1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội 002

136 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Kinh Tế Của Giai Cấp Tư Sản Việt Nam Đầu Thế Kỷ XX Qua Dòng Báo Chí Kinh Tế Hà Nội
Tác giả Bùi Công Nghiệp
Người hướng dẫn PGS.TS Phạm Xanh
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Lịch Sử Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 136
Dung lượng 1,34 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. SỰ RA ĐỜI CỦA DÕNG BÁO CHÍ KINH TẾ HÀ NỘI (15)
    • 1.1. Những chuyển biến về chính trị, kinh tế, văn hóa của Hà Nội đầu thế kỷ XX dưới tác động bởi chính sách thuộc địa của thực dân Pháp (15)
      • 1.1.1. Những chuyển biến về chính trị (15)
      • 1.1.2. Những chuyển biến về kinh tế (17)
    • 1.2. Sự ra đời và phát triển của báo chí ở Hà Nội và vai trò của báo chí (24)
      • 1.2.1. Sự xuất hiện của báo chí ở Việt Nam (24)
      • 1.2.2. Làng báo Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX (29)
    • 1.3. Khái quát về quá trình xuất hiện và những đặc điểm cơ bản của dòng báo kinh tế Hà Nội (33)
      • 1.3.1. Khái quát chung (33)
      • 1.3.2. Thực nghiệp dân báo (34)
      • 1.3.3. Khai Hóa nhật báo (36)
      • 1.3.4. Hữu Thanh tạp chí (37)
  • CHƯƠNG 2. DÕNG BÁO CHÍ KINH TẾ HÀ NỘI VỚI HOẠT ĐỘNG CHẤN HƢNG THỰC NGHIỆP CỦA GIAI CẤP TƢ SẢN VIỆT NAM (40)
    • 2.1. Hoạt động chấn hưng về “tư duy kinh tế” (0)
      • 2.1.1. Phê phán tư tưởng “trọng quan khinh nghệ”, kêu gọi thực học, thực nghiệp (40)
      • 2.1.2. Đánh giá đúng vị trí và vai trò của “nghề buôn” (43)
    • 2.2. Hoạt động chấn hưng thực nghiệp trong từng ngành kinh tế (0)
      • 2.2.1. Trong nông nghiệp (47)
      • 2.2.2. Trong công nghiệp (51)
      • 2.2.3. Trong thương nghiệp (57)
    • 3.1. Dòng báo kinh tế Hà Nội trong cuộc cạnh tranh giữa tư sản Việt (64)
    • 3.2. Dòng báo chí kinh tế Hà Nội trong việc bảo vệ quyền lợi chính trị và văn hóa của giai cấp tư sản Việt Nam (70)
      • 3.2.1. Bảo vệ quyền lợi chính trị (71)
      • 3.2.2. Bảo vệ quyền lợi văn hóa (74)
    • 3.3. Dòng báo chí kinh tế Hà Nội trong việc vận động thành lập hội đoàn và kêu gọi tinh thần đoàn kết trong giới công thương (75)
  • KẾT LUẬN (83)

Nội dung

SỰ RA ĐỜI CỦA DÕNG BÁO CHÍ KINH TẾ HÀ NỘI

Những chuyển biến về chính trị, kinh tế, văn hóa của Hà Nội đầu thế kỷ XX dưới tác động bởi chính sách thuộc địa của thực dân Pháp

kỷ XX dưới tác động bởi chính sách thuộc địa của thực dân Pháp

1.1.1 Những chuyển biến về chính trị

Vào cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã hoàn tất việc bình định Việt Nam và thiết lập ách cai trị trên toàn Đông Dương, đánh dấu bằng sự ra đời của Liên bang Đông Dương vào ngày 17-10-1887 Ban đầu, Liên bang chỉ gồm Việt Nam và Campuchia, với Lào gia nhập vào năm 1899 Pháp áp dụng chế độ “chia để trị”, chia Việt Nam thành ba vùng: Nam Kỳ thuộc địa, Trung Kỳ bảo hộ và Bắc Kỳ bán bảo hộ, trong khi Campuchia và Lào cũng dưới chế độ bảo hộ Hà Nội, trung tâm Bắc Kỳ, trở thành thủ phủ của Đông Dương, nơi đặt trụ sở của Phủ toàn quyền và các cơ quan đầu não của thực dân Pháp.

Từ năm 1883 đến 1888, thực dân Pháp đã thiết lập chính quyền cai trị Hà Nội thông qua việc thành lập Hội đồng tư vấn thành phố vào tháng 10-1885, do một Công sứ người Pháp đứng đầu Hội đồng này có nhiệm vụ tư vấn về đường sá, an ninh và các vấn đề vệ sinh của thành phố, nhưng các ý kiến chỉ mang tính chất tham khảo cho Thống sứ Bắc Kỳ Sự tồn tại của Hội đồng không ảnh hưởng đến tổ chức hành chính của các xã xung quanh Hà Nội hay quyền hạn của các thân hào và công chức người Việt Chỉ vài tháng trước khi Hà Nội trở thành "nhượng địa", Tổng thống Pháp đã ban hành sắc lệnh vào ngày 19-07-1888, công nhận Hà Nội là thành phố cấp I, từ đó Hội đồng tư vấn chính thức chuyển thành Hội đồng thành phố và tiếp tục hoạt động cho đến năm 1945.

Trong bối cảnh hoàn thiện bộ máy quản lý, thực dân Pháp đã thiết lập hệ thống cảnh sát, quân đội, nhà tù và tòa án nhằm đàn áp các hoạt động chống đối từ phía nhân dân Đông Dương, đặc biệt là tại Hà Nội.

Bộ máy cảnh sát thành phố Hà Nội được thành lập vào ngày 31-12-1891 theo nghị định của quan toàn quyền, với mục đích bảo vệ an ninh trật tự cho bọn xâm lược và làm công cụ đàn áp nhân dân Hà Nội Hoạt động của cảnh sát Hà Nội được hỗ trợ tích cực từ tổ chức mật thám Bắc Kỳ, đặc biệt trong việc khủng bố và đàn áp các phong trào cách mạng, khiến cuộc sống của người dân Hà Nội vào đầu thế kỷ trở nên khó khăn.

XX không hề dễ thở, biến nơi đây thành chốn mà "trường học dạy trẻ em về Tuyên ngôn nhân quyền, trong khi mật thám lại bắt giam những ai hiểu rõ bài học đó" [22, tr.132].

Tại Hà Nội, vào ngày 15-09-1896, thực dân Pháp đã thành lập Hội đồng đề hình Hà Nội nhằm xét xử những người Việt Nam yêu nước chống lại thực dân Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ Tòa án Nam án được đặt tại Hà Nội, cụ thể là tòa Thượng thẩm Hà Nội, là một tòa án đặc biệt do hai viên quan người Việt phụ trách Tuy nhiên, hai viên quan này được Chính phủ Nam triều chỉ định theo sự lựa chọn của Toàn quyền Đông Dương.

Kể từ năm 1888, thành phố Hà Nội đã nằm dưới quyền kiểm soát của thực dân Pháp, đánh dấu sự bắt đầu của một hệ thống chính quyền cai trị hoàn chỉnh Đến đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã thiết lập các cơ quan như Tòa Đốc lý, Hội đồng thành phố, bộ máy cảnh sát, tòa án và nhà tù, từ đó củng cố nền thống trị của họ và tạo cơ sở vững chắc cho công cuộc khai thác thuộc địa tại Hà Nội.

1.1.2 Những chuyển biến về kinh tế

Trước khi bắt tay vào khai thác thuộc địa tại Việt Nam nhằm thu lợi từ nguồn nhân lực và tài nguyên, thực dân Pháp đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ đời sống và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế.

Pháp đã tiến hành quy hoạch lại thành phố Hà Nội, biến nơi đây thành một đô thị hiện đại hơn Quá trình xây dựng thành phố bắt đầu ngay từ khi thực dân Pháp chưa hoàn tất việc bình định Bắc Kỳ Có thể chia quá trình phát triển Hà Nội dưới thời Pháp thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu tiên từ 1875 đến 1888, và giai đoạn tiếp theo từ 1888.

Kể từ năm 1888, khi Hà Nội trở thành thành phố thuộc địa, Pháp đã tăng cường xây dựng và mở rộng thành phố, chia thành hai khu vực: một cho người Âu và một cho người bản xứ Khu vực người Âu không chỉ tập trung ở phía Nam mà còn mở rộng sang khu thành cổ, với các đại lộ, vỉa hè và cây xanh Năm 1914, Đốc lý thành phố quyết định chia Hà Nội thành 8 khu để quản lý hiệu quả hơn Khu vực phía Đông Hồ Gươm được phát triển thành trung tâm hành chính, tín ngưỡng và thương mại, nhằm khuyến khích người Pháp định cư lâu dài Đồng thời, người Pháp cũng chỉnh trang 36 phố phường, phá bỏ cổng ngăn, mở rộng đường và tạo hệ thống thoát nước, làm cho phố cổ trở nên rộng rãi hơn và mất đi tính khép kín Các công trình hành chính thời kỳ này mang tính thực dụng, dựa trên nguyên tắc đối xứng và công năng đơn giản.

Hệ thống đường sá ở Hà Nội đã được nâng cấp đáng kể với các phố dài, rộng và sạch sẽ, hình thành dạng ô bàn cờ Sự xuất hiện của người Pháp đã mang đến các phương tiện vận tải mới, bắt đầu với xe kéo tay Năm 1899, công ty thổ địa Đông Dương ký hợp đồng với chính quyền thành phố để phát triển hệ thống đường xe điện Đầu thế kỷ XX, sân bay đầu tiên ở Vị Thủy được xây dựng, nhưng ngành hàng không dân dụng chủ yếu phục vụ cho quân đội thực dân Pháp Ngoài ra, xe đạp, xe máy và ô-tô cũng xuất hiện, chủ yếu được sử dụng bởi người Pháp và tầng lớp giàu có Chính quyền thực dân đầu tư vào hệ thống giao thông nội thành để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của một thành phố kiểu châu Âu, trong khi hệ thống giao thông nối Hà Nội với các vùng khác chủ yếu phục vụ cho việc khai thác tiềm năng kinh tế của thuộc địa.

Bên cạnh việc mở mang hệ thống giao thông vận tải, thực dân Pháp cũng chú ý phát triển một số những ngành kinh tế mới

Nhà máy công nghiệp phục vụ lợi ích công cộng như điện và nước đã ra đời sớm trong quá trình quy hoạch đô thị Hà Nội Năm 1893, nhà máy nước Hà Nội bắt đầu cung cấp nước sạch cho thành phố, tiếp theo là nhà máy nước Yên Phụ được xây dựng từ 1904-1906 với 6 giếng nước Tuy nhiên, đến năm 1909-1910, hệ thống lọc nước mới được xây dựng, trong khi cư dân chủ yếu vẫn sử dụng nước giếng, ao, hồ Điện cũng xuất hiện tại Hà Nội vào tháng 1-1895, nhưng công suất ban đầu rất nhỏ Năm 1902, nhà máy điện Bờ Hồ được xây dựng với công suất 500kw, phục vụ chủ yếu cho khu phố Tây, trong khi khu phố người Việt vẫn sống trong cảnh tối tăm Hệ thống đèn điện đã biến Hà Nội thành nơi lung linh, đô hội, với con đường Clémenceau bên sông Hồng trở thành điểm dạo mát nổi tiếng, nơi có các nhà máy xay xát, nhà máy nước đá và xưởng sửa chữa ô tô.

Hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp nhẹ đã có nhiều thay đổi nhờ vào sự phát triển của máy móc và công nghệ hiện đại Vào tháng 12 năm 1894, nhà máy sợi Hà Nội của Bouguer Mefferer được khánh thành với chi phí xây dựng và thiết bị lên tới 1,5 triệu Francs Đến năm 1898, Pháp thành lập nhà máy rượu đầu tiên tại Hà Nội, áp dụng phương pháp AMYLO, dựa trên nghiên cứu của giám đốc viện Pasteur-Sài Gòn Lợi nhuận từ việc độc quyền sản xuất rượu đã thúc đẩy người Pháp mở chi nhánh Công ty Pháp nấu cất rượu tại Đông Dương Ngoài ra, họ cũng thiết lập các nhà máy giày da Thụy Khuê và nhà máy thuốc lá tại Hà Nội.

Ngành tài chính ngân hàng tại Việt Nam đã có những bước phát triển mới mẻ từ khi Ngân hàng Đông Dương được thành lập vào ngày 21/01/1875, với trụ sở chính tại Paris và chi nhánh tại Hà Nội vào năm 1886 Ngân hàng không chỉ phát hành giấy bạc mà còn tham gia vào hoạt động trao đổi, buôn bán và đầu tư tài chính, góp phần quan trọng vào nền kinh tế Việt Nam, vốn phụ thuộc nhiều vào các nhà tư bản ngân hàng Bên cạnh đó, thực dân Pháp cũng thành lập các Nông phố ngân hàng và quỹ tín dụng để hỗ trợ nông dân vay vốn phát triển sản xuất Nguồn vốn từ ngân hàng và tư bản tư nhân đã đóng góp đáng kể vào việc xây dựng bộ mặt kinh tế mới ở Hà Nội, nơi thu hút phần lớn nguồn vốn đầu tư từ Pháp, chiếm 95% tổng số vốn trong lĩnh vực thương mại và 50% trong lĩnh vực công nghiệp tại Bắc Kỳ.

Ngành dịch vụ bưu chính - viễn thông đã xuất hiện tại Hà Nội với sự ra đời của mạng lưới điện thoại vào ngày 5-5-1903, khi Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thiết lập mạng lưới này Nghị định quy định nhà nước độc quyền trong lĩnh vực thông tin Đến ngày 19-04-1906, thực dân Pháp chính thức khai thác mạng lưới điện thoại liên tỉnh Hà Nội – Hải Phòng, nhằm phục vụ cho việc khai thác thuộc địa và đời sống của cư dân Pháp tại khu vực Bắc Kỳ.

Sự ra đời và phát triển của báo chí ở Hà Nội và vai trò của báo chí

1.2.1 Sự xuất hiện của báo chí ở Việt Nam

Báo chí đã nhanh chóng trở thành công cụ quan trọng trong việc tuyên truyền các chính sách của thực dân Pháp tại Việt Nam, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như quân sự, kinh tế, chính trị và giáo dục Sự xuất hiện của báo chí ở Việt Nam chủ yếu phục vụ cho mục đích của thực dân Pháp.

“phô trương sự hào nhoáng của văn minh Âu-Tây, hòng tấn công làm suy sụp tinh thần những người còn hoài vọng vương triều nhà Nguyễn” [37, tr.12]

Nam Kỳ là nơi ra đời tờ báo đầu tiên và phát triển ngành báo chí sớm nhất, nhờ vào việc Pháp kiểm soát vùng đất này sớm Ba điều kiện chính cho sự hình thành báo chí ở đây bao gồm: sự du nhập nghề in hoạt bản, sự hoàn thiện chữ Quốc ngữ, và một lượng độc giả đông đảo từ giới đô thị và quan lại Báo chí trở thành công cụ thông tin và quảng bá chính sách của thực dân Tờ báo đầu tiên là Công báo tiếng Pháp, Bulletin official de L’expédition de Cochinchine (BOEC), chứa đựng các văn kiện quan trọng từ thống đốc Nam Kỳ nhằm quản lý các vùng đất thuộc Pháp.

Năm 1861, Đô đốc Bonard cho ra mắt tờ báo thứ hai mang tên Bulletin des Communes, được viết bằng chữ Hán nhằm truyền đạt thông tin cho dân chúng Tiếp theo, tờ báo thứ ba, Bulletin du Comité agricol et industriel de la Cochichine, được phát hành bằng tiếng Pháp với mục đích nghiên cứu về nông nghiệp và công nghệ, đồng thời khởi xướng cuộc đấu xảo hàng năm để khuyến khích phát triển hai ngành nghề này.

Nhìn chung, các tờ báo đầu tiên chủ yếu là tiếng Pháp và do người Pháp xuất bản Chúng bao gồm cả các công báo của nhà nước lẫn các tờ báo tư nhân, nhưng chủ yếu tập trung vào những vấn đề liên quan đến chính quyền thuộc địa.

Ngành báo chí Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự hoàn thiện của chữ Quốc ngữ, một "công trình tập thể" do nhiều giáo sĩ dòng Tên và các thầy giảng người bản xứ đóng góp Trong các thế kỷ XVII, XVIII và XIX, chữ Quốc ngữ chủ yếu được sử dụng trong Giáo hội và trong một phạm vi hạn chế, nhưng sau này đã được áp dụng rộng rãi trong báo chí tại Nam Kỳ, với Trương Vĩnh Ký là một trong những người hoạt động tích cực nhất.

Giá trị của chữ Quốc ngữ chỉ được khẳng định rõ ràng vào thế kỷ XX, đặc biệt trong phong trào Duy tân, khi các nhà yêu nước như Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu kêu gọi việc học chữ Quốc ngữ Dù ra đời muộn, chữ Quốc ngữ dựa trên hệ thống mẫu tự Latinh đã được áp dụng rộng rãi tại Đông Dương, với các kiểu chữ được sản xuất tại Paris Tuy nhiên, do có quá nhiều dấu phụ, nên cần phải tạo riêng khuôn mẫu cho các nguyên âm như a, à, á, ả, ã, ạ.

Tờ Gia Định báo, ra đời vào năm 1865, là tờ báo Quốc ngữ đầu tiên tại Nam Kỳ Tờ báo không chỉ cung cấp thông tin mà còn đăng tải các nghị định và thông tư của chính phủ Dưới sự lãnh đạo của Trương Vĩnh Ký, Gia Định báo đã trở thành một nguồn thông tin quan trọng cho người dân thời bấy giờ.

Ký đã chuyển Gia Định báo từ một công báo thành một tờ báo thông thường, với nhiệm vụ cổ động lối học mới, phát triển chữ Quốc ngữ và khuyến khích dân chúng học chữ Quốc ngữ, qua đó ông đã đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam Sau này, báo chí tiếng Pháp đã mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa và khảo cứu, đặc biệt kể từ khi Luật tự do báo chí đầu tiên được ban hành ở Nam Kỳ.

Bắt đầu từ những nhà báo người Pháp, Việt Nam đã chứng kiến sự xuất hiện của các thế hệ nhà báo Việt, chủ yếu là những trí thức Tây học, tiếp xúc nhanh chóng với nền văn minh phương Tây Vào đầu thế kỷ XX, làng báo Việt Nam phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều tờ báo và những tên tuổi nổi bật như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Tản Đà và Phạm Quỳnh.

Từ năm 1915, không khí làng báo Việt Nam trở nên sôi nổi, phản ánh sự tiến bộ rõ rệt về hình thức và nghề báo.

Vào ngày 22/9/1881, sắc lệnh về báo chí đầu tiên được ban hành và áp dụng tại Nam Kỳ, cho phép áp dụng Luật tự do báo chí của Pháp, ban hành ngày 29/7/1881 Tuy nhiên, luật này chỉ áp dụng cho các tờ báo xuất bản bằng tiếng Pháp.

Vào cuối thế kỷ XIX, sự hiện diện sớm của người Pháp và các điều khoản ưu tiên đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của báo chí tiếng Pháp tại Nam Kỳ.

Bên cạnh các công báo của nhà nước, báo chí tư nhân đầu tiên như Le Gong đã xuất hiện, đánh dấu sự phát triển của truyền thông chính trị Tiếp theo là các tạp chí khảo cứu, đóng vai trò là cơ quan ngôn luận cho các tổ chức liên quan đến khai thác thuộc địa, như Bulletin du Comité agricole et industriel de la Cochinchine, chuyên đăng tải các bài nghiên cứu và điều tra về tình hình thuộc địa Một ví dụ khác là Bulletin de la Societé des Etudes Indochinoises, góp phần vào việc nghiên cứu và hiểu biết về Đông Dương.

Những xu hướng này cũng xuất hiện ở Bắc Kỳ, nơi báo chí ra đời muộn hơn

Tờ báo đầu tiên ở Bắc Kỳ cũng là một tờ báo tiếng Pháp Đó là tờ

Bulletin Officiel du Protectorat de l’Ánnam et du Tonkin (Công báo của nền

Tờ báo "Bảo hộ xứ Trung và Bắc Kỳ" được xuất bản vào năm 1883, là tiếng nói của đội quân viễn chinh, với số đầu tiên đăng tải các văn kiện về việc triều đình Huế đầu hàng Năm 1886 đánh dấu sự ra đời của tạp chí thuộc Uỷ ban canh nông và kỹ nghệ xứ Bắc Kỳ, cùng với sự xuất hiện của tờ báo tư nhân đầu tiên.

Le courrierd’Hải Phòng (Tin tức Hải Phòng)…

Sắc lệnh đầu tiên áp dụng cho tất cả các loại báo bằng mọi thứ tiếng được ký vào ngày 30/12/1898 và công bố vào ngày 30/1/1899, đánh dấu mốc gần 40 năm sau khi tờ báo đầu tiên ra đời Nội dung chính của sắc lệnh này quy định rõ ràng về các quy tắc và yêu cầu đối với hoạt động báo chí.

- Chủ nhiệm, chủ bút phải là người Pháp hoặc có quốc tịch Pháp

- Không có giấy phép, tuyệt đối cấm không được ra báo, dù là báo bằng tiếng Pháp

- Tuyệt đối cấm không được viết, in, lưu hành, bán hoặc nhập các loại sách, báo, tranh ảnh có hại cho chính quyền (thực dân)

Khái quát về quá trình xuất hiện và những đặc điểm cơ bản của dòng báo kinh tế Hà Nội

Tờ báo kinh tế đầu tiên trong làng báo chí quốc ngữ Việt Nam là tờ

Nông cổ mím đàm ra đời năm 1901 ở Nam Kỳ Trên măng – xét báo ghi là “

Causeries sur I’ agriculture et le commerce” tức là “Uống trà nói chuyện nông nghiệp và thương mại” Nổi bật trong nội dung của tờ báo này là mục

“Thương cổ luận” giới thiệu kinh nghiệm thương mại, nông nghiệp và công nghiệp, trong khi mục “Lời rao” phản ánh sự chuyển biến kinh tế - xã hội tại Nam Kỳ Trong giai đoạn này, tờ Lục tỉnh tân văn, dưới sự lãnh đạo của Trần Chánh Chiếu, nổi bật với vai trò cổ vũ phong trào duy tân, khuyến khích chấn hưng dân trí và hợp tác kinh doanh nhằm chống lại sự độc quyền của tư bản Pháp và cạnh tranh từ người Hoa, người Ấn Tại Hà Nội, “Đăng cổ tùng báo” - tờ báo quốc ngữ đầu tiên, thể hiện tư tưởng tiến bộ về kinh tế và nhấn mạnh rằng “làm giàu tức là ái quốc” Tờ báo này khẳng định rằng nếu tiền không ở trong tay người An Nam, họ sẽ không còn cơ hội làm nghề, dẫn đến tình trạng đói nghèo Đây chính là tiếng nói đầu tiên về “lòng ái quốc” mà giai cấp tư sản Việt Nam khởi xướng trong các phong trào tẩy chay khách trú sau này.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng, chuyển mình từ một tầng lớp thành một giai cấp có ý thức về quyền lợi Đặc biệt, bộ phận tư sản dân tộc đã có sự gia tăng đáng kể về tài chính nhờ vào hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn trước Sự phát triển này đã dẫn đến đời sống báo chí sôi nổi, tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều tờ báo kinh tế tại Hà Nội, nổi bật là Thực nghiệp dân báo, Khai Hóa nhật báo và Hữu Thanh tạo chí.

Thực nghiệp dân báo được thành lập nhờ sự hợp tác của ba nhà tư sản dân tộc nổi bật thời bấy giờ: Nguyễn Hữu Thu, Bùi Huy Tín và Bùi Đình Tá Nguyễn Hữu Thu, một chủ tàu lớn, đã sở hữu hơn mười tàu chở khách hoạt động trên các tuyến sông và ven biển Bắc Kỳ, cũng như đến Nam Hải và Bắc Hải Ông còn đầu tư vào ngành khai thác mỏ với mỏ than Mùa Xuân tại Quảng Yên Bùi Huy Tín, một doanh nhân thành đạt, là chủ các đồn điền ở Phú Thọ, Thanh Hoá, Quảng Ninh và sở hữu nhà in Thực nghiệp.

Hà Nội, với sự ủng hộ của Bùi Đình Tá, giám đốc công ty Đông Ích Hội, đã chứng kiến sự tham gia của Nguyễn Hữu Thu và Bùi Huy Tín trong các hoạt động chính trị tại Hội đồng thành phố Hà Nội và các tổ chức khác Được sự cho phép của Toàn quyền Đông Dương, Thực nghiệp dân báo phát hành số đầu tiên vào ngày 12-2-1920, ban đầu ra hai kỳ mỗi tuần và sau đó trở thành báo hàng ngày, mỗi số gồm 4 trang, kích thước 61cm x 45,5cm, được in tại nhà in của Bùi Huy Tín Tòa soạn đặt tại 43 phố Hoàn Kiếm, với Bùi Huy Tín là chủ nhiệm và Trần Văn Quang là chủ bút, sau này là Bùi Đình Tá Thực nghiệp dân báo đã hoạt động trong 13 năm, phát hành hơn 3000 số, trước khi đình bản vào ngày 24-9-1933.

Măng-sét là một tờ báo có sứ mệnh quan trọng trong việc cung cấp thông tin về đường phổ thông, truyền bá học thuật, tư tưởng và âm tín, đồng thời nghiên cứu và tổ chức các hoạt động liên quan đến đời sống thực nghiệp của mọi gia đình.

Dù nội dung chính của tờ báo tập trung vào việc thúc đẩy thực nghiệp và phục hồi kinh tế, như đã đề cập trong bài viết "Mấy lời thỏ thẻ cùng bạn tri ân", nhưng vẫn cần chú trọng đến các giải pháp cụ thể và hiệu quả để đạt được mục tiêu này.

Tâm sự của bản báo thể hiện chủ nghĩa, phương châm và mục đích của nó, với mong muốn góp sức giúp đỡ quốc dân trong lĩnh vực nông thương kỹ thuật Bản báo hy vọng rằng thế giới thực nghiệp của đất nước sẽ được nâng cao nhờ sự chỉ dẫn từ nước Đại Pháp, qua đó xây dựng một tương lai rực rỡ và thịnh vượng.

Nội dung của Thực nghiệp không chỉ giới hạn ở khía cạnh kinh tế mà còn bao gồm nhiều chuyên mục phong phú như thông tin thị trường hàng hóa, tin tức từ Pháp, Trung Hoa, Nhật Bản và các quốc gia khác Bên cạnh đó, phần văn học nghệ thuật với các mục như “Thi đàn” và “Truyền ảnh tiểu thuyết” cũng rất đa dạng Đặc biệt, chuyên mục về phụ nữ với tiêu đề “Phụ nữ thời bàn” hay “Lời đàn bà” thu hút sự quan tâm Các vấn đề thời sự liên quan đến kinh tế, chính trị và văn hóa của Việt Nam và thế giới được đăng tải trên trang nhất với những bình luận sâu sắc, thể hiện quan điểm đa chiều của tờ báo Đội ngũ tác giả của Thực nghiệp dân báo rất đa dạng, bao gồm các nhà tư sản lớn, nghị viên Viện dân biểu Bắc Kỳ và các trí thức Tây học, góp phần làm phong phú thêm nội dung báo chí.

Sau một năm ra mắt Thực nghiệp dân báo, Hà Nội chào đón tờ nhật báo kinh tế thứ hai mang tên Khai Hóa nhật báo, phát hành số đầu tiên vào ngày 15-7-1921 Tờ báo được sáng lập bởi nhà tư sản Bạch Thái Bưởi, với Lê Văn Phúc là chủ bút đầu tiên, tiếp theo là Đỗ Thận, Lê Sĩ Tố và Lê Xuân Hựu.

Toàn soạn báo Khai Hóa tọa lạc tại số 82 phố Hàng Gai, Hà Nội, và được in ấn tại nhà in Đông kinh ấn quán Báo Khai Hóa đã hoạt động trong suốt 7 năm.

Số cuối cùng 1713 ra ngày 10-9-1927

Khai Hóa nhật báo bao gồm 4 trang, với trang đầu đăng các bài luận thuyết, văn vần, văn xuôi, cùng với mục doanh hải tùng đàm và các bài dư luận Trang hai tập trung vào thời sự và tiểu thuyết, trong khi hai trang còn lại chủ yếu dành cho quảng cáo Nội dung quảng cáo rất đa dạng, bao gồm hàng tiêu dùng, sách báo, vận tải, thuốc, rao hàng, đăng việc riêng và xổ số.

Sự ra đời của Khai Hóa nhật báo đã được chào đón nồng nhiệt, đánh dấu sự xuất hiện của một đồng nghiệp mới trong giới báo chí, mở ra cơ hội giao hàng cho các nhà thương mại, cung cấp một diễn đàn cho các nhà văn, và tạo điều kiện cho các hội đoàn trong việc cổ động văn hóa và xã hội Tờ báo này hứa hẹn sẽ góp phần thúc đẩy sự tiến bộ văn hóa trong nước.

Khai Hóa nhật báo được thành lập nhằm mục đích khuyến khích người dân tự giáo dục lẫn nhau, duy trì và cải cách văn hóa truyền thống một cách hài hòa, kết hợp các giá trị văn hóa cũ với văn minh mới Tờ báo cũng góp phần vào việc phát triển ngôn ngữ quốc gia và mở rộng các cơ hội thực nghiệp cho cộng đồng.

Sau khi Thống sứ Bắc Kỳ Rivet ký quyết định số 1933 vào ngày 31-7-

Năm 1920, khi Hội Bắc Kỳ Công Thương Đồng Nghiệp được thành lập, ý tưởng về việc ra mắt một tờ báo làm cơ quan ngôn luận cho hội đã được đề xuất Vào ngày 5-1-1921, Hội trưởng Nguyễn Huy Hợi đã đại diện cho hội gửi đơn xin phép Thống sứ Bắc Kỳ để phát hành một tạp chí mang tên

Sau khi thảo luận, Hội quyết định chọn tên gọi "Hữu Thanh" cho tạp chí, mang ý nghĩa "tiếng gọi bạn" theo điển tích trong thơ Phạt Mộc, cụ thể là bài thơ ca ngợi tình bằng hữu trong Tiểu Nhã Kinh Thi.

DÕNG BÁO CHÍ KINH TẾ HÀ NỘI VỚI HOẠT ĐỘNG CHẤN HƢNG THỰC NGHIỆP CỦA GIAI CẤP TƢ SẢN VIỆT NAM

Hoạt động chấn hưng thực nghiệp trong từng ngành kinh tế

Để phát triển nền thương mại và công nghệ của đất nước, cần xóa bỏ tư tưởng coi thường nghề buôn và thương nhân Việc tôn trọng vai trò của những người lái buôn là rất quan trọng, bởi họ có khả năng tạo ra nguồn lợi lớn cho nền kinh tế Chỉ khi nhận thức đúng về giá trị của nghề buôn, chúng ta mới có thể thúc đẩy sự phát triển bền vững cho thương mại và công nghệ.

Giai cấp tư sản Việt Nam đã tiếp nối tư tưởng của tầng lớp sĩ phu tiến bộ, tích cực tuyên truyền qua báo chí về tư duy kinh tế hiện đại, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư tưởng kinh tế Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất Họ đã sử dụng báo chí như một "cẩm nang" để thay đổi tư duy và cung cấp kiến thức cũng như phương pháp mới cho từng ngành kinh tế.

2.2 Hoạt động chấn hƣng thực nghiệp trong từng ngành kinh tế

Trong giai đoạn hiện nay, báo chí kinh tế Việt Nam thường nhấn mạnh tầm quan trọng của "thực nghiệp" và kêu gọi "chấn hưng thực nghiệp" Giai cấp tư sản Việt Nam coi thực nghiệp là nguyên liệu thiết yếu để đảm bảo cuộc sống ấm no và làm giàu cho đất nước Họ xem đây là thước đo cho sự tiến hóa và phát triển xã hội, nhấn mạnh rằng trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, việc phát triển thực nghiệp là yếu tố quyết định cho sự tiến bộ về vật chất và đời sống xã hội.

Giai cấp tư sản Việt Nam nhấn mạnh rằng việc làm giàu hiệu quả nhất là thông qua việc chấn hưng thực nghiệp, bao gồm nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp Trong ba lĩnh vực chủ yếu này, cần tìm ra phương pháp để mở rộng và phát triển.

Trong giai cấp tư sản Việt Nam, một số thành viên có nguồn gốc từ tầng lớp địa chủ giàu có, đặc biệt là các địa chủ Nam Kỳ Sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa đã thúc đẩy họ thay đổi tư duy và phương thức canh tác truyền thống.

Vào đầu thế kỷ XX, các nhà tư bản Việt Nam đã nhận thấy những hạn chế lớn của ngành nông nghiệp trong nước Họ cho rằng để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, cần có bốn yếu tố thiết yếu: lao động, tư bản, cơ khí và sự hỗ trợ Tuy nhiên, cả bốn yếu tố này đều đang ở mức yếu kém tại Việt Nam.

Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế về lao động với nguồn nhân công dồi dào và tính cần cù của người lao động Họ thường thức khuya dậy sớm, chăm chỉ làm việc bất chấp thời tiết Tuy nhiên, đặc điểm này chủ yếu thấy rõ ở người dân Bắc Kỳ, trong khi người dân Nam Kỳ lại có xu hướng lười biếng, dù vùng đất này có nhiều ruộng tốt Hệ quả là tiềm năng lao động và lợi ích từ đất đai chưa được khai thác hiệu quả, dẫn đến lãng phí nguồn tài nguyên quý giá.

Tư bản trong xã hội hiện nay chủ yếu thể hiện qua sở hữu nhỏ, với chỉ một số ít cá nhân nắm giữ quy mô lớn Ngoài những đại phú gia, nông dân thường chỉ sở hữu vài mẫu đất hoặc vài sào, và trong nhiều mùa vụ, họ phải vay lãi để có vốn sản xuất Thiếu thốn về tài sản, nhiều người còn phải thuê mượn trâu bò để phục vụ cho việc cày cấy.

Trong lĩnh vực cơ khí, việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp còn thiếu thốn, dẫn đến tình trạng nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên Họ không biết cách lựa chọn giống cây trồng tốt, cải thiện thổ nhưỡng, phòng ngừa hạn hán và tích trữ nước hiệu quả Điều này khiến cho mọi khía cạnh của sản xuất nông nghiệp trở nên bấp bênh và không ổn định.

Hỗ trợ trong xã hội là điều cần thiết để xây dựng một nền tảng vững chắc, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Việc hợp tác giữa các nhà điền chủ là rất quan trọng trong các công việc như khai kênh, đắp bờ và đặt cống Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn nhiều khuyết điểm trong các hoạt động công ích này.

Một trong những biện pháp được giới tư sản đưa ra để chấn hưng nông nghiệp là cải lương nông giới

Muốn cải lương nông giới, có những việc cần thi hành ngay, trước hết là phải có nông báo và nông học

Nông báo đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá khoa học kỹ thuật và hướng dẫn nông dân cách làm kinh tế nông nghiệp hiệu quả Nó giúp nông dân cập nhật những tiến bộ mới nhất trong ngành nông nghiệp toàn cầu, từ đó định hướng sản xuất và tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường Việc này không chỉ nâng cao năng suất mà còn giúp nông dân xây dựng thế mạnh cạnh tranh trong lĩnh vực nông nghiệp.

Nông học là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều khoa học liên quan đến nghề nông như thực vật học, động vật học, hóa học, vật lý học, thiên văn học, tạo tác học, kinh tế học và toán học Việc nắm vững kiến thức về nông học là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của nông nghiệp.

Trong nông nghiệp, nông cụ truyền thống vẫn chiếm ưu thế, với sức kéo chủ yếu từ trâu bò Do đó, cải thiện chế độ dinh dưỡng cho trâu bò là cần thiết, bao gồm việc lập nơi giồng cỏ cho chúng Để nâng cao chất lượng nông nghiệp, cần chuyển dịch cơ cấu cây trồng sang các loại cây có giá trị kinh tế cao và lai tạo giống mới Việc nhập khẩu cây ngoại quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp Hơn nữa, cần kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, đảm bảo rằng nơi sản xuất gần gũi với nơi chế biến, như vùng trồng cỏ nuôi bò phải có nhà máy chế biến sữa, hay khu vực trồng bông cần có nhà máy dệt.

Để phát triển nông nghiệp, cần thành lập các hội nông nghiệp với nhiều hình thức khác nhau, như hội bảo trợ nghề làm ruộng, hội bảo hiểm cho gia súc trong trường hợp dịch bệnh, và hội hỗ trợ nông dân trong thời kỳ hạn hán hoặc lũ lụt Ngoài ra, cũng nên có hội khai khẩn đất đai ở vùng thượng du, hội xuất nhập khẩu nông sản, và hội hợp tác vốn để hỗ trợ nông dân.

Theo các nhà tư sản Việt Nam, nông nghiệp nước ta kém phát triển do thiếu vốn sản xuất Họ cho rằng, "nghề nông xứ ta không chấn hưng được vì nông dân sống trong cảnh ngặt nghèo Để có đủ tư bản kinh doanh, họ buộc phải vay mượn, nhưng lãi suất cao khiến tình hình càng thêm khó khăn."

Dòng báo kinh tế Hà Nội trong cuộc cạnh tranh giữa tư sản Việt

Cạnh tranh là phương pháp quan trọng giúp tư sản Việt Nam bảo vệ không gian sinh tồn Trong đó, cạnh tranh kinh tế được xem là yếu tố then chốt, trong khi cạnh tranh trí não đóng vai trò quyết định cho sự thành công.

Giai cấp tư sản Việt Nam, ngay từ khi hình thành, đã phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ tư sản Pháp và tư sản Hoa Kiều Chính sách bảo hộ của chính quyền thuộc địa và nước Pháp đã biến Đông Dương thành thị trường độc quyền của tư bản Pháp Mặc dù tư bản Hoa Kiều có sự nổi bật ban đầu, nhưng sau đó đã không thể cạnh tranh nổi với sức mạnh của tư bản Pháp.

Tư sản Việt Nam cảm thấy bị đe dọa bởi sự gia tăng của người ngoại quốc trong thị trường, dẫn đến việc họ phải cạnh tranh với tư sản Hoa Kiều để giành lại thị phần Cuộc đấu tranh này không chỉ diễn ra trên thương trường mà còn được phản ánh qua các phương tiện truyền thông, giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về tình hình kinh tế hiện tại.

Cộng đồng Hoa kiều ở Việt Nam đã thiết lập một mối quan hệ thương mại bền chặt từ lâu đời, và đến đầu thế kỷ XX, họ đã trở thành một thế lực lớn trong thị trường và hoạt động thương mại Họ có mặt ở mọi nơi, từ thành phố lớn đến vùng quê hẻo lánh, với hàng hóa phong phú Để tăng cường sức cạnh tranh, người Hoa kiều đã thành lập nhiều hội đoàn thương mại, như Hội thương gia Hoa kiều Nam kỳ (1900) và Tổng hội thương mại Hoa kiều Việt Nam (1904), cùng với các hội ngân hàng, vận tải và kinh doanh nông sản Đặc biệt, họ cũng phát hành Nam kỳ hoa kiều nhật báo nhằm cổ động và bảo vệ quyền lợi cho cộng đồng hơn 200.000 người này.

Phong trào “Tẩy chay khách trú” diễn ra năm 1919, khởi đầu ở Nam

Phong trào tẩy chay hàng hóa Hoa Kiều lan rộng khắp cả nước, từ Hải Phòng, Hà Nội đến các tỉnh như Nam Định, Phủ Lý, Thái Bình, với nhiều hoạt động biểu tình và rải truyền đơn diễn ra tự do trên đường phố Người tham gia chủ yếu là sinh viên các trường cao đẳng, con cháu gia đình tư sản, cùng một số viên chức, với khẩu hiệu "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" và "Người Việt Nam không gánh hàng đi đổ sông Ngô" Các tổ chức đứng ra phát động phong trào này chủ yếu là giai cấp tư sản Việt Nam, trong đó nổi bật là những thương gia giàu có như Nguyễn Hữu Vĩnh, Bạch Thái Bưởi và Nguyễn Hữu Thu Tại Hà Nội, phong trào đã trở nên bạo lực khi đám đông người Việt xông vào phá hoại cửa hiệu của người Hoa.

Phong trào "khách trú" xuất phát từ mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế, nhằm đoạt lại thị phần từ tay tư sản Hoa Kiều và thúc đẩy phong trào chấn hưng thực nghiệp trong nước Báo cáo cuối năm 1919 của toàn quyền Đông Dương nhận xét rằng mặc dù phong trào tẩy chay có phần quá trớn, nhưng nó phản ánh sự đổi mới trong tư tưởng; trước đây, người Nam Kỳ không chỉ không thích mà còn sợ việc buôn bán, nhưng giờ đây họ nhận ra tầm quan trọng của thương mại và cần nỗ lực hơn trong lĩnh vực này.

Phong trào tẩy chay Khách trú mang tính chính trị do tư bản Pháp xúi giục, nhằm cạnh tranh với tư sản Hoa Kiều và gây chia rẽ giữa Việt Nam và Trung Quốc Đối với giai cấp tư sản Việt Nam, phong trào này không chỉ cổ vũ cho các hoạt động kinh tế mà còn kích thích tinh thần dân tộc, đôi khi có phần cực đoan.

Sau khi phong trào “Tẩy chay Khách trú” hạ nhiệt, báo chí đã có cơ hội phân tích sâu sắc về cuộc tranh thương giữa tư sản Việt Nam và Hoa Kiều tại Đông Dương Các bài viết từ báo chí, đặc biệt là những tờ của giai cấp tư sản, đã phản ánh chân thực phong trào này từ góc độ kinh tế và chính trị Mặc dù không đạt được kết quả như mong muốn do sự can thiệp của chính quyền thuộc địa, phong trào đã làm lung lay đáng kể đế chế hàng Tàu và khơi dậy tinh thần trọng thương ở Việt Nam Cuộc thảo luận về buôn bán trở thành chủ đề phổ biến, với mọi người đều quan tâm đến các khía cạnh như buôn gì, buôn ở đâu, và bán cho ai, cho thấy sự chuyển biến trong tư duy kinh tế của người dân.

Thực nghiệp dân báo, tờ báo kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc, đã nhanh chóng chú trọng đến mối quan hệ giữa tư sản Việt Nam và tư sản Hoa kiều ngay từ khi ra đời Trong những năm đầu, báo đã đăng tải nhiều bài bình luận sâu sắc, tiêu biểu như “Bao giờ người An Nam ta mới thoát nỗi đem vàng đi đổ sông Ngô”, “Cuộc thương chiến sao cho quyết thắng”, và “Thế lực người Trung Hoa ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ khác nhau như thế nào”, thể hiện sự quan tâm đến ảnh hưởng của người Hoa đối với kinh tế Việt Nam.

Một số tác giả trong các bài viết đã bày tỏ sự chỉ trích mạnh mẽ đối với cách thức kinh doanh của người Hoa khi làm ăn với người Việt.

Người khách và người Nam xảy ra xung đột, với ký giả nhận định rằng: "Nhiều người từ phương Bắc sang Nam mở cửa hàng, thường lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân địa phương để thu lợi Tuy nhiên, chỉ cần có một chút xích mích là họ lập tức dùng bạo lực, trong khi người Nam vẫn tiếp tục đến cửa hàng của họ."

Trong bài viết "Cách đối đãi của bọn Khách chú đối với ta," tác giả nhấn mạnh tinh thần dân tộc, phê phán hành vi hà hiếp của kẻ xâm lược Ông đặt câu hỏi về quyền lực của họ, cho rằng không thể chấp nhận việc họ coi mình có quyền áp bức người khác như trong quá khứ.

Đối với những người không nhận thức, việc nhịn nhục chỉ khiến họ càng lấn tới, không thể chấp nhận việc bị coi thường Chúng ta không thể tiếp tục mua sắm từ những kẻ có thái độ thô bạo, và cần phải có sự đáp trả tương xứng Nếu họ đối xử tốt với chúng ta, chúng ta cũng sẽ đáp lại bằng sự tôn trọng Ngược lại, nếu họ tiếp tục áp đặt chính sách cứng rắn, chúng ta sẽ không ngần ngại đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình và không chấp nhận sự nhục nhã.

Hầu hết các bài viết trên Thực nghiệp dân báo thể hiện sự khâm phục của nhiều ký giả đối với phương thức kinh doanh và tinh thần đoàn kết của người Trung Hoa Họ cho rằng người Việt nên học hỏi cách kinh doanh của người Tàu thay vì tẩy chay họ Trong bài viết "Người Trung Hoa đối với ta có nhiều điều mật thiết," ký giả Nhật Tân nhấn mạnh rằng nếu người Tàu chiếm lĩnh thị trường, chúng ta nên tự trách mình thay vì ghen ghét họ Ghen ghét không chỉ vô ích mà còn gây khó khăn cho thế hệ sau Chính phủ đã can thiệp để ngăn chặn những hành động đuổi người Tàu ra ngoài, vì thời đại hiện nay là thời đại giao thương, không phải thời kỳ khép kín Chúng ta nên mở rộng tầm nhìn và học hỏi những kỹ năng khôn khéo từ người Trung Hoa.

Nhiều ký giả cũng đã nhận thấy được bí quyết thành công lớn nhất của người Tàu chính ở ở tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau như trong bài

Người Trung Hoa kinh doanh tại Việt Nam đạt được thành công bền vững không chỉ nhờ vào khả năng buôn bán mà còn nhờ vào tinh thần tương trợ lẫn nhau Khi một cửa hàng gặp khó khăn, các cửa hàng khác sẽ chung tay hỗ trợ tài chính để giúp họ duy trì hoạt động, từ đó củng cố sức mạnh tập thể của cộng đồng thương nhân Trong suốt nhiều năm qua, chưa bao giờ có trường hợp nào mà các cửa hàng Trung Hoa lại cạnh tranh khốc liệt đến mức làm tổn hại lẫn nhau, mà ngược lại, họ luôn tìm cách bảo vệ lợi ích chung.

Dòng báo chí kinh tế Hà Nội trong việc bảo vệ quyền lợi chính trị và văn hóa của giai cấp tư sản Việt Nam

Phương châm làm báo của các nhà tư sản Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của chính trị, học vấn, đạo đức và trí thức trong thực nghiệp Chính trị là yếu tố bảo hộ cho thực nghiệp, trong khi học vấn là nền tảng cho sự phát triển Đạo đức giúp xây dựng lòng tin, còn trí thức là chìa khóa cho sự phục hưng Nhà thực nghiệp cần có cái nhìn toàn diện, từ những người lao động đến giới quý tộc, mở rộng phạm vi báo chí để bao quát mọi lĩnh vực như nông, công, thương, cũng như các vấn đề về học vấn và cách ứng xử trong xã hội.

Bảo vệ quyền lợi chính trị và văn hóa là yếu tố quan trọng bên cạnh quyền lợi kinh tế, góp phần vào sự phát triển của công thương nghiệp và sự lớn mạnh của giới tư sản Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.

3.2.1 Bảo vệ quyền lợi chính trị

Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt trên thương trường, vai trò bảo hộ của nhà nước đối với hoạt động công thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, trở nên vô cùng quan trọng Các nhà tư sản Việt Nam đã kêu gọi nhà nước thành lập một bộ thương vụ nhằm định hướng và bảo trợ cho thương dân, khuyến khích nhập khẩu hàng hóa ngoại nếu nội địa không đủ cung ứng, đồng thời hạn chế nhập khẩu những sản phẩm mà nội địa đã sản xuất đủ Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi của thương giới mà còn góp phần bảo vệ lợi ích chung của giới tư sản Việt Nam, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và các nhà công thương trong thời kỳ đó.

Trong bài viết “Nên có phòng thương mại ở Bắc Kỳ” các nhà tư sản Việt Nam nêu ra:

Tại Bắc Kỳ, đặc biệt là Hà Nội và Hải Phòng, nghề thương mại đang phát triển mạnh mẽ với sự gia tăng giao dịch và sự xuất hiện của nhiều cửa hàng bán lẻ Điều này cho thấy sự hình thành một nền tảng đủ vững để tổ chức một phòng thương mại riêng Tuy nhiên, phòng thương mại Tây chủ yếu tập trung vào buôn bán lớn, khiến cho các nhà buôn địa phương ít được hưởng lợi, mặc dù có một số đại diện An Nam tham gia nhưng vai trò của họ chủ yếu chỉ mang tính hình thức Giai cấp tư sản Việt Nam ngày càng nhận thức rõ ràng về vị thế của mình trong bối cảnh chính trị của đất nước.

Người dân cảm thấy bất bình khi không được hưởng những quyền lợi chính trị xứng đáng tại quê hương Do đó, hoạt động của báo chí kinh tế đã sớm phản ánh và phần nào đáp ứng được nguyện vọng của giới tư sản trong nước.

Qua báo chí, các nhà tòng sự yêu cầu được nghỉ vào ngày chủ nhật và các ngày lễ, nhấn mạnh rằng họ cũng có quyền bầu cử và nghỉ ngơi như những người làm việc tại các sở nhà nước khác Họ bày tỏ sự bất công khi không được hưởng đầy đủ quyền lợi, cho rằng tư cách của họ không kém hơn so với các nhà tòng sự ở các sở công thương Họ cảm thấy rằng, xét về quyền lợi, họ chưa thực sự có được quyền của người dân, mặc dù nhiều đồng nghiệp của họ đang làm việc rất vất vả mà không được công nhận.

Một trong những hoạt động nổi bật của Hội Bắc Kỳ Công thương đồng nghiệp là yêu cầu quyền bầu cử và thi hành luật lao động cho giới công thương Họ đã gửi đơn kiến nghị lên chính quyền, như trong cuộc gặp với đại diện nghị viện Pháp vào ngày 21-2-1923, khi họ yêu cầu quyền bầu cử cho đồng nghiệp bản xứ và đề xuất áp dụng luật lao động tại thuộc địa Tương tự, trong buổi yết kiến toàn quyền Merlin vào ngày 22-11-1923, họ đã thỉnh cầu thi hành các điều khoản luật để đảm bảo quyền lợi cho những người làm việc tại các sở tư, tương đương với quyền lợi của quan lại và nhân viên nhà nước.

Trong môi trường thuộc địa, các bạn đồng nghiệp công thương mỗi khi

"Các yêu cầu đều phải được đệ trình lên phòng thương mại Họ tích cực ứng cử và vận động cho các nhà tư sản Việt Nam tham gia, với hy vọng rằng việc ông hội trưởng hội được bầu làm hội viên trong phòng thương mại sẽ mang lại lợi ích lớn cho các đồng nghiệp Khi đã có mặt trong tổ chức này, họ không ngừng nỗ lực bảo vệ quyền lợi cho cộng đồng của mình."

Chúng tôi đã nỗ lực kêu cứu và tranh luận tại hội trường nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà thương mại bản xứ Điều quan trọng là những yêu cầu của các nhà tư sản Việt Nam không chỉ nằm trên giấy mà đã được chính quyền Pháp chấp nhận và thực thi Trong hội đồng ngày 11-6-1923, ông Nguyễn Huy Hợi đã đối mặt với yêu cầu từ sở hỏa xa và nhận được sự đồng thuận từ cả hội đồng cũng như báo chí Hoạt động bảo vệ quyền lợi của các hội viên người Việt trong Phòng thương mại còn thể hiện qua việc bảo vệ thị phần, nguồn nguyên liệu và nguồn lao động, nhằm duy trì những lợi thế cho hoạt động kinh doanh trong nước.

Trong lĩnh vực thương nghiệp, tư tưởng “trọng nông ức thương” đã tạo ra sự phân biệt rõ rệt giữa thương dân và các tầng lớp khác trong xã hội Để bảo vệ quyền lợi cho thương giới, nhà nước cần ưu đãi thương dân, nhằm chấn hưng thương mại Một trong những biện pháp có thể áp dụng là trao tặng huy hiệu hoặc danh sắc cho thương dân, thể hiện sự công nhận và khuyến khích hoạt động thương mại.

“khi giao thiệp, thương dân với quan giới và giới khác nhất để bình quyền

Những nhận định cho thấy các nhà tư sản Việt Nam đã không chỉ dừng lại ở ý thức mà còn đưa ra giải pháp thực tiễn để bảo vệ quyền lợi của mình Mặc dù các hoạt động bảo vệ quyền lợi chính trị trên báo chí giai đoạn này chưa đi sâu vào việc vạch trần chính sách cai trị của thực dân Pháp, điều này không khó hiểu trong bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội thuộc địa thời bấy giờ Tất cả những nỗ lực này là những biểu hiện tích cực, từng bước khẳng định vị thế của giới tư sản Việt Nam trên chính trường.

3.2.2 Bảo vệ quyền lợi văn hóa

Bảo vệ quyền lợi văn hóa của giới tư sản Việt Nam là một phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh, với đạo đức nghề nghiệp đóng vai trò hàng đầu Các nhà tư sản coi trọng việc tiếp đãi khách hàng một cách lịch sự và tử tế, khẳng định chữ tín là yếu tố quyết định Trên các trang báo kinh tế, các bài viết về luân lý và văn hóa kinh doanh thường xuyên xuất hiện, cho thấy sự quan tâm của giới tư sản đối với vấn đề này Họ cũng tổ chức các hoạt động văn hóa và tài trợ cho các chương trình xã hội, như diễn kịch và quyên góp cho trẻ mồ côi, nhằm tạo nguồn kinh phí cho các hoạt động từ thiện và nâng cao vị thế xã hội.

Kinh doanh văn hóa là hoạt động nổi bật của giai cấp tư sản Việt Nam, đặc biệt với sự ra đời của Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp Một trong những dấu ấn quan trọng là sự thành lập của Ích Hữu Thư Xã vào ngày 14/8/1921, với mục tiêu biên tập và xuất bản sách báo nhằm chấn hưng văn học nước nhà Ích Hữu Thư Xã không chỉ hỗ trợ các tác giả trong việc in ấn và tiêu thụ sách, mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển văn hóa và xã hội Việt Nam Vũ Đình Long, tác giả của nền kịch nói Việt Nam, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của thư xã như một nhà buôn chủ trong xuất bản, cho rằng sách vở báo chí là công cụ mạnh mẽ truyền bá văn minh và khai hóa quốc dân, từ đó khẳng định sự cần thiết của thư xã cho sự tiến bộ của dân tộc.

Hội Ích Hữu thư xã, hoạt động dựa trên sự đóng góp của các nhà tư sản trong Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp, không chỉ tập trung vào lợi nhuận như các hội kinh tế khác mà còn coi trọng việc phát triển văn học và phong hóa đất nước Họ khẳng định rằng: “Lập nên hội buôn là việc cầu lợi, song cái hội buôn của chúng tôi đây là một cái hội nhà in, xuất bản tạp chí và kiêm việc tu thư, giúp vào việc văn chương, học thuật, luân lý, cương thường.” Quan niệm này đã khơi dậy tinh thần vì việc nghĩa, hướng đến những giá trị cao cả của cuộc sống, đồng thời đáp ứng nhu cầu vật chất của các hội viên trong cuộc sống hằng ngày.

Dòng báo chí kinh tế Hà Nội trong việc vận động thành lập hội đoàn và kêu gọi tinh thần đoàn kết trong giới công thương

và kêu gọi tinh thần đoàn kết trong giới công thương

Vào đầu thế kỷ XX, hoạt động lập các hội công thương của giới tư sản Việt Nam đã tạo ra ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống kinh tế xã hội Dưới sự lãnh đạo của các nhà Nho cấp tiến như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, phong trào yêu nước và duy tân tự cường đã bùng nổ Nhiều nhà Nho yêu nước đã thành lập các hăng buôn nhằm gây quỹ cho phong trào yêu nước và khuyến khích đồng bào theo con đường thực nghiệp Một số hăng buôn tiêu biểu bao gồm Quảng Hợp Ích (Hà Nội), hăng dệt chiếu Nam Phong (Thái Bình), Triêu Dương thương quán (Vinh), Công ty nước mắm Liên Thành (Phan Thiết), Nam Đồng Hương (Sài Gòn) và Minh Tân công nghệ xã (Cần Thơ), do các nhà Nho như Nghiêm Xuân Quảng, Ngô Đức Kế, Đặng Nghiêm Cẩn, Trần Chánh Chiếu lãnh đạo.

Lớp nhà Nho yêu nước không phải là những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, mà chỉ là những người khởi nghiệp với động cơ yêu nước chủ yếu Mặc dù động cơ kiếm lợi cũng tồn tại, nhưng không phải là lý do chính thúc đẩy họ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đội ngũ nhà hoạt động trong lĩnh vực công thương tại Hà Nội và các đô thị khác đã tăng lên đáng kể Họ đã nhận thức rõ về tình hình kinh tế xã hội và bắt đầu có nhu cầu bảo vệ quyền lợi, đồng thời hình thành ý thức giai cấp Đây là nền tảng tư tưởng quan trọng cho sự ra đời của các hội đoàn tư sản Việt Nam.

Việc thành lập các hội công thương mang lại nhiều lợi ích cho tư sản Việt Nam, như được nhấn mạnh bởi Đoàn Đình Nguyên, người sáng lập hội thầu khoán ái hữu nhằm bảo vệ quyền lợi trong thương mại Bùi Huy Tín, khi thành lập Trung Kỳ công thương gia hội, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo cơ hội giao lưu giữa các hội viên để thảo luận về công thương, từ đó xây dựng mối liên kết hỗ trợ lẫn nhau, phát triển lòng yêu thích thương mại và kỹ nghệ trong cộng đồng An Nam Hội cũng nhằm mục đích thúc đẩy nền kinh tế quốc gia, cung cấp một diễn đàn cho các hội viên bày tỏ ý kiến và thông tin liên quan đến kinh tế địa phương, đồng thời yêu cầu các nhà chức trách thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển công thương và bảo vệ quyền lợi chung của hội viên.

Việc thành lập hội không chỉ giúp tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường, mà còn là một chiến lược hiệu quả để giành lại các quyền lợi kinh tế từ các nhà tư sản nước ngoài.

Tôi mong muốn thành lập một hội trách nhiệm tập hợp các công ty, trong đó tôi sẽ đảm nhận vai trò chủ nhiệm Qua đó, chúng ta sẽ nhanh chóng có nhiều người am hiểu các nghề khác nhau, từ đó có thể giành lại quyền lợi từ tay người Nhật Bản.

Hội có vai trò quan trọng trong việc tập hợp nguồn vốn lớn từ các doanh nhân Việt Nam, giúp họ hợp tác để phát triển kinh doanh lớn hơn Việc kết hợp các nhà buôn nhỏ thành một nhà buôn lớn giúp duy trì giá cả và quyền lợi trên thị trường Đầu thập niên 20 của thế kỷ XIX, Việt Nam đã hình thành nhiều hội đoàn khác nhau, từ hội in sách, hội in báo đến các hội chuyên về thương mại và công nghệ, cho thấy sự đa dạng và phong phú trong hoạt động cộng đồng nhằm bảo vệ lợi ích và phát triển trí thức.

Nghiên cứu hội công thương thời kỳ này không thể bỏ qua Hội Bắc

Kỳ công thương đồng nghiệp Thông qua cơ quan ngôn luận của nó là

Hữu thanh tạp chí là hội đoàn lớn nhất ở Đông Dương trong thời kỳ này, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình hình thành, phát triển và các hoạt động cơ bản của nó.

Năm 1920, một nhà tư sản ở Hà Nội, ông Nguyễn Huy Hợi, đã nêu ra ý tưởng thành lập một hội đoàn nhằm giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau giữa những người bạn thân thiết Ý tưởng này không chỉ nhằm tạo ra một tổ chức để thăm nom và bảo vệ nhau, mà còn thể hiện nghĩa vụ của mỗi người trong xã hội Ngay lập tức, sáng kiến của ông đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ các bạn bè, vượt ra ngoài phạm vi của những người đồng sự gần gũi.

Ngày 17/10/1920, Hội Bắc kỳ công thương đồng nghiệp chính thức họp đại hội đồng thành lập tại hội quán hội Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội

Hội quán của hội chánh Hà Nội tọa lạc tại số 58 phố Hàng Bông, hiện nay là 18 phố Mã Vỹ (nay là phố Hàng Nón) và 59 phố Hàng Gai, Hà Nội.

Hội Bắc ký công thương đồng nghiệp được thành lập với mục đích tạo dựng tình hữu ái và nghĩa đồng bào giữa các thành viên, nhằm thông tin và hỗ trợ lẫn nhau trong công việc Điều lệ của hội nhấn mạnh sự cần thiết phải giúp đỡ hội viên trong những lúc khó khăn và tổ chức tang lễ khi cần thiết Tôn chỉ hoạt động của hội là mối tương thân tương trợ, được thể hiện rõ trong các hoạt động của ban trị sự và hội viên Sau 20 năm, mục đích này vẫn được duy trì với việc xây dựng tình bằng hữu giữa các đồng nghiệp Các nhà sáng lập hội ý thức rõ ràng về mục tiêu của mình, không chỉ đơn thuần lập hội theo trào lưu mà còn muốn tạo ra một liên kết bền vững giữa các thành viên, đặc biệt là trong cộng đồng lãnh đạo công thương, nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết của các nhà công thương Việt Nam trong bối cảnh kinh tế xã hội thuộc địa.

Trong quan niệm của các nhà tư sản đương thời, tình hữu ái được định nghĩa là sự yêu mến mật thiết giữa mọi người, thể hiện qua việc hỗ trợ lẫn nhau trong những công việc thiết thực và có ích Họ nhấn mạnh rằng không nên phân biệt sang hèn hay giàu nghèo, mà cần thể hiện lòng nhân ái, đặc biệt là khi thấy người khác gặp khó khăn hay hoạn nạn, thì phải sẵn sàng giúp đỡ và bảo vệ lẫn nhau.

Trong bối cảnh xã hội đang chuyển mình và cạnh tranh ngày càng gay gắt, các nhà tư sản đã thành lập Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp nhằm củng cố tình hữu ái trong cộng đồng người Việt Họ nhận thức rõ sức mạnh của tình hữu ái trong việc phát triển kỹ nghệ, thương trường và thịnh vượng quốc gia Các thành viên trong hội cùng nhau hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong kinh doanh với nguyên tắc lấy tình tương thân tương ái làm nền tảng Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp không ngừng mở rộng và hoàn thiện tổ chức, thực hiện nhiều hoạt động đa dạng để phát triển cộng đồng và bảo vệ quyền lợi chung trong thời đại cạnh tranh khốc liệt.

Sau một thời gian hoạt động, Hội đã mở rộng ra ngoài Bắc Kỳ, với các chi hội hiện diện khắp ba miền đất nước.

Hà Nội, Hội có nhiều chi hội nổi bật tại các thành phố như Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Tourane, Sài Gòn và Lộc Ninh, nhanh chóng khẳng định vị thế là “đoàn thể lớn nhất toàn cõi Đông Dương”.

Ngày đăng: 02/07/2022, 09:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, NXB Văn Học, 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ
Nhà XB: NXB Văn Học
2. Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, NXB Lao động, Hà Nội, 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bốn mươi năm nói láo
Nhà XB: NXB Lao động
3. Nguyễn Công Bình, Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc, NXB Văn-Sử-Địa, Hà Nội, 1959 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc
Nhà XB: NXB Văn-Sử-Địa
4. Đặng Thị Vân Chi, Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám 1945, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám 1945
5. Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1987 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam
Nhà XB: NXB Sự Thật
8. George Dutton, Ly Toet in the city, Comming to Tém with the Morden in 1930, Viet Nam, Toumal of Vietnams study, inssue 2, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Comming to Tém with the Morden in 1930, Viet Nam, Toumal of Vietnams study
9. Andre Duymarext, Sự hình thành các giai cấp xã hội ở xứ Annam, Tài liệu đánh máy, TVQG, 1974. (VL74.00006) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự hình thành các giai cấp xã hội ở xứ Annam
10. Đại học quốc gia Hà Nội-Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
11. Nguyễn Khánh Đàm, Lịch trình tiến hoá sách báo Quốc ngữ, Sài Gòn, 1942 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch trình tiến hoá sách báo Quốc ngữ
12. Trần Văn Giàu, Giai cấp công nhân Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội, 1958 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giai cấp công nhân Việt Nam
Nhà XB: NXB Sự thật
13. Đoàn Tế Hanh, Một số vấn đề nông dân qua báo chí tiếng Việt trong những năm 1936-1939, Luận án PTS Lịch sử, Hà Nội, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề nông dân qua báo chí tiếng Việt trong những năm 1936-1939
14. Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông, Thăng Long Hà Nội mười thế kỷ đô thị hóa, Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1995 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thăng Long Hà Nội mười thế kỷ đô thị hóa
Nhà XB: Nxb Xây dựng
15. Đỗ Quang Hưng, Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H, 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945
Nhà XB: NXB Đại học quốc gia Hà Nội
17. H.Lamagat, Souveirs d’un vieux journaliste indochinois, Hà Nội, 1942 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Souveirs d’un vieux journaliste indochinois
18. Nguyễn Văn Khánh, Cơ cấu kinh tế-xã hội Việt Nam thời thuộc địa 1858-1945, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H, 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ cấu kinh tế-xã hội Việt Nam thời thuộc địa 1858-1945
Nhà XB: NXB Đại học quốc gia Hà Nội
19. Nguyễn Văn Khánh-Phạm Kim Thanh, Mấy nhận xét về kinh tế hàng hóa ở Hà Nội thời kỳ thực dân Pháp đô hộ và tạm chiếm, Nghiên cứu lịch sử, Số 12-2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mấy nhận xét về kinh tế hàng hóa ở Hà Nội thời kỳ thực dân Pháp đô hộ và tạm chiếm
20. Nguyễn Văn Khánh, Việt Nam 1919-1930: thời kỳ tìm tòi và định hướng, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam 1919-1930: thời kỳ tìm tòi và định hướng
Nhà XB: NXB Đại học quốc gia Hà Nội
21. Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh nghĩa thục, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đông Kinh nghĩa thục
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
22. Trần Huy Liệu, Lịch sử thủ đô Hà Nội, Nxb Hội sử học, Hà Nội, 1960 23. Phan Đăng Long, Biến đổi văn hoá đô thị Hà Nội trước năm 1945, Tạpchí Xưa và Nay, số 329, tháng 4-2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử thủ đô Hà Nội", Nxb Hội sử học, Hà Nội, 1960 23. Phan Đăng Long, "Biến đổi văn hoá đô thị Hà Nội trước năm 1945, Tạp "chí Xưa và Nay
Nhà XB: Nxb Hội sử học
24. Trần Viết Nghĩa, Hoạt động chấn hưng thực nghiệp của tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 7-2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động chấn hưng thực nghiệp của tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: Danh mục tác tờ báo công kha iở Hà Nội trƣớc năm 1930 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội  002
Bảng 1 Danh mục tác tờ báo công kha iở Hà Nội trƣớc năm 1930 (Trang 31)
Bảng 1.4 -Bảng mô hình ma trận SWOT - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội  002
Bảng 1.4 Bảng mô hình ma trận SWOT (Trang 35)
Bảng 2. 1- Dự báo kinh tế Việt Nam 2007-2008 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội  002
Bảng 2. 1- Dự báo kinh tế Việt Nam 2007-2008 (Trang 53)
413 Tình hình kỹ nghệ nước ta 6-3-1922 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội  002
413 Tình hình kỹ nghệ nước ta 6-3-1922 (Trang 99)
353 Vũ Văn Định Hình ảnh cố nhân 86 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội  002
353 Vũ Văn Định Hình ảnh cố nhân 86 (Trang 124)
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ THỰC NGHIỆP DÂN BÁO, KHAI HÓA NHÂT BÁO VÀ HỮU THANH TẠP CHÍ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam đầu thế kỉ XX qua dòng báo chí kinh tế Hà Nội  002
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ THỰC NGHIỆP DÂN BÁO, KHAI HÓA NHÂT BÁO VÀ HỮU THANH TẠP CHÍ (Trang 131)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN