chế hiện tại đang cản trở việc phát huy vai trò của công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội Mặc dù công nghệ được công nhận có tác động tích cực và mang lại sự phát triển đột phá, nhưng những lợi ích này vẫn chưa được thể hiện rõ ràng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Lý thuyết về thị trường
Hiện nay, khái niệm thị trường trong các tài liệu nghiên cứu được diễn giải theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào cách tiếp cận, quan điểm và mục đích nghiên cứu Tuy nhiên, khái niệm này cơ bản được phân chia thành ba nhóm chính.
Thị trường được xem như một phương tiện phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu về môi trường và phát triển bền vững Mục tiêu chính là đảm bảo sự phân bố hiệu quả và công bằng các nguồn tài nguyên, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Thị trường được định nghĩa là nơi diễn ra giao dịch giữa người mua và người bán, một khái niệm phổ biến cả trong nước và quốc tế "Nơi" không chỉ giới hạn ở các địa điểm vật lý, mà còn bao gồm cả không gian trực tuyến như Internet và các sàn giao dịch trực tuyến, nơi mà giao dịch có thể diễn ra mà không cần gặp mặt trực tiếp Khái niệm này thường được áp dụng trong các nghiên cứu và phân tích về sự phát triển của hệ thống, mạng lưới dịch vụ và thương mại ở từng quốc gia và vùng lãnh thổ cụ thể.
Nhóm thứ ba trong nghiên cứu kinh tế nhấn mạnh vai trò của thể chế trong thị trường Các nhà kinh tế tân cổ điển coi thị trường như một thể chế phân bổ nguồn lực, điều chỉnh sản xuất và phân phối sản phẩm, dịch vụ thông qua hệ thống giá cạnh tranh Theo tiếp cận kinh tế học chi phí giao dịch, thị trường được xem là một thể chế kinh tế nhằm thực hiện các giao dịch kinh tế hiệu quả.
Thị trường hàng hóa có nhiều cách diễn giải khác nhau, nhưng những cách này không mâu thuẫn mà phản ánh sự đa dạng của khái niệm thị trường trong từng nghiên cứu cụ thể Từ góc nhìn tổng thể, bên cạnh yếu tố hàng hóa, thị trường hàng hóa bao gồm bốn yếu tố cơ bản: (1) Tập hợp người bán (cung); (2) Tập hợp người mua (cầu); (3) Dịch vụ cho quá trình mua bán; và (4) Tập hợp các quy định, thỏa thuận nhằm điều tiết hoạt động mua bán, tức là các thể chế.
1.4.2 Quy luật vận hành của thị trường
Thị trường hoạt động dựa trên hai quy luật cơ bản: quy luật giá trị và quy luật cung cầu Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết Sự vận động của quy luật giá trị thể hiện qua biến động giá cả hàng hóa Giá trị là nền tảng của giá cả, do đó, giá cả trước tiên phụ thuộc vào giá trị; hàng hóa có giá trị cao sẽ có giá cả cao và ngược lại.
Thị trường vận hành dựa trên sự tương tác giữa hai lực lượng chính: người mua và người bán Quyền lợi của họ được thể hiện qua mối quan hệ giữa cung và cầu, từ đó xác lập giá cân bằng hay giá thị trường "Cầu" là lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người mua sẵn sàng mua ở mức giá nhất định, trong khi "cung" là lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng bán ở mức giá cụ thể.
1.4.3 Những dạng khiếm khuyết của thị trường
Thị trường được chia thành nhiều loại với cấu trúc khác nhau, trong đó thị trường cạnh tranh hoàn hảo (perfect competition market) có ba yêu cầu cơ bản: (1) Số lượng người mua và người bán lớn để không ai có thể ảnh hưởng đến giá; (2) Hàng hóa và dịch vụ tiêu chuẩn hóa, không có sự khác biệt giữa các sản phẩm và người mua có thông tin đầy đủ về giá; và (3) Các nhà cung cấp có khả năng dễ dàng tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường Nếu một trong ba yêu cầu này không được đáp ứng, thị trường sẽ trở thành thị trường không hoàn hảo Thị trường cạnh tranh hoàn hảo đảm bảo phân bố tài nguyên hiệu quả theo mong muốn của xã hội.
Trong thực tế, hầu hết các thị trường đều vi phạm một hoặc nhiều yêu cầu của thị trường cạnh tranh hoàn hảo Mức độ vi phạm này dẫn đến sự khiếm khuyết của thị trường ở các cấp độ khác nhau Trong các tài liệu kinh tế và phát triển, những khiếm khuyết này thường được gọi là thất bại thị trường.
(market failures) - là những trường hợp mà thị trường không thể phân bố hàng hóa và dịch vụ hiệu quả ở mức xã hội mong muốn
Thất bại thị trường thường xảy ra trong các trường hợp sau: (1) Độc quyền thị trường, khi một hoặc một số ít nhà cung cấp chi phối; (2) Tác động ngoại lai, khi hành động của một đối tượng ảnh hưởng đến phúc lợi của đối tượng khác mà không có bồi thường; (3) Hàng hóa công cộng, là hàng hóa mà một cá nhân sử dụng không ngăn cản người khác sử dụng cùng lúc; và (4) Bất bình đẳng thông tin, khi một bên tham gia giao dịch có thông tin đầy đủ hơn bên kia.
1.4.4 Đặc thù của thị trường công nghệ
Công nghệ là một loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường, với những đặc điểm khác biệt so với các hàng hóa tiêu dùng thông thường.
Sự khác biệt giữa hàng hóa phổ dụng và hàng hóa công nghệ trên thị trường là rất rõ rệt Hàng hóa phổ dụng thường có số lượng người mua và người bán lớn, đáp ứng tiêu chí của thị trường cạnh tranh hoàn hảo, do đó việc xác định giá cả trở nên dễ dàng Ngược lại, hàng hóa công nghệ có số lượng người mua và bán hạn chế, và một công nghệ mới chưa chắc đã thu hút được người tiêu dùng.
Hàng hóa công nghệ bao gồm các tài sản vô hình khó định giá và thị trường cho loại hàng hóa này chưa phát triển, dẫn đến việc dễ dàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ Với tính chất của hàng hóa công cộng, hàng hóa công nghệ có khả năng mang tính chất công cộng, điều này không khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào sản xuất.
Hàng hóa phổ dụng thường xuyên được quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, giúp người tiêu dùng dễ dàng tìm kiếm người bán, địa điểm và cách thức mua sắm Ngược lại, hàng hóa công nghệ ít được quảng cáo, dẫn đến khó khăn trong việc tìm kiếm và đặt mua sản phẩm.
Mua bán hàng hóa phổ dụng diễn ra dễ dàng, trong khi việc chuyển giao công nghệ lại phức tạp hơn nhiều Hợp đồng chuyển giao công nghệ cần phải được xây dựng chặt chẽ do tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường.
Chính sách “khoa học và công nghệ đẩy” và “thị trường kéo”
1.5.1 Khái niệm chính sách “khoa học và công nghệ đẩy”
Thuật ngữ KH&CN đẩy (Science and Technology Push) đề cập đến việc áp dụng kết quả nghiên cứu và công nghệ vào sản xuất và tiêu thụ mà không xem xét đến mục đích tồn tại của doanh nghiệp hay nhu cầu của người tiêu dùng Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, cần khảo sát các triết lý quản lý KH&CN, trong đó Vũ Cao Đàm chỉ ra rằng lịch sử khoa học thế giới có ba triết lý tồn tại của nền khoa học.
Triết lý 1 cho rằng hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) phát sinh chủ yếu từ nhu cầu tự thân của cá nhân hoặc các nhóm tư nhân, trong khi nhà nước không có sự quan tâm nào đến các hoạt động này.
- Triết lý 2: Hoạt động KH&CN bắt đầu được các nhà nước quan tâm
Nhà nước có hai hình thức quan tâm đến hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN): thứ nhất, công bố các chính sách vĩ mô nhằm tạo thuận lợi và định hướng ưu tiên cho KH&CN; thứ hai, tài trợ không vị lợi cho các tổ chức trong xã hội thực hiện hoạt động KH&CN Trong cả hai hình thức này, nhà nước không can thiệp vào các hướng nghiên cứu, trừ khi có nhu cầu đặt hàng nghiên cứu để giải quyết vấn đề cụ thể Mô hình này được gọi là "thiết chế tự trị trong khoa học" (Autonomous institution of Science), phản ánh triết lý tổ chức KH&CN hiện đại trên thế giới.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ huy hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) thông qua việc triển khai các chương trình và đề tài ở nhiều cấp độ khác nhau Đồng thời, Nhà nước cũng thành lập các tổ chức KH&CN thuộc sở hữu Nhà nước nhằm thúc đẩy nghiên cứu và phát triển Để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động KH&CN, Nhà nước tập trung vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhà nước phân bổ ngân sách cho các tổ chức KH&CN nhằm thực hiện các chương trình và đề tài do Nhà nước đề ra Đây là triết lý tổ chức KH&CN chung của các quốc gia xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình biên soạn, Luận văn đã tham khảo bài viết của Vũ Cao Đàm (6.2012) về các giải pháp đột phá trong đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) Mục tiêu là đưa KH&CN trở thành động lực then chốt cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Chính sách KH&CN đẩy là một chiến lược chủ động nhằm tích cực đưa khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống Chính sách này đặc biệt quan trọng trong thời kỳ chiến tranh, khi các chính phủ cần khai thác tối đa các thành tựu KH&CN để phát triển vũ khí phục vụ cho cuộc chiến Triết lý này đã tồn tại từ thời kỳ cách mạng công nghiệp (thế kỷ XVII - XVIII) và trở nên nổi bật nhất trong những năm 1950 - 1960, đặc biệt trong giai đoạn phục hồi kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Vẫn theo khảo sát của Vũ Cao Đàm, thì:
Việt Nam hiện nay vẫn áp dụng “chính sách KH&CN đẩy”, với các chương trình và đề tài do Nhà nước chủ trì và hoạch định Chính sách này đã phổ biến từ nửa đầu thế kỷ XX, cho thấy triết lý về khoa học và công nghệ của Việt Nam đã lạc hậu hơn 50 năm so với thế giới.
Hệ thống khoa học và công nghệ (KH&CN) của Việt Nam được quản lý bởi Nhà nước theo triết lý "KH&CN đẩy" trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường Tuy nhiên, hệ thống này vẫn mang tính "định hướng xã hội chủ nghĩa", với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cho thấy quyền quản lý của Nhà nước vẫn được duy trì một cách nghiêm ngặt.
Sau khi tham khảo từ tài liệu Martin, Michael J.C (1994) và Vũ Cao Đàm (6.2012) về chính sách KH&CN đẩy, Luận văn đưa ra nhận định:
- Việc nghiên cứu và triển khai được thực hiện theo “kế hoạch” mà không căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của thị trường
Nhiều nghiên cứu và phát triển trong trường hợp này không mang lại hiệu quả kinh tế, và một số kết quả không thể áp dụng vào thực tiễn cuộc sống và sản xuất, dẫn đến việc chúng phải được "cất ngăn kéo".
Việc chủ động tích hợp khoa học và công nghệ vào đời sống và sản xuất cần được thực hiện theo một kế hoạch chặt chẽ Nếu không, sản phẩm có thể không được thị trường chấp nhận do không đáp ứng đúng nhu cầu của người tiêu dùng.
Việc tuân thủ chính sách khoa học và công nghệ (KH&CN) một cách chặt chẽ có thể ảnh hưởng đến nguồn kinh phí tái đầu tư cho các hoạt động KH&CN, dẫn đến một vòng lẩn quẩn và kết quả hoạt động KH&CN không đạt hiệu quả cao.
Chính sách KH&CN đẩy chỉ có hiệu quả trong những trường hợp cụ thể, và sự đổi mới có thể bắt đầu từ "lực đẩy" của KH&CN Tuy nhiên, thành công chỉ đạt được khi nó đáp ứng nhu cầu rõ ràng của thị trường hoặc giải quyết những vấn đề kỹ thuật quan trọng.
1.5.2 Khái niệm chính sách “thị trường kéo”
Trong quá trình đổi mới, sức kéo của thị trường đóng vai trò quan trọng, vì đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm sẽ không mang lại hiệu quả nếu không hiểu rõ nhu cầu thị trường Ngay cả những sáng chế có giá trị cũng có thể bị bỏ quên nếu không được định hướng đúng Để khảo sát thuật ngữ chính sách thị trường kéo, luận văn tham khảo nghiên cứu của Vũ Cao Đàm (6.2012) về các thuật ngữ liên quan.
Công nghệ kéo là một chính sách xuất phát từ nhu cầu công nghệ trong sản xuất, nơi công nghệ sẽ thúc đẩy sự phát triển của khoa học Chính sách này được hình thành khi các nhà sản xuất áp dụng triết lý sử dụng công nghệ để tạo ra lợi thế cạnh tranh, và triết lý này đã tồn tại trong suốt nửa cuối thập niên.
- Sản phẩm kéo (Product Pull/Driven), triết lý này là sự kế tiếp triết lý
Vai trò của KH&CN trong phát triển KT - XH
1.6.1 Mối quan hệ giữa Khoa học và Công nghệ
Trong giai đoạn đầu của lịch sử phát triển khoa học và công nghệ, công nghệ chủ yếu dựa vào các kinh nghiệm tích lũy, từ đó thúc đẩy sự phát triển của khoa học để giải thích những kinh nghiệm này Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học đã dẫn đến sự bùng nổ trong nhiều lĩnh vực công nghệ khác nhau, nhờ vào các thành tựu khoa học Xu hướng công nghệ giờ đây đã theo sau khoa học, trái ngược với quá trình trước đó, làm cho mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ trở nên rõ ràng và gắn bó hơn, hình thành hai cách tiếp cận mới.
- Có thể tìm kiếm cơ hội triển khai công nghệ mới từ các phát triển trong NCKH
- Sự triển khai giải pháp công nghệ mới nhằm đáp ứng một nhu cầu KT
XH sẽ thúc đẩy nghiên cứu khoa học (NCKH) bằng cách áp dụng các thành tựu khoa học, giúp rút ngắn thời gian triển khai công nghệ mới Đồng thời, công nghệ cũng cung cấp các công cụ cần thiết để nâng cao năng lực và tối ưu hóa thời gian trong quá trình NCKH.
Quan hệ giữa Khoa học và Công nghệ là mối quan hệ chặt chẽ và không thể tách rời, trong đó hai lĩnh vực này cùng tương tác và hỗ trợ lẫn nhau để thúc đẩy sự phát triển.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý đến những điểm khác biệt giữa Khoa học và Công nghệ Theo Vũ Cao Đàm 3 , có các điểm khác nhau cơ bản sau:
Tri thức về khoa học là sự hiểu biết về các quy luật tự nhiên, trong khi tri thức về công nghệ là khả năng áp dụng kiến thức để tìm ra các giải pháp hành động hiệu quả.
Sản phẩm khoa học thường khó xác định hình dạng và tính năng trước khi hoàn thiện, trong khi sản phẩm công nghệ được thiết kế và xác định rõ ràng từ trước Nếu sản phẩm công nghệ không đạt yêu cầu thiết kế, nó sẽ bị coi là phế phẩm.
- Hoạt động khoa học luôn đổi mới, có kế thừa, không lặp lại Hoạt động của công nghệ lặp lại theo chu kỳ chế tạo sản phẩm
Quá trình hoạt động khoa học thường mang tính xác suất và rủi ro, trong khi công nghệ hoạt động dựa trên quy trình chuẩn hóa, đảm bảo tính tin cậy cao từ phía nhà chế tạo Sự làm chủ quy trình của người sản xuất là yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả và độ chính xác trong các hoạt động công nghệ.
Sản phẩm khoa học, bao gồm các phát minh và phát hiện, có giá trị lâu dài và tồn tại mãi với thời gian Ngược lại, sản phẩm công nghệ, hay các sáng chế, chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và sẽ dần bị thay thế bởi sự tiến bộ kỹ thuật.
- Lao động khoa học mang tính linh hoạt và sáng tạo Lao động công nghệ được định khuôn chặt chẽ theo quy trình
1.6.2 Mối quan hệ giữa KH&CN và phát triển KT - XH
Quan hệ giữa phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) với phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) có thể được lý giải qua hai nguyên lý cơ bản Đầu tiên, nguyên lý phát triển nhấn mạnh rằng KH&CN là động lực chính thúc đẩy sự tiến bộ và đổi mới trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội Thứ hai, sự phát triển KT-XH tạo ra môi trường thuận lợi cho KH&CN phát triển, từ đó tạo ra sự tương tác tích cực giữa hai lĩnh vực này Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của KH&CN sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững cho nền kinh tế.
KT - XH dựa trên KH&CN và vai trò động lực của KH&CN đối với phát triển KT - XH
Trước đây, sự phát triển kinh tế thường được đánh giá dựa trên các yếu tố như đất đai, lao động và vốn, trong khi kinh tế học chính trị cổ điển chỉ công nhận đất đai và lao động là nguồn gốc của mọi của cải Nguyên lý phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học và công nghệ đã được đề xuất lần đầu tiên tại khóa họp hằng năm thứ 40 của ESCAP thuộc Liên Hiệp Quốc.
Vũ Cao Đàm (2011) trong bài giảng môn Khoa học luận đại cương đã chỉ ra rằng, theo nghị quyết của khóa họp tháng 4 năm 1984, tiến bộ công nghệ đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vai trò và sự đóng góp ngày càng lớn của khoa học và công nghệ (KH&CN) trong phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) đã được ESCAP khẳng định, cho rằng công nghệ thích hợp là chìa khóa cho một xã hội phồn vinh Ủy ban này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì một nền KH&CN cơ bản mạnh mẽ để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, sự lành mạnh xã hội và cạnh tranh quốc tế Lý luận và thực tiễn cho thấy KH&CN có vai trò quyết định trong quá trình tiến hóa và phát triển của loài người Phát triển và ứng dụng thành tựu KH&CN là phương thức nhanh nhất để đạt được các mục tiêu KT - XH, đồng thời các mục tiêu này cũng tạo ra nhu cầu về phát triển KH&CN Mối quan hệ giữa KH&CN, tiến bộ công nghệ và tăng trưởng KT - XH là gắn bó hữu cơ, thúc đẩy lẫn nhau để cùng phát triển, từ đó tạo ra sự cạnh tranh trong tốc độ phát triển.
KT - XH đang nỗ lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) một cách mạnh mẽ, rộng rãi và thiết thực hơn Kết quả nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc trưng bày hay "xếp ngăn kéo", mà cần được chuyển giao cho sản xuất và ứng dụng hiệu quả nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động khoa học và công nghệ không chỉ phản ánh sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện mọi khía cạnh của đời sống xã hội.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với tiến bộ kỹ thuật cần phải dựa trên mục tiêu và yêu cầu của nền kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn phát triển Tuy nhiên, khi xác định những mục tiêu này, các nhà quản lý cũng phải xem xét khả năng thực tế của KH&CN, để đảm bảo rằng các mục tiêu phát triển có thể được thực hiện một cách hiệu quả.
KH&CN đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay Tuy nhiên, các nhà kinh tế đã chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế cao không nhất thiết xuất phát từ việc áp dụng tiến bộ KH&CN.
HIỆN TRẠNG QUY TRÌNH XÉT CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TẠI TỈNH BẠC LIÊU
Khái quát đặc điểm tự nhiên, KT - XH tỉnh Bạc Liêu ảnh hưởng đến hoạt động NCKH
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, KT - XH
Bạc Liêu là tỉnh nằm ở vùng duyên hải Đồng bằng sông Cửu Long, thuộc bán đảo Cà Mau, cực Nam Việt Nam Tỉnh giáp với Hậu Giang và Kiên Giang ở phía Bắc, Sóc Trăng ở phía Đông và Đông Bắc, Cà Mau ở phía Tây và Tây Nam, cùng với Biển Đông ở phía Đông và Đông Nam Với diện tích 2.570 km², Bạc Liêu chiếm 1/16 diện tích vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có bờ biển dài 56 km và các cửa biển quan trọng như Gành Hào, Nhà Mát, Cái Cùng, là trung tâm trung chuyển hàng hóa Tỉnh có thành phố Bạc Liêu và 6 huyện: Hồng Dân, Phước Long, Hòa Bình, Vĩnh Lợi, Giá Rai và Đông Hải Thành phố Bạc Liêu là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa và đào tạo của tỉnh, cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km, Cần Thơ 110 km về phía Bắc và Cà Mau 67 km về phía Nam.
Bạc Liêu có địa hình chủ yếu bằng phẳng, với độ cao khoảng 1,2m so với mực nước biển, xen lẫn các giồng cát và khu vực trũng ngập nước quanh năm Địa hình tại đây dốc dần từ bờ biển vào nội đồng, theo hướng Đông Bắc đến Tây Nam.
Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất 257.094 ha Trong đó:
- Đất phi nông nghiệp: 22.250 ha
- Đất có mặt nước biển: 10.221 ha
Bạc Liêu có tổng diện tích đất nông nghiệp lớn, trong đó đất nuôi trồng thủy sản chiếm 114.184 ha, tiếp theo là đất sản xuất nông nghiệp 102.824 ha, đất lâm nghiệp 4.708 ha, đất làm muối 2.875 ha và đất nông nghiệp khác 28 ha Với hai vùng sinh thái rõ rệt (vùng sinh thái ngọt phía Bắc Quốc lộ 1A và vùng sinh thái mặn phía Nam Quốc lộ 1A), Bạc Liêu tận dụng được lợi thế trong sản xuất lúa và nuôi trồng thủy sản.
Cơ cấu phát triển kinh tế của tỉnh chủ yếu bao gồm công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp - thủy sản và dịch vụ, trong đó nông nghiệp - thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất Từ năm 2006 đến 2010, ngành công nghiệp - xây dựng đóng góp khoảng 2,94% vào tổng sản phẩm, trong khi ngành dịch vụ đạt 3,68%.
- thủy sản là 4,95% vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong giai đoạn này là 11,57 %/năm (giai đoạn 2001 - 2005 là 15,6
Tăng trưởng kinh tế của Bạc Liêu đạt mức %/năm, cao hơn mức trung bình cả nước, nhưng vẫn thấp hơn một số tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long có ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế của Bạc Liêu chưa bền vững, chủ yếu phụ thuộc vào ngành nông nghiệp, trong khi đóng góp từ ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ vẫn còn hạn chế.
Hiện nay, Bạc Liêu có 971 doanh nghiệp hoạt động, bao gồm 6 doanh nghiệp Nhà nước, 959 doanh nghiệp ngoài Nhà nước và 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho khoảng 23.158 lao động Các doanh nghiệp tại đây chủ yếu là nhỏ và vừa, với nhiều hình thức tổ chức khác nhau như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã Tuy nhiên, hầu hết đều có quy mô vốn và lao động nhỏ, khả năng quản lý hạn chế, trình độ công nghệ thấp do thiếu tài chính cho nghiên cứu và triển khai Ngoài ra, trình độ tay nghề của lao động cũng thấp, chưa được đào tạo bài bản, dẫn đến khả năng tiếp cận thị trường và năng lực cạnh tranh kém Thị trường thường bị bó hẹp trong phạm vi địa phương vì tài chính cho hoạt động marketing không lớn, và phần lớn doanh nghiệp sử dụng chính diện tích đất riêng để sản xuất kinh doanh mà không nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước.
Bạc Liêu có hệ thống giao thông thủy, bộ khá thuận tiên Giao thông bộ với 3 tuyến chính: Tuyến Quốc lộ 1A, tuyến Nam Sông Hậu và tuyến Quản
Lộ - Phụng Hiệp; giao thông thủy có hai tuyến chính: Tuyến kênh Bạc Liêu -
Cà Mau và tuyến kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa và thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh.
Bạc Liêu sở hữu bờ biển dài 56 km và ngư trường tự nhiên rộng lớn lên tới 40.000 km², cùng với cảng biển Gành Hào, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế biển bền vững của địa phương.
Dân số Bạc Liêu hiện nay là 376.171 người, mật độ dân số trung bình
Với mật độ dân số 341 người/km², dân tộc Kinh chiếm 90%, dân tộc Hoa 2% và dân tộc Khmer 8%, khu vực này có 261.233 người trong độ tuổi lao động, tạo thành nguồn nhân lực dồi dào và quan trọng cho sự phát triển kinh tế.
Bạc Liêu, với lịch sử văn hóa đặc sắc, là cái nôi của nghệ thuật đơn ca tài tử Nam bộ, nổi bật với bản “Dạ cổ Hoài Lang” đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại Điều này đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học xã hội và du khách trên toàn quốc Ngoài nghệ thuật độc đáo, Bạc Liêu còn sở hữu nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp như Vườn chim, vườn nhãn, khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu, khu Phật Bà Nam Hải, nhà thờ Tắc Sậy, cụm nhà Công tử Bạc Liêu, di tích Đồng Nọc Nạng và đền thờ Bác Hồ, tạo nên những điểm đến hấp dẫn cho du khách.
Từ năm 2006 đến nay, tỉnh Bạc Liêu đã thực hiện chủ trương và chính sách về khoa học và công nghệ (KH&CN) của Đảng và Nhà nước, triển khai nhiều đề tài và dự án đa dạng trong nhiều lĩnh vực, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của tỉnh.
2.1.2 Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động NCKH của tỉnh
Bạc Liêu, với đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội hiện tại, đối mặt với nhiều thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học của tỉnh.
Bạc Liêu sở hữu nhiều lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, bao gồm hệ sinh thái biển, hệ sinh thái ngọt và mặn, cùng với diện tích đất rộng lớn cho sản xuất lúa và nuôi trồng thủy sản Những điều kiện này tạo ra cơ hội thuận lợi cho phát triển nông nghiệp Nhiều vùng sản xuất nông nghiệp trong tỉnh đã được quy hoạch theo chuỗi giá trị hàng hóa, nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường, dẫn đến nhu cầu cao cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai.
Bạc Liêu sở hữu hạ tầng giao thông thuận lợi với 4 tuyến quốc lộ và một tuyến cao tốc dự kiến, kết nối với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và các vùng khác Điều này tạo ra cơ hội lớn để thu hút đầu tư cho các ngành công nghiệp như chế biến nông, thủy sản, cơ khí nông nghiệp và sửa chữa tàu biển Sự phát triển này kéo theo nhu cầu về công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) phát triển mạnh mẽ.
Bạc Liêu đã quy hoạch xây dựng khu công nghệ sinh học và khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà khoa học từ nơi khác đến làm việc Điều này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển của khoa học và công nghệ trong tỉnh.
Thực trạng xét chọn đề tài/dự án và ứng dụng kết quả NCKH tại tỉnh Bạc Liêu
2.2.1 Nhiệm vụ quản lý KH&CN cấp tỉnh
Theo Thông tư liên tịch số 05/2008/TTLT-BKHCN-BNV ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2008, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan chuyên môn về khoa học và công nghệ (KH&CN) thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tài liệu này quy định rõ ràng cơ cấu tổ chức và các nhiệm vụ cụ thể mà các cơ quan này cần thực hiện để thúc đẩy sự phát triển KH&CN tại địa phương.
Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh, có nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN, phát triển tiềm lực KH&CN, và chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội Sở cũng đảm bảo tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, và an toàn bức xạ hạt nhân Sở KH&CN chịu sự quản lý của UBND tỉnh và được hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn bởi Bộ KH&CN.
Xây dựng và trình UBND tỉnh các biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH), triển khai và chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường công nghệ, cũng như áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Tổ chức thực hiện việc xét chọn và trình UBND tỉnh phê duyệt các nhiệm vụ khoa học và công nghệ hàng năm Đồng thời, tổ chức triển khai, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện, đánh giá nghiệm thu và công bố kết quả nghiên cứu khoa học của các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã được phê duyệt.
Hướng dẫn các Sở, ngành, UBND huyện, thành phố và các tổ chức KH&CN trong tỉnh thực hiện các hoạt động KH&CN nhằm xây dựng và đề xuất các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước và cấp tỉnh Những nhiệm vụ này sẽ phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương và được trình cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định.
Cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ cho các tổ chức khoa học và công nghệ, cũng như các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ trong các thành phần kinh tế tại tỉnh, theo đúng quy định của pháp luật.
UBND tỉnh đã ban hành cơ chế và chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ tại địa phương Chính sách này hỗ trợ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Phối hợp với Sở Tài chính và Sở Kế hoạch và Đầu tư để trình UBND tỉnh dự toán ngân sách hàng năm cho lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) của tỉnh, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.
Tham mưu cho Chủ tịch UBND tỉnh trong việc thành lập các Hội đồng tư vấn nhằm xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) theo quy định, đồng thời thực hiện vai trò cơ quan thường trực của Hội đồng KH&CN cấp tỉnh.
- Quản lý hoạt động đánh giá, thẩm định, giám định công nghệ, chuyển giao công nghệ trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật
2.2.2 Quy trình đề xuất, xét chọn nhiệm vụ KH&CN tỉnh Bạc Liêu
Hằng năm, dựa trên Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội từ kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh trước đó cùng với hướng dẫn của Sở Khoa học và Công nghệ, các Sở, ngành sẽ đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ cho năm kế hoạch, gửi về Sở KH&CN để xem xét.
Sở KH&CN tổ chức Hội đồng tư vấn để xét chọn các nhiệm vụ KH&CN thông qua hình thức bỏ phiếu Những nhiệm vụ đạt từ 70% phiếu đồng ý của Hội đồng tư vấn sẽ được đưa vào danh mục trình Hội đồng KH&CN tỉnh xem xét Nếu nhiệm vụ nhận được từ 70% phiếu đồng ý của Hội đồng KH&CN tỉnh, chúng sẽ được đưa vào dự thảo kế hoạch KH&CN năm để UBND tỉnh phê duyệt, giao cho đơn vị hoặc cá nhân chủ trì thực hiện.
Có thể mô tả quy trình đề xuất, xét chọn nhiệm vụ KH&CN hằng năm của tỉnh như hình 2.1
Hình 2.1 Sơ đồ quy trình đề xuất, xét chọn nhiệm vụ KH&CN hằng năm ở địa phương
Kế hoạch KH&CN hàng năm của tỉnh chủ yếu được xây dựng dựa trên việc lựa chọn các đề xuất nhiệm vụ từ các đơn vị, cá nhân trong các Sở, ngành Những ý tưởng này thường phản ánh quan điểm chỉ đạo của các Sở và năng lực quan sát xã hội của cán bộ quản lý, mà không dựa trên kế hoạch phát triển của ngành hoặc đơn vị mình Do đó, kế hoạch KH&CN hình thành theo hướng “từ dưới lên”, thay vì dựa trên các yêu cầu thực tiễn xã hội được khảo sát và đặt ra từ “trên xuống”.
Sở KH&CN thông báo nội dung KH&CN hằng năm của tỉnh
Các tổ chức và cá nhân trực thuộc (đề xuất nhiệm vụ)
Hội đồng tư vấn xét chọn
Hội đồng KH&CN tỉnh
UBND tỉnh đã phê duyệt việc khảo sát nhằm chứng minh nhận định của tác giả Luận văn Tác giả đã thực hiện khảo sát bằng phiếu điều tra đối với 45 chủ nhiệm đề tài và dự án trong giai đoạn 2006 - 2010 Qua đó, tác giả đã thu thập thông tin để đề xuất và xét chọn nhiệm vụ KH&CN, phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch hằng năm của tỉnh.
“Nhiệm vụ KH&CN hằng năm được đề xuất theo định hướng chỉ đạo của ai?”
(chọn nhiều phương án) Kết quả tần suất trả lời như Bảng 2.1 dưới đây:
Bảng 2.1 Đề xuất nhiệm vụ KH&CN hằng năm
Nội dung hỏi Trả lời
Theo chỉ đạo của tỉnh 62,6 37,4
Theo chỉ đạo của Sở/ngành 58,2 41,8
Theo chỉ đạo của cơ quan, đơn vị 62,8 37,2
Theo kế hoạch phát triển của ngành, đơn vị 20,8 79,2
Theo hợp đồng với đối tác 28,9 71,1
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát
Theo số liệu, 54,5% nhiệm vụ KH&CN được đề xuất bởi cá nhân, trong khi chỉ 28,9% là theo hợp đồng với đối tác Đáng chú ý, 79,2% các đề xuất không phù hợp với kế hoạch phát triển của ngành hoặc đơn vị, phần còn lại là theo chỉ đạo từ cấp trên Điều này khẳng định nhận định của tác giả Luận văn là có cơ sở thực tiễn rõ ràng.
Phương thức đề xuất, xét chọn xây dựng kế hoạch này có những bất cập như sau:
Việc xây dựng nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN) hiện nay chủ yếu mang tính thụ động, phụ thuộc vào các đề xuất từ các đơn vị và cá nhân trong các Sở, ngành kiêm nhiệm công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) Sự thiếu chuyên môn và kinh nghiệm nghiên cứu của đội ngũ cán bộ này đã ảnh hưởng đáng kể đến kết quả nghiên cứu.
Nguyên nhân kết nghiên cứu của các đề tài/dự án không ứng dụng đƣợc và không nhân rộng đƣợc
Kết quả điều tra và phỏng vấn các nhà quản lý, cùng với việc phân tích báo cáo tổng kết và đánh giá hoạt động KH&CN tại tỉnh, đã chỉ ra những nguyên nhân chính khiến các kết quả nghiên cứu không thể ứng dụng và không được nhân rộng Quy trình đề xuất và xét chọn nhiệm vụ KH&CN hàng năm cũng góp phần vào vấn đề này.
2.3.1 Ý tưởng đề xuất nhiệm vụ không xuất phát từ đời sống thực tiễn nên không có khả năng ứng dụng
Một đề tài hoặc dự án khoa học và công nghệ cần đáp ứng nhiều yêu cầu khác nhau, trong đó hai tiêu chí quan trọng nhất là tính sáng tạo và tính lợi ích Tính sáng tạo có thể được đánh giá ở nhiều mức độ khác nhau, phụ thuộc vào phạm vi nghiên cứu quốc tế, quốc gia hay địa phương, và cần xem xét theo đối tượng cũng như phương pháp nghiên cứu Tiêu chí về tính lợi ích giúp loại bỏ những nghiên cứu mặc dù rất mới mẻ nhưng không mang lại giá trị cho cộng đồng hoặc xã hội Khi đề xuất một dự án, cần xác định rõ kết quả mà dự án mang lại và liệu nó có đáp ứng nhu cầu thực tiễn hay không.
Khi được hỏi về nguyên nhân khiến các đề tài hoặc dự án không được áp dụng hiệu quả, nhiều ý kiến từ 40 người tham gia trực tiếp đã chỉ ra rằng có sự thiếu hụt trong việc triển khai phương án Việc này không chỉ ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng mà còn làm giảm tính khả thi của các dự án trong thực tế.
“Kết quả NCKH chưa bám vào thị trường và thực tiễn yêu cầu” kết quả trả lời được thống kê tại Bảng 2.4 như sau:
Bảng 2.4 Kết quả NCKH chưa bám vào thị trường và thực tiễn yêu cầu
Giá trị Số người trả lời Tỷ lệ % Đúng 36 90%
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát
Khoảng 90% người tham gia khảo sát cho biết rằng lý do chính khiến các đề tài hoặc dự án không khả thi là do ý tưởng đề xuất không phù hợp với thị trường và yêu cầu thực tiễn Dựa trên thực tiễn quản lý và dữ liệu khảo sát, tác giả luận văn đã đưa ra nhận định này.
Nhiều dự án, mặc dù được Hội đồng đánh giá cao, vẫn không được thị trường chấp nhận do thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả Sở KH&CN đã hỗ trợ sản xuất thử, nhưng để sản phẩm được người tiêu dùng tin dùng, cần có thêm các hoạt động tuyên truyền quảng bá, đảm bảo chất lượng và phương thức phân phối Thực tế cho thấy, nhiều sản phẩm nghiên cứu đạt yêu cầu nghiệm thu nhưng vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi, điều này phản ánh sự cần thiết phải xây dựng một chiến lược toàn diện cho việc đưa sản phẩm ra thị trường.
- Sản phẩm chưa thực sự là vấn đề cần thiết của xã hội
- Tính cạnh tranh không cao
- Không có yếu tố bí quyết
- Không được tiếp tục đầu tư hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm
Nhiều dự án, mặc dù đạt kết quả tốt và đáp ứng nhu cầu xã hội, nhưng lại yêu cầu mức độ hoàn thiện cao, kỹ thuật phức tạp và quy mô lớn Điều này dẫn đến chi phí ứng dụng tăng cao, gây khó khăn trong việc thực thi.
2.3.2 Đề xuất nhiệm vụ thiếu thông tin về thị trường Để tìm hiểu mức độ nắm bắt thông tin về thị trường, thông tin định hướng phát triển KT - XH thực tế của các chủ nhiệm đề tài/dự án, tác giả Luận văn đã đặt câu hỏi và đưa ra 6 phương án trả lời đối với những đề tài/dự án không áp dụng được (Phụ lục 1 mục 12.2) Kết quả trả lời từ tổng số 40 phiếu hỏi được thống kê tại Bảng 2.5 dưới đây:
Bảng 2.5 Thiếu thông tin thị trường
Giá trị Số người trả lời Tỷ lệ %
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát
Kết quả khảo sát cho thấy 67,5% người tham gia cho rằng việc thiếu thông tin về thị trường và định hướng kinh tế - xã hội tại địa phương là nguyên nhân chính dẫn đến khó khăn trong việc ra quyết định.
“Đề tài sau nghiệm thu không còn phù hợp với tình hình phát triển KT - XH thực tế”
Qua kinh nghiệm nhiều năm làm công tác quản lý và bằng nghiên cứu thực tế ở địa phương tác giả Luận văn nhận thấy:
Việc thu thập và tổng hợp thông tin về nhu cầu sản phẩm khoa học và công nghệ của những người thực hiện đề tài hoặc dự án hiện còn hạn chế Họ chủ yếu dựa vào sách báo, trong khi khả năng tiếp cận Internet để tìm kiếm thông tin là rất ít.
Việc tổ chức hội nghị và hội thảo về khoa học và công nghệ tại địa phương còn hạn chế, dẫn đến cơ hội cho các nhà nghiên cứu khoa học tham gia, cập nhật thông tin và trao đổi chuyên môn chưa nhiều.
- Các thông tin về quy hoạch, về định hướng phát triển KT - XH của địa phương chưa được phổ biến rộng rãi và kịp thời trong giới NCKH
2.3.3 Sản phẩm nghiên cứu không hoàn chỉnh, thiếu tính dự báo
Nguyên nhân chính dẫn đến việc các đề tài, dự án không thể ứng dụng và nhân rộng là do kết quả nghiên cứu không hoàn chỉnh và thiếu tính toán tổng thể Mặc dù chất lượng sản phẩm tốt, nhưng giá thành cao và không phù hợp với điều kiện sử dụng cũng như năng lực tiếp thu của người dùng Khi khảo sát 40 người tham gia phối hợp thực hiện đề tài/dự án, kết quả cho thấy những vấn đề này là nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến khả năng ứng dụng thực tiễn.
Bảng 2.6 Kết quả nghiên cứu không hoàn chỉnh, thiếu tính toán tổng thể
Giá trị Số người trả lời Tỷ lệ % Đồng ý 31 77,5%
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát
Theo khảo sát, 31/40 người đồng ý rằng nguyên nhân chính dẫn đến việc các đề tài và dự án không được ứng dụng và nhân rộng là do sản phẩm nghiên cứu không hoàn chỉnh và thiếu tính toán tổng thể Điều này nhấn mạnh rằng khi nghiên cứu một đề tài hay dự án, ngoài giá trị khoa học, cần phải dự báo khả năng áp dụng, giá thành và năng lực tiếp nhận của sản phẩm Nghiên cứu thực tiễn tại địa phương cũng cho thấy điều này.
- Kết quả đề tài nghiên cứu thành công nhưng đó chỉ mới là sản phẩm
Mẫu sản phẩm chưa thể triển khai rộng rãi ngay lập tức vì cần phải hoàn thiện về chất lượng, hình thức và giá thành để được thị trường chấp nhận Tuy nhiên, theo quan điểm của cấp quản lý, sản phẩm đã được coi là hoàn thành hợp đồng, dẫn đến hầu hết sản phẩm không đạt yêu cầu hoàn chỉnh.
Cơ sở chưa nhận thức được rằng đây là cơ hội từ nhà nước để đổi mới sản phẩm Việc cần thiết là đầu tư vào chất xám và kinh phí nhằm hoàn thiện sản phẩm, thay vì chỉ xem đó là trách nhiệm của nhóm nghiên cứu đề tài.
Một số nghiên cứu đã cho ra những sản phẩm chất lượng cao, nhưng giá thành và kỹ thuật phức tạp không phù hợp với khả năng tiếp thu của người dân, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai ứng dụng.
Đổi mới xây dựng nhiệm vụ KH&CN định hướng nhu cầu
3.1.1 Đổi mới cơ chế đề xuất, xét chọn đề tài/dự án theo hình thức đặt hàng
Từ những bất cập trong quy trình đề xuất, xét chọn đề tài/dự án tỉnh Bạc
Để nâng cao hiệu quả trong việc đề xuất và xét chọn nhiệm vụ KH&CN hàng năm, cần áp dụng nguyên tắc "đặt hàng từ trên xuống", tức là xác định nhu cầu xã hội về sản phẩm KH&CN trước, thay vì phương pháp "từ dưới lên" như hiện tại Quy trình này được minh họa qua các sơ đồ tại hình 3.1 và hình 3.2.
Qua sơ đồ cho thấy việc đề xuất và xét chọn nhiệm vụ KH&CN hằng năm được tiến hành theo 2 bước:
Bước đầu tiên trong việc đề xuất nhiệm vụ KH&CN là lựa chọn ưu tiên dựa trên phân tích hiện trạng KH&CN tại địa phương và khảo sát nhu cầu cũng như năng lực cung ứng sản phẩm KH&CN Sở KH&CN sẽ chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành để xây dựng các ưu tiên, từ đó hình thành đề xuất nhiệm vụ KH&CN dưới dạng chương trình mở và các đề tài, dự án độc lập, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
“đề bài” đặt hàng các tổ chức, cá nhân, các nhà khoa học Bước xây dựng ưu tiên được thể hiện như sơ đồ ở hình 3.1
Qua sơ đồ cho thấy, định hướng nhu cầu ở đây chính là cơ chế xác lập
“đề bài” làm cơ sở cho việc định hướng đề xuất, xét chọn và đặt hàng nhiệm vụ
Để xác định nhu cầu sản phẩm KH&CN tại tỉnh, Sở KH&CN cần phối hợp với các Sở, ngành hoặc thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn độc lập để tiến hành khảo sát và lập báo cáo hiện trạng Bước này rất quan trọng vì nó quyết định chất lượng đầu vào và sản phẩm đầu ra của đề tài/dự án, cũng như khả năng ứng dụng kết quả sau nghiên cứu Do đó, việc xây dựng “đề bài” định hướng cho đề xuất và xét chọn đề tài/dự án là cần thiết, điều này được xác nhận qua khảo sát thực tế của tác giả Luận văn.
Bảng 2.9 Cần thiết đặt đề bài định hướng cho đề xuất đề tài/dự án
Giá trị Số người trả lời Tỷ lệ %
Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát
Khi khảo sát 30 chủ nhiệm đề tài, dự án thực hiện từ 2006 - 2010 về việc cần thiết xây dựng đề bài trước khi đề xuất đề tài/dự án, có đến 70% cho rằng điều này là cần thiết, cho thấy nhận định này có cơ sở thực tiễn Để hình thành nhiệm vụ KH&CN theo đề bài, các đề xuất phải trải qua ít nhất ba vòng đánh giá từ các hội đồng chuyên gia và nhóm chuyên trách, bao gồm nhà khoa học, nhà sản xuất, nhà quản lý và các tác nhân xã hội khác Sau khi nhiệm vụ được hình thành dưới dạng chương trình mở và các đề tài/dự án độc lập, Sở KH&CN sẽ trình Hội đồng KH&CN tỉnh để được UBND tỉnh phê duyệt và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đặt hàng nghiên cứu.
Hình 3.1 Sơ đồ quy trình xây dựng ƣu tiên phục vụ cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN
Hội đồng KH&CN tỉnh Đề tài độc lập Chương trình
HĐ KH&CN, chuyên gia
(đề tài, dự án ưu tiên) Đạt
HĐ KH&CN chuyên ngành, chuyên gia
Xác lập ưu tiên (đặt đề bài)
Phân tích hiện trạng KH&CN
Phương pháp Xây dựng các kịch bản Các nhóm công tác
Các tổ chức, cá nhân, DN
Bước 2: Lựa chọn hoặc giao nhiệm vụ cho tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN (nhà khoa học) Dựa trên các nhiệm vụ KH&CN đã được UBND tỉnh phê duyệt và công bố ở Bước 1, các tổ chức và cá nhân sẽ xây dựng thuyết minh đề cương nghiên cứu phù hợp với năng lực và chuyên môn của mình để gửi về.
Sở KH&CN sẽ tiến hành tuyển chọn, đặt hàng hoặc giao trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, đặc biệt trong trường hợp liên quan đến an ninh quốc phòng Quá trình tuyển chọn được thực hiện thông qua Hội đồng tuyển chọn, và các tổ chức, cá nhân được đánh giá đạt yêu cầu sẽ được Sở KH&CN trình UBND tỉnh phê duyệt để chủ trì thực hiện Điều này thay đổi so với phương thức hiện tại, khi người đề xuất nhiệm vụ cũng là người thực hiện mà không qua tuyển chọn.
Hình 3.2 Sơ đồ quy trình tuyển chọn chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN
3.1.2 Đánh giá triển vọng quy trình đề xuất, xét chọn đề tài/dự án theo cơ chế đổi mới
Nhiệm vụ KH&CN được xây dựng hằng năm áp dụng theo quy trình đề xuất trên có những triển vọng sau:
Các tổ chức, cá nhân, DN
Giao trực tiếp Tuyển chọn
HĐ xét duyệt đề cương
TC, cá nhân chủ trì ĐT,
Hiện nay, UBND tỉnh chưa có chỉ đạo cụ thể cho các Sở, ngành trong việc đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu, chủ yếu dựa vào Sở KH&CN theo Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh mà không có kế hoạch KH&CN dài hạn hay khảo sát nhu cầu xã hội hàng năm Điều này dẫn đến trách nhiệm không rõ ràng, thiếu sự phối hợp và định hướng cho các nhiệm vụ KH&CN, khiến chúng không phù hợp với nhu cầu thực tiễn Việc áp dụng quy trình đổi mới sẽ giúp khắc phục những hạn chế này.
Việc tách rời hai nội dung độc lập trong nghiên cứu là cần thiết, bao gồm xác định rõ "đề bài" để đề xuất nhiệm vụ và lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ năng lực chủ trì thực hiện nghiên cứu Điều này nhằm thay thế phương pháp hiện tại, trong đó người đề xuất nhiệm vụ thường đồng thời là người thực hiện nhiệm vụ, dẫn đến sự chủ quan trong quá trình nghiên cứu.
Quy trình này giúp khắc phục tình trạng nhiệm vụ KH&CN không liên kết với phát triển KT-XH và sản xuất kinh doanh, đồng thời tập trung vào nghiên cứu để giải quyết những vấn đề cấp bách từ thực tiễn.
- Chủ động trong việc xây dựng kế hoạch KH&CN hằng năm và cho từng giai đoạn phát triển
- Tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN thực sự có năng lực, chuyên môn, do phải qua khâu tuyển chọn
- Tránh được tình trạng đề xuất nhiệm vụ KH&CN dàn trải, mang tính chỉ định áp đặt
Giải pháp này giúp thể chế hóa các nhiệm vụ KH&CN thành chủ trương của địa phương, kết nối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và thực tiễn sản xuất kinh doanh Đồng thời, nó cũng huy động năng lực của các nhà quản lý và nhà khoa học trong và ngoài tỉnh Nhờ đó, chúng ta có thể khắc phục những nguyên nhân khiến kết quả nghiên cứu khoa học không được ứng dụng và không được nhân rộng như hiện nay.
Đổi mới cách thức tổ chức Hội đồng KH&CN
Hội đồng KH&CN được thành lập theo quyết định của UBND tỉnh hoặc ủy quyền cho Sở KH&CN, với số lượng từ 9 đến 11 thành viên, bao gồm chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên Cơ cấu Hội đồng gồm 50% thành viên là các nhà KH&CN, tổ chức sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp và người sử dụng kết quả nghiên cứu, trong khi 50% còn lại thuộc cơ quan quản lý nhà nước Hội đồng hoạt động theo nguyên tắc bỏ phiếu biểu quyết và sẽ tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Qua nhiều năm làm công tác thư ký Hội đồng KH&CN, nhận thấy rằng việc tổ chức Hội đồng hiện tại có nhiều bất cập Đề xuất và thực hiện nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2006 - 2010 chủ yếu do cán bộ quản lý nhà nước thực hiện, dẫn đến tỷ lệ thành viên là nhà khoa học trong Hội đồng quá thấp Điều này ảnh hưởng đến tính khách quan trong đánh giá và xét chọn nhiệm vụ KH&CN, khi nhiều nhiệm vụ không thực sự cấp thiết vẫn được đưa vào kế hoạch Do đó, cần thiết phải cơ cấu lại tỷ lệ thành phần Hội đồng, nâng cao tỷ lệ nhà khoa học và chuyên gia trong lĩnh vực KH&CN lên 2/3, trong khi giảm tỷ lệ nhà quản lý xuống 1/3 Nếu thiếu nhà khoa học địa phương, có thể mời các chuyên gia từ các Viện nghiên cứu hoặc Trường đại học ngoài tỉnh tham gia Hội đồng.
Đổi mới cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạt động KH&CN
3.3.1 Đổi mới tổ chức thực hiện các nhiệm vụ R&D hướng vào hỗ trợ doanh nghiệp
Phân tích cho thấy Bạc Liêu có 971 doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng từ năm 2006 đến 2010, chỉ có 2 doanh nghiệp thực hiện hoạt động R&D Điều này phản ánh sự hạn chế trong tổ chức thực hiện R&D tại địa phương, với mức đầu tư thấp, thiếu hỗ trợ cho doanh nghiệp, cơ chế quản lý chậm đổi mới và cơ chế tài chính chưa phù hợp Do đó, cần có sự đổi mới trong tổ chức thực hiện R&D để nâng cao hiệu quả hoạt động này.
Đầu tư cho hoạt động R&D cần được định hướng phù hợp với đặc thù địa phương, tập trung vào các đề tài/dự án có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Các dự án R&D nên giải quyết những vấn đề thiết yếu mà doanh nghiệp không đủ năng lực thực hiện, đồng thời có khả năng nhân rộng và tạo ra kết quả đột phá Để thực hiện hiệu quả, cần đổi mới phương thức quản lý, tổ chức thực hiện và cơ chế tài chính Luận văn đề xuất tổ chức thực hiện nhiệm vụ R&D theo hình thức “quản lý theo các dự án đổi mới công nghệ”, nhằm gắn kết nhiệm vụ R&D với các dự án đầu tư công nghệ của doanh nghiệp, từ đó huy động nguồn vốn xã hội và tránh lãng phí, tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu cụ thể.
Một số doanh nghiệp tại tỉnh đã bắt đầu áp dụng phương thức quản lý R&D thông qua việc thực hiện các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước Tuy nhiên, vẫn tồn tại hai phương thức quản lý độc lập trong cùng một dự án, dẫn đến việc chưa có một phương thức quản lý thống nhất cho các dự án đầu tư đổi mới công nghệ Để xây dựng phương thức quản lý hiệu quả, các cơ quan quản lý cần nâng cao vai trò định hướng đầu tư, lựa chọn các nhiệm vụ R&D có khả năng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý, tổ chức R&D và các đơn vị liên quan trong quá trình thực hiện.
Quản lý dự án hiệu quả yêu cầu sự gắn kết trong xây dựng và thực thi các chính sách khoa học và công nghệ, tài chính, đầu tư, và công nghiệp của tỉnh Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành và cơ quan liên quan để phục vụ doanh nghiệp - chủ thể của các dự án Do đó, đổi mới quản lý hoạt động R&D và công nghệ theo hướng này phù hợp với xu thế phát triển mô hình tương tác kết hợp, tiến tới tiếp cận quan điểm về hệ thống đổi mới quốc gia.
Cơ cấu kinh phí đầu tư cho hoạt động R&D tại địa phương cần được điều chỉnh để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ Cụ thể, cần tăng tỷ lệ đầu tư cho các hoạt động R&D liên quan đến ứng dụng công nghệ, bao gồm quá trình tiếp thu, làm chủ công nghệ nhập khẩu, cải tiến, nội địa hóa và phát triển công nghệ.
3.3.2 Nâng cao hiệu quả các hoạt động dịch vụ KH&CN nhằm thúc đẩy phát triển và gắn kết hoạt động R&D trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn lực cho hoạt động R&D, cần được hỗ trợ trong việc cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng công nghệ Cụ thể, cần tổ chức lại bộ phận R&D, cung cấp thông tin KH&CN và hỗ trợ tài chính cho các kết quả ứng dụng hiệu quả Đồng thời, doanh nghiệp cần được tạo điều kiện để hợp tác với các tổ chức R&D Để khuyến khích và bảo vệ các thành quả sáng tạo, cần tăng cường hoạt động sở hữu công nghiệp tại tỉnh thông qua tuyên truyền nâng cao nhận thức và khuyến khích doanh nghiệp sử dụng thông tin sở hữu công nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả tham gia Chợ công nghệ và thiết bị, cần khuyến khích doanh nghiệp tìm kiếm kết quả R&D phục vụ đổi mới công nghệ Việc tham gia Chợ và các hoạt động chuyển giao công nghệ sau Chợ là thiết yếu, giúp tạo nguồn cung và cầu công nghệ, từ đó thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học.
Để nâng cao năng lực cung cấp thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN), cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Trung tâm Thông tin KH&CN thuộc Sở KH&CN, đồng thời đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ Mục tiêu là mở rộng Trung tâm thành một địa điểm phục vụ thông tin KH&CN cho toàn tỉnh Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác và chia sẻ thông tin với các Trung tâm Thông tin KH&CN trong và ngoài tỉnh, cũng như với thư viện tỉnh và các trường đại học, cao đẳng, đặc biệt là Trường Đại học.
Bạc Liêu đang nỗ lực hỗ trợ các tổ chức KH&CN và doanh nghiệp trong việc hình thành nhu cầu sử dụng thông tin về sáng chế, kết quả R&D và công nghệ mới, nhằm nâng cao hoạt động nghiên cứu và đổi mới công nghệ Để đạt được hiệu quả trong các hoạt động hỗ trợ này, việc thành lập và phát triển các trung tâm tư vấn R&D tại tỉnh là rất quan trọng Các trung tâm này sẽ tư vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm kết quả R&D, công nghệ phù hợp, cũng như đánh giá và thẩm định công nghệ Hiện tại, dịch vụ này vẫn chưa có mặt tại tỉnh, do đó, việc thiết lập dịch vụ tư vấn R&D là cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang hoạt động tại đây.
Đổi mới phương thức chuyển giao và ứng dụng kết quả NCKH vào sản xuất nông nghiệp
Cơ cấu phát triển kinh tế tỉnh Bạc Liêu chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, dẫn đến việc các đề tài khoa học tập trung vào lĩnh vực này Theo thống kê giai đoạn 2006 - 2010, có 37/75 đề tài thuộc nông nghiệp, chiếm 49%, trong đó gần 48,6% không được ứng dụng hoặc nhân rộng Tính đặc thù của nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tự nhiên, xã hội, kinh tế và văn hóa, ảnh hưởng đến sự thành công của việc ứng dụng kết quả nghiên cứu Nhiều mô hình sản xuất áp dụng kỹ thuật mới không đạt kết quả mong muốn khi mở rộng, do quản lý KH&CN chỉ chú trọng đầu vào mà chưa quan tâm đến chất lượng sản phẩm đầu ra Để cải thiện tình hình, cần tăng cường và đổi mới việc nhân rộng kết quả nghiên cứu khoa học bằng cách kết hợp các biện pháp chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp Luận văn đề xuất ba biện pháp chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng.
3.4.1 Biện pháp chuyển giao công nghệ theo chương trình đa ngành Đây là biện pháp có mục tiêu, biện pháp đồng bộ được ứng dụng rộng rãi cho nhiều lĩnh vực KT - XH trong cùng một giai đoạn như: Nông nghiệp, môi trường, y tế, dịch vụ… Đặc điểm cơ bản của biện pháp này là sử dụng được nhiều kết quả đã nghiên cứu hoàn thiện công nghệ, đa ngành, đa lĩnh vực trên cơ sở được phân tích kỹ và đầy đủ các điều kiện KT - XH, điều kiện tự nhiên của vùng và các địa điểm triển khai, nó được tính toán và phân tích đầy đủ và tương đối chính xác các điều kiện về nguồn lực đáp ứng cho chương trình khi thực hiện đạt được các mục tiêu đề ra Thời gian cho chương trình dài, thường từ 3 - 5 năm, huy động được đông đảo cán bộ quản lý, các cơ quan tham gia và kết quả của chương trình được đánh giá theo từng năm nhằm phát huy những hiệu quả đạt được đồng thời rút kinh nghiệm khắc phục những nhược điểm, hạn chế
3.4.2 Biện pháp chuyển giao công nghệ theo dự án chuyên ngành
Biện pháp này đáp ứng nhu cầu thực tiễn của từng ngành cụ thể, với đặc điểm là hỗ trợ chuyển giao công nghệ chuyên sâu cho người nông dân thông qua dự án Bản chất của biện pháp là "cầm tay chỉ việc", giúp nông dân vượt qua khó khăn ban đầu trong việc nắm bắt kỹ thuật và tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất Đây là một phương pháp thực địa, đòi hỏi sự kiên trì từ cán bộ quản lý và nhà khoa học, do trình độ và năng lực của người nông dân còn hạn chế, cần thời gian để học hỏi.
3.4.3 Biện pháp chuyển giao công nghệ bằng tập huấn và tham quan mô hình
Nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ mới là bước đầu tiên để cải tiến sản xuất nông nghiệp Sau đó, cần tổ chức các cuộc hội thảo "đầu bờ" nhằm giới thiệu mô hình cho nông dân tham gia học tập Để biện pháp này đạt hiệu quả, việc tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, cùng với chương trình khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư, là rất quan trọng để nâng cao nhận thức và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng.
Tổ chức tham quan và học tập mô hình cho người dân là rất cần thiết; bên cạnh đó, cần có cán bộ kỹ thuật chuyên trách để giới thiệu và phổ biến công nghệ cho họ trong quá trình học tập.
Việc chỉ tập trung vào nghiên cứu mô hình công nghệ và áp dụng phương pháp chuyển giao qua tập huấn và tham quan như hiện nay chưa mang lại hiệu quả cao trong việc nhân rộng kết quả nghiên cứu trong nông nghiệp Một trong những nguyên nhân chính là khó khăn về cơ chế tài chính, khi kinh phí chỉ được cấp đến khi mô hình xây dựng thành công mà không có hỗ trợ cho công tác tuyên truyền kết quả nghiên cứu lâu dài Hơn nữa, kinh phí cũng không đủ để hỗ trợ nông dân đi lại tham quan và học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình, điều này yêu cầu thời gian và tài chính nhất định để đạt được hiệu quả.
Việc đẩy mạnh chuyển giao công nghệ theo dự án chuyên ngành cho các mô hình công nghệ mới và tiên tiến, phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội, là giải pháp khả thi nhất Công việc này cần được triển khai ngay sau khi nghiên cứu hoàn tất và đạt kết quả tốt Điều này sẽ hỗ trợ nông dân về kinh phí, giống, vật tư và công nghệ, giúp họ tự tiếp thu và thực hiện công việc mới, đồng thời khắc phục khó khăn về tài chính và năng lực tiếp thu công nghệ Đây cũng là cách nhanh nhất để nhân rộng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Thay vì chỉ nghiên cứu mô hình và sau đó tuyên truyền để phổ biến, hiện nay các đề tài/dự án cần gắn liền với việc nhân rộng mô hình thông qua dự án khoa học ngay sau khi tổng kết Việc sử dụng nguồn kinh phí từ sự nghiệp khoa học để triển khai các dự án này là cần thiết Quy trình nghiên cứu và triển khai bao gồm các bước: i) Nghiên cứu mô hình; ii) Tổng kết mô hình trình diễn; iii) Sử dụng dự án khoa học để chuyển giao công nghệ và nhân rộng mô hình.
Tổ chức NCKH theo định hướng nhu cầu của xã hội
NCKH theo nhu cầu xã hội là nhiệm vụ quan trọng đối với các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhằm gắn kết nghiên cứu khoa học với nhu cầu kinh tế - xã hội Điều này không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu mà còn tăng cường hiệu quả kinh tế - xã hội Trong những năm gần đây, nhiều trường đại học và viện nghiên cứu đã thực hiện nhiều đề tài, dự án nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cao, góp phần vào sản xuất và mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề tồn tại trong quản lý vĩ mô và vi mô, cản trở sự phát triển của mối quan hệ giữa NCKH và sản xuất kinh doanh.
3.5.1 Các nhân tố quyết định mối quan hệ chặt chẽ giữa NCKH và nhu cầu
Có thể xác định nhóm yếu tố cơ bản có ảnh hưởng quyết định đến sự gắn kết giữa NCKH và nhu cầu KT - XH đó là:
- Nhu cầu của môi trường KT - XH nói chung và SXKD nói riêng đối với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu
Trình độ chuyên môn, sự năng động và khả năng thích ứng của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu, cùng với sự nhạy bén của các nhà khoa học, đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.
- Định hướng chiến lược phát triển KH&CN, các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn phát triển
- Mô hình tổ chức NCKH, cơ chế quản lý KH&CN và các chính sách ưu đãi nhằm tạo động lực thúc đẩy
Nhu cầu sản xuất và kinh doanh luôn hiện hữu, và các trường đại học, viện nghiên cứu có trách nhiệm tạo dựng mối quan hệ bền vững với doanh nghiệp thông qua sự năng động và khả năng thích nghi Nghiên cứu khoa học cần đứng ở vị trí tiên phong để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp Để phát triển khoa học và công nghệ, cần có chiến lược cụ thể cho từng giai đoạn, đồng thời Nhà nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ hợp lý nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ Sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố này sẽ thúc đẩy mối quan hệ cung - cầu tự nhiên giữa môi trường đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, từ đó củng cố mối liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp.
3.5.2 Gắn kết NCKH và nhu cầu KT - XH
Dựa trên phân tích mối quan hệ giữa nghiên cứu khoa học (NCKH) và nhu cầu kinh tế - xã hội (KT - XH) cũng như sản xuất kinh doanh (SXKD), cùng với các yếu tố quyết định ảnh hưởng đến mối quan hệ này tại Việt Nam, việc áp dụng đồng bộ các giải pháp liên kết theo mô hình tam giác sẽ giúp khắc phục nhanh chóng những tồn tại hiện nay.
Nhà nước, cả ở cấp địa phương và trung ương, đóng vai trò hỗ trợ thay vì chỉ ra lệnh, nhằm tạo ra nhu cầu xã hội về khoa học và công nghệ (KH&CN) phù hợp với định hướng phát triển Chính phủ có trách nhiệm xây dựng chính sách đổi mới dựa trên KH&CN, bao gồm hệ thống các chính sách liên quan đến KH&CN, kinh tế, thương mại và giáo dục Chính sách này nhấn mạnh đổi mới kinh tế là mục tiêu chính, đồng thời ưu tiên phát triển KH&CN và nguồn nhân lực Nhà nước cũng cần tạo ra môi trường thuận lợi để kết nối cung và cầu trong phát triển KH&CN, từ đó định hướng cho sự phát triển bền vững.
Nhà nước có trách nhiệm xây dựng cơ sở hạ tầng cho đổi mới, bao gồm các tổ chức khoa học và công nghệ chuyên nghiệp, vườn ươm, cùng với các tổ chức tài chính ngân hàng và phi ngân hàng nhằm hỗ trợ cho quá trình đổi mới Đồng thời, cần sớm hình thành hệ thống pháp luật để thực thi các mục tiêu đổi mới đã đề ra.
Nhà nước cần thiết lập chính sách xây dựng các công viên KH&CN tại các trường đại học trọng điểm nhằm thúc đẩy ươm tạo công nghệ mới và doanh nghiệp, cũng như triển khai sản xuất sản phẩm công nghệ cao Để bảo đảm sự duy trì và phát triển bền vững công nghệ sau khi đưa vào sản xuất và kinh doanh, các kết quả nghiên cứu sáng tạo công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, cần được chuyển giao cho doanh nghiệp qua quy trình chặt chẽ tại các công viên KH&CN Tại đây, các kết quả nghiên cứu sẽ được thử nghiệm, ổn định quy trình sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm và kiểm định thị trường, đồng thời chuẩn bị cho việc thành lập doanh nghiệp tại vườn ươm doanh nghiệp.
Đổi mới tư duy của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học cần được thực hiện thông qua việc tổ chức xây dựng các ưu tiên qua các chương trình khoa học và công nghệ (KH&CN) cũng như cơ chế hình thành các đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) Các chương trình KH&CN cấp nhà nước, được phát triển dựa trên yêu cầu của các Bộ và Ngành, nhằm hướng đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng cụ thể, tập trung và mang tính chiến lược cho đất nước.
Để định hướng nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu cho các đề tài trong chương trình, cần đảm bảo các đề tài phù hợp với nhu cầu kinh tế - xã hội và hướng tới mục tiêu chung Tên gọi của chương trình nên phản ánh nhiệm vụ hoặc mục tiêu cần đạt được, thay vì chỉ theo lĩnh vực khoa học và công nghệ Đặc biệt, cần phân biệt rõ giữa các lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn (ưu tiên) và các chương trình khoa học và công nghệ ưu tiên.
Chương trình KH&CN ưu tiên nhằm phục vụ cho định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch 5 năm, do đó, việc xác định các chương trình này cần dựa vào nhiệm vụ và mục tiêu chủ đạo thay vì chỉ tập trung vào lĩnh vực KH&CN ưu tiên hiện tại Các đề tài nghiên cứu thuộc chương trình cấp nhà nước thường mang tính liên ngành, ví dụ như trong đề tài bảo quản và chế biến nông sản, có sự tham gia của nhiều lĩnh vực như công nghệ sinh học, hóa học, cơ khí, tự động hóa và công nghệ thông tin.
Nhà nước cần thành lập và chỉ đạo một Hội đồng quốc gia để nghiên cứu và đề xuất các chương trình đặc biệt nhằm giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ chiến lược của đất nước Các chương trình này yêu cầu ưu tiên về kinh phí, nhân lực và trang thiết bị kỹ thuật cao Hệ thống nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sẽ được xác định dựa trên mục tiêu của chương trình và giao cho các trường đại học, viện nghiên cứu có năng lực, kèm theo điều kiện về trang thiết bị và chế độ ưu đãi cho các nhà khoa học tham gia.
* Về phía các cơ sở đào tạo, nghiên cứu:
Các cơ sở đào tạo và nghiên cứu, đặc biệt là các trường đại học trọng điểm, đóng vai trò quan trọng trong phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cũng như kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước Ở các quốc gia phát triển, nghiên cứu tiên phong chủ yếu diễn ra tại các trường đại học và viện nghiên cứu, với đội ngũ tham gia chủ yếu là học viên cao học, nghiên cứu sinh và thực tập sinh sau tiến sĩ Nghiên cứu ứng dụng và sáng tạo công nghệ cao mang tính liên ngành, yêu cầu sự hợp tác của các nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực, điều này là thế mạnh của các trường đại học Hơn nữa, việc chuyển giao bền vững kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất kinh doanh gắn liền với quá trình đào tạo kiến thức tổng hợp và đa dạng, thể hiện nhiệm vụ và ưu thế của các trường đại học.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN, các cơ sở đào tạo và nghiên cứu cần đổi mới tư duy và năng lực tổ chức của các nhà khoa học Đồng thời, việc nâng cao trình độ quản lý và tăng cường tính năng động, nhạy bén cũng như khả năng thích ứng với nhu cầu thực tiễn là rất quan trọng.
Dựa trên chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, các đơn vị đào tạo và nghiên cứu cần xây dựng các chương trình KH&CN ưu tiên, liên ngành phù hợp với nhu cầu thực tế sản xuất kinh doanh Các đề tài và dự án tham gia vào chương trình KH&CN cấp nhà nước và cấp bộ phải xuất phát từ các chương trình KH&CN của đơn vị, tận dụng năng lực và thế mạnh của mình.
Xây dựng vườn ươm công nghệ nhằm triển khai các đề tài ươm tạo, thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu từ phòng thí nghiệm vào sản xuất và đời sống Các kết quả thành công từ hệ thống vườn ươm này sẽ kết nối bền vững môi trường nghiên cứu với sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo động lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học theo nhu cầu xã hội trong các trường đại học Công nghệ chuyển giao cho doanh nghiệp từ vườn ươm công nghệ sẽ đảm bảo độ tin cậy, hiệu quả và tính bền vững.