Đề tài: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN .....................................................................................2 1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:..............................................2 1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:.................................................4 CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................................7 2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: .................................................7 2.1.1. Chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam và ý chí kiên cƣờng trong đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc:........................................................................................................7 2.1.2. Tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hòa hiếu với các dân tộc lân bang: .........................................................................................................9 2.1.3. Tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan:.............................................13 2.1.4. Tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc: .....................................................................15 2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại: ...................................................................................16 2.2.1. Tinh hoa văn hóa phƣơng Đông:.....................................................................16 2.2.2. Tinh hoa văn hóa phƣơng Tây: .......................................................................23 2.2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin:..................................................................................25 CHƢƠNG 3: NHÂN TỐ CHỦ QUAN HỒ CHÍ MINH...................................................28 3.1. Phẩm chất Hồ Chí Minh:........................................................................................28 3.2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận:......................................42 KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................................46 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................47 LỜI MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh là Ngƣời thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, là Anh hùng giải phóng dân tộc, là Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, là Ngƣời chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Tƣ tƣởng của Ngƣời đã soi đƣờng cho cách mạng Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi. Dƣới ánh sáng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc và thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc, bƣớc đầu giành “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011) đã nêu khái niệm “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh” nhƣ sau: “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nƣớc ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đƣờng cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Có thể thấy, là một hệ thống lý luận, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh có cấu trúc logic chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó là tƣ tƣởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời. Thực tế cho thấy, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam dẫn lối cho con đƣờng cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta. Hiểu rõ đƣợc tầm quan trọng của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của dân tộc Việt Nam, thấy đƣợc việc nghiên cứu và phân tích cơ sở hình thành nên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Để hiểu rõ cơ sở thực tiễn, lý luận và nhân tố chủ quan hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh thì nhóm 4 chúng em xin đƣợc đi sâu nghiên cứu về đề tài: “Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.”
CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào năm 1858, thực dân Pháp chính thức xâm lược Việt Nam bằng việc nổ súng vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng Triều đình nhà Nguyễn dần dần khuất phục trước sự xâm lược của thực dân Pháp, ký kết nhiều hiệp ước đầu hàng và thừa nhận chế độ bảo hộ của Pháp trên toàn quốc, từ đó trở thành tay sai cho thực dân.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước chống Pháp xâm lược diễn ra liên tục, với nhiều cuộc khởi nghĩa nổi bật như của Trương Định và Nguyễn Trung Trực ở miền Nam, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Phan Đình Phùng ở miền Trung, cùng các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hoàng Hoa Thám ở miền Bắc Các phong trào này, đặc biệt là dưới ngọn cờ "Cần Vương", thể hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ của nhân dân, nhưng cuối cùng đều thất bại do giai cấp phong kiến đã suy tàn và không còn đủ sức bảo vệ độc lập dân tộc.
Sau khi hoàn tất việc bình định quân sự tại Việt Nam, thực dân Pháp đã bắt đầu khai thác thuộc địa một cách mạnh mẽ, dẫn đến sự chuyển biến từ một quốc gia phong kiến sang một nước thuộc địa Quá trình này đã làm thay đổi cơ cấu giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam.
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu vẫn chiếm ưu thế với 95% dân số là nông dân, trong khi giai cấp địa chủ được củng cố bởi các điền chủ người Pháp và nước ngoài Bên cạnh đó, xã hội Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của các giai tầng mới như công nhân, tư sản và tiểu tư sản ở thành phố Những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến giữa nông dân và địa chủ đã phát triển thành các xung đột mới giữa giai cấp công nhân Việt Nam với tư sản, cũng như giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp Những yếu tố này đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho phong trào yêu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
Vào đầu thế kỷ XX, sự biến đổi trong xã hội Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, chịu ảnh hưởng từ các cuộc vận động cải cách và cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc, cùng với tấm gương Duy Tân.
Trong thời kỳ đầu thế kỷ 20, Nhật Bản đã ảnh hưởng đến Việt Nam, dẫn đến sự hình thành các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản Những phong trào này được khởi xướng bởi các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách, bao gồm Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo (1905-1909), Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908), và Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền cùng một số nhân sĩ khác khởi xướng (tháng 3-1907 đến tháng 11-1907) Ngoài ra, phong trào chống đi phu và chống sưu thuế tại Trung Kỳ vào năm 1908 cũng là một phần quan trọng trong cuộc đấu tranh yêu nước này.
Phát huy truyền thống yêu nước, các sĩ phu Nho học như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã nỗ lực tổ chức cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp với tư tưởng tiến bộ Tuy nhiên, phương pháp cầu viện và bạo lực của Phan Bội Châu đã thất bại, trong khi chủ trương nâng cao dân trí của Phan Châu Trinh cũng không đạt kết quả Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đều không thành công do giai cấp tư sản Việt Nam còn yếu và thiếu đường lối cách mạng đúng đắn Dù tinh thần yêu nước vẫn mạnh mẽ, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước đã diễn ra, đặt ra câu hỏi cần tìm ra con đường mới để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của họ tại Việt Nam đã đánh dấu một bước chuyển mình quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mở ra những dấu hiệu mới cho một thời đại đang hình thành.
Cuối thế kỷ XIX, công nhân Việt Nam còn ít ỏi và không ổn định, nhưng đến đầu thế kỷ XX, họ đã phát triển thành một giai cấp trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) Công nhân Việt Nam phải đối mặt với ba tầng áp bức: thực dân, tư bản và phong kiến, dẫn đến việc họ sớm đứng lên đấu tranh chống lại giới chủ Từ những hình thức đấu tranh thô sơ như đốt lán trại và bỏ trốn tập thể, họ nhanh chóng chuyển sang đình công và bãi công.
Giai cấp công nhân là lực lượng dũng cảm và cách mạng nhất, luôn kiên cường đối mặt với các thế lực đế quốc thực dân Phong trào công nhân cùng với các phong trào yêu nước đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do.
Đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa Mác-Lênin xâm nhập và phát triển Hồ Chí Minh là nhân vật chủ chốt trong việc truyền bá chủ nghĩa này vào phong trào công nhân và yêu nước, đồng thời chuẩn bị về lý luận chính trị và tổ chức, góp phần sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam Điều này đã chấm dứt khủng hoảng trong đường lối cách mạng Việt Nam và đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh Thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong cách mạng Tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong kháng chiến chống Mỹ đã bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên mọi phương diện.
Nguyễn Tất Thành, một thanh niên yêu nước, sinh ra trong bối cảnh lịch sử đầy khó khăn và bế tắc của dân tộc, đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước và cứu dân Vào ngày 5-6-1911, từ cảng Nhà Rồng, Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), Người mang theo lòng yêu nước mãnh liệt và quyết tâm "làm bất cứ việc gì để sống và để đi" nhằm hiện thực hóa hoài bão cứu nước.
Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trong bối cảnh con thuyền Việt Nam vẫn đang lạc lối và chưa tìm thấy bến bờ, việc cứu nước trở nên khó khăn như trong đêm tối không có lối thoát Đồng thời, lịch sử thế giới cũng đang trải qua những biến chuyển mạnh mẽ trong giai đoạn này.
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, dẫn đến sự gia tăng xâm lược thuộc địa của các nước đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ, và Đức Nhu cầu nguyên liệu và thị trường đã thúc đẩy các nước này chi phối tình hình toàn cầu, khiến phần lớn các quốc gia châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh trở thành thuộc địa Trong khi các nước đế quốc gia tăng bóc lột nhân dân lao động trong nước, họ cũng áp bức các dân tộc thuộc địa, tạo ra cuộc sống cực khổ cho người lao động Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đã làm trầm trọng thêm tình hình đời sống của nhân dân các nước bị xâm lược.
Tình hình hiện tại đã làm gia tăng mâu thuẫn vốn có trong chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản tại các quốc gia tư bản Mâu thuẫn này ngày càng trở nên sâu sắc hơn, thể hiện rõ nét trong các vấn đề xã hội và kinh tế hiện nay.
Vào đầu thế kỷ XX, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt, phản ánh sự xung đột giữa các quyền lợi của các quốc gia đế quốc và những khát vọng độc lập của các dân tộc phụ thuộc.
Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ Cuộc chiến tranh này gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 1,5 tỷ người bị cuốn vào vòng khói lửa, 10 triệu người chết, trên 20 triệu người bị thương), đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ Giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong muốn chung của giai cấp vô sản quốc tế; thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển
Cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào cách mạng toàn cầu, đỉnh điểm là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 Sự kiện vĩ đại này không chỉ thay đổi cục diện chính trị mà còn "thức tỉnh các dân tộc châu Á".
Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin tại một quốc gia lớn, đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng và làm rung chuyển toàn cầu Thành công của cuộc Cách mạng đã phá vỡ mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc, trở thành động lực cho các dân tộc thuộc địa đấu tranh chống lại áp bức của giai cấp tư sản Điều này cũng thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc và phong trào Cộng sản, giúp giai cấp vô sản tự tin bước vào chính trường với vai trò trung tâm Cách mạng đã lật đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, thiết lập một xã hội xã hội chủ nghĩa, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, đồng thời tạo ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Ngày 2-3-1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đƣợc công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào
Năm 1920 đã xác định rõ ràng phương hướng đấu tranh cho sự giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường cho các dân tộc bị áp bức theo lập trường cách mạng vô sản Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế Cộng sản đã tích cực lan tỏa chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga, từ đó thúc đẩy sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của các đảng cộng sản trên toàn thế giới.
Với khát vọng tìm con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua nhiều năm bôn ba khắp thế giới Đến tháng 7 năm 1920, tại Paris, thủ đô nước Pháp, ông đã có cơ hội tiếp cận những tư tưởng mới và quan trọng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Bài viết "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I Lênin, đăng trên báo Nhân đạo vào ngày 16 và 17/7/1920, đã giúp Người xác định con đường cứu nước theo lập trường vô sản và lựa chọn tán thành Quốc tế thứ ba Qua đó, Người nhận thấy cách mạng Việt Nam cần đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga Từ một người yêu nước, Người đã trở thành chiến sĩ cộng sản, theo chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính Sự chuyển mình lịch sử này không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại mà còn mở ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thu hút đông đảo người Việt Nam yêu nước tin tưởng và ủng hộ.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã thành công, dẫn đến sự hình thành của nhà nước Xô viết và Quốc tế Cộng sản, tạo nền tảng cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh trong hành trình tìm kiếm mục tiêu và con đường cứu nước của mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời từ sự phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 20 của thế kỷ XX Nó là kết quả của sự giao thoa giữa trí tuệ thiên tài của Hồ Chí Minh và tư tưởng thời đại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó hình thành nên tư tưởng mang dấu ấn độc đáo của Người.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
2.1.1 Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước:
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cốt lõi trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, đóng vai trò chủ đạo trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm suốt lịch sử Tình yêu Tổ quốc bắt nguồn từ những cảm xúc giản dị trong gia đình và làng xã, đã trở thành động lực mạnh mẽ cho nhân dân trong công cuộc bảo vệ đất nước Nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại đã minh chứng cho tinh thần yêu nước kiên cường, từ các anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu đến những nhân vật như Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót Chủ nghĩa yêu nước và ý chí độc lập đã trở thành nền tảng tinh thần, là nguồn sức mạnh giúp dân tộc vượt qua khó khăn, chiến thắng kẻ thù Tinh thần yêu nước sôi nổi đã hình thành một làn sóng mạnh mẽ, giúp dân tộc Việt Nam chống lại mọi hiểm nguy, đồng thời là động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước qua chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa lòng yêu nước chân chính của dân tộc Việt Nam và những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của giai cấp công nhân, với chủ nghĩa Mác-Lênin là đại diện tiêu biểu.
Sinh ra tại xứ Nghệ, nơi Bác gắn bó với tuổi thơ từ 1890 đến 1895 và từ 1901 đến 1906, là vùng đất địa linh nhân kiệt, nổi tiếng với nhiều nhân vật yêu nước trong lịch sử Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu và Phan Bội Châu Nơi đây không chỉ giàu truyền thống yêu nước mà còn là điểm nóng của các phong trào đấu tranh chống Pháp, giúp Bác cảm nhận sâu sắc về tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập của dân tộc.
Tình yêu quê hương là một khái niệm sâu sắc, thể hiện sự gắn bó và trân trọng nguồn cội, nơi chôn rau cắt rốn Điều này không chỉ giúp nuôi dưỡng tình cảm mà còn hình thành tư tưởng yêu nước và thương nòi, góp phần quan trọng vào việc phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh thể hiện lòng yêu Tổ quốc và nhân dân, coi việc đánh đổ đế quốc và thực dân là yếu tố hàng đầu để giải phóng dân tộc Mục tiêu cuối cùng là mang lại tự do, ấm no và hạnh phúc cho mọi người Đây là một lòng yêu nước chân chính, sâu sắc và triệt để, không mang tính nửa vời Tư tưởng này mang tính vô sản và đậm chất nhân văn xã hội chủ nghĩa, được thể hiện rõ qua lời nói và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh Vào đầu năm 1946, trong một cuộc phỏng vấn, Người đã bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”
Chủ nghĩa yêu nước trở thành sức mạnh thực sự khi thấm sâu vào ý thức và hành động của mỗi cá nhân Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng lòng yêu nước của dân tộc ta là truyền thống quý báu, luôn trỗi dậy mạnh mẽ mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng Tinh thần yêu nước này tạo thành một làn sóng mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn và nguy hiểm, nhấn chìm những kẻ phản bội và cướp nước.
Truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương đã hình thành nhân cách và bản lĩnh của Nguyễn Tất Thành, người đã rời Tổ quốc để tìm con đường cứu nước Với tinh thần yêu nước mãnh liệt, Người đã vượt qua mọi khó khăn, hy sinh lợi ích cá nhân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giai cấp Bằng cách khơi dậy tinh thần yêu nước trong toàn dân, Hồ Chí Minh đã giáo dục và răn dạy mọi người nâng cao ý thức yêu nước Sức mạnh truyền thống này không chỉ thúc đẩy Người thanh niên nhiệt huyết tìm kiếm con đường cứu nước mà còn là động lực cho mọi hành động và suy nghĩ trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Hồ Chí Minh đã chia sẻ trong bài viết "Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin" rằng ông bắt đầu hành trình của mình với chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải chủ nghĩa cộng sản, và chính điều này đã dẫn dắt ông tin tưởng vào Lênin và Quốc tế thứ ba.
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị thiêng liêng và đặc trưng của người Việt Nam, đóng vai trò là động lực tinh thần lớn lao cho toàn dân tộc Đây là yếu tố quyết định tạo nên sức mạnh nội sinh, giúp dân tộc Việt Nam trường tồn và phát triển bền vững.
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kế thừa và phát triển tinh thần đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam Trong Tuyên ngôn Độc lập, ông khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”, thể hiện quyết tâm của toàn thể dân tộc trong việc gìn giữ quyền tự do và độc lập Độc lập tự do là chân lý lớn của thời đại mà Hồ Chí Minh đã khẳng định, đồng thời là một trong những điểm cốt lõi trong tư tưởng của ông.
Với ý chí kiên cường và nghị lực phi thường, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã dành 30 năm để tìm đường cứu nước, trở về lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập, dân tộc Việt Nam đã đứng lên thực hiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành độc lập và tự do, đồng thời chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước.
2.1.2 Tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hòa hiếu với các dân tộc lân bang:
Tinh thần đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, đã được khẳng định qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh Việc tập hợp và huy động sức mạnh của nhân dân là chìa khóa dẫn đến thắng lợi trong các cuộc kháng chiến Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra rằng nguyên nhân cơ bản tạo nên thành công của quân dân trong thời kỳ Trần là nhờ vào sự đoàn kết và đồng lòng của toàn dân.
Trong ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên, tinh thần đoàn kết "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức" đã được thể hiện rõ Vua Trần được nhắc nhở rằng "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc" là cách tốt nhất để giữ nước Nguyễn Trãi cũng ghi nhận rằng "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", và từ đó đã đúc kết trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
“Nêu hiệu gậy làm cờ, tụ họp bốn phương dân chúng
Thiết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một bụng cha con”
Theo Nguyễn Trãi, sự thịnh suy của vận nước phụ thuộc vào sức mạnh của nhân dân Ông nhấn mạnh rằng "chỉ thuyền là dân, lật thuyền là dân", qua đó thể hiện rõ vai trò quan trọng của tinh thần đoàn kết dân tộc trong thời kỳ chiến tranh.
Truyền thống đại đoàn kết dân tộc không chỉ được duy trì mà còn được củng cố qua hơn 90 năm phát triển của Đảng Đảng ta luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tạo ra sức mạnh đoàn kết toàn dân Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng đã đề ra các chiến lược phù hợp để giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa dân tộc và giai cấp, cũng như giữa dân tộc và quốc tế Tinh thần đại đoàn kết cộng đồng đã trở thành một truyền thống quý báu, mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, là nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
2.2.1 Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Hồ Chí Minh, xuất thân từ một gia đình trí thức Nho giáo, đã được nuôi dưỡng trong nền Quốc học và Hán học vững chắc từ nhỏ Từ sớm, Người đã chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo trong môi trường giáo dục và văn hóa của làng xã Việt Nam Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đông, đặc biệt là ba tư tưởng lớn: Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo, những tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng tại phương Đông và Việt Nam.
Nho giáo, hay còn gọi là Đạo Nho hay Đạo Khổng, là một hệ thống triết lý bao gồm đạo đức, triết học xã hội, giáo dục và chính trị, được Khổng Tử sáng lập và phát triển bởi các môn đồ của ông nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội thịnh vượng.
Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh) sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, với cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà Nho lớn và thầy dạy đầu tiên của Người Quê hương Người ở xứ Nghệ, nơi có ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, và Người cũng đã sống, học tập ở Huế - kinh đô triều Nguyễn, nơi Nho giáo phát triển mạnh mẽ Tại đây, Người được học với nhiều thầy nổi tiếng như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, và Trần Thân, từ đó tiếp cận và tiếp thu các tư tưởng, lễ nghi, và đạo đức của Nho giáo ngay từ khi còn nhỏ.
Người đã tiếp thu các giá trị tư tưởng của Nho giáo, đặc biệt là tư tưởng đạo đức, trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng Mác-xít Nho giáo mà Người tiếp nhận chủ yếu từ Tứ thư, Ngũ kinh và các đại biểu xuất sắc như Khổng Tử, Mạnh Tử trong thời Tiên Tần Tư tưởng đạo đức của Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người, từ các phạm trù như trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng, liêm cho đến phương pháp tư duy, triết lý sống và thực hành đạo đức của Người.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực từ đạo đức Nho giáo, đồng thời phê phán và loại bỏ những yếu tố tiêu cực Trong bối cảnh chế độ xã hội phong kiến Trung ương tập quyền, phạm trù “trung” và “hiếu” trong tư tưởng đạo đức Nho giáo được hiểu một cách hạn hẹp, trong đó “trung” chủ yếu mang nghĩa trung thành với vua, thể hiện lòng tận tụy và cống hiến cho nhà cầm quyền.
“hiếu” là hiếu thảo với với cha mẹ, anh em trong gia đình phải hòa thuận Từ khái niệm
Trung và Hiếu trong Nho giáo đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển thành những nội dung mới, mang tính cách mạng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam Theo Người, đạo đức cũ và mới có sự khác biệt rõ rệt, vì vậy trung với nước và hiếu với dân ngày nay được mở rộng hơn Đây là những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những chuẩn mực quan trọng của nền đạo đức cách mạng mới.
Nho giáo coi "tu thân" là nền tảng, xây dựng luân lý gia tộc nhưng cũng mang tính duy tâm và lạc hậu, như phân biệt đẳng cấp và coi thường phụ nữ Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của phụ nữ trong xã hội, cho rằng giải phóng phụ nữ là một nhiệm vụ cao cả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vì "nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa" Ông khuyến khích người An Nam hoàn thiện bản thân qua việc đọc các tác phẩm của Khổng Tử và V.I Lê-nin Mặc dù nhận thấy nhiều điểm sai trong học thuyết của Khổng Tử, Hồ Chí Minh vẫn cho rằng có những điều tích cực cần học hỏi.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kế thừa và đổi mới tư tưởng nhân trị, đức trị trong quản lý xã hội, nhằm hướng tới một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, nơi các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác Ông đặc biệt chú trọng đến việc phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo, góp phần vào việc tu dưỡng và rèn luyện đạo đức con người, cũng như trong công tác xây dựng Đảng về mặt đạo đức.
Phật giáo, hay đạo Phật, không chỉ là một tôn giáo mà còn là một hệ thống triết học phong phú, bao gồm các giáo lý và tư tưởng về nhân sinh, vũ trụ và thế giới Nó giải thích các hiện tượng tự nhiên, tâm linh và xã hội, đồng thời nghiên cứu bản chất của sự vật và sự việc Các phương pháp thực hành và tu tập trong Phật giáo dựa trên lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, cùng với các truyền thống và tín ngưỡng phát triển qua thời gian.
Trong hàng trăm chuyến thăm các đơn vị vũ trang, công trường, nông trường và trường học, Người đã đến nhiều địa điểm linh thiêng như chùa Hương, chùa Một Cột, đền Ngọc Sơn và đền Hùng, nơi Người thành kính thắp hương Sau khi giành độc lập, Người đã tham dự lễ cầu siêu tại chùa Bà Đá và Nhà Thờ Lớn (Hà Nội) để tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh vì Tổ quốc Năm 1958, trong chuyến thăm Ấn Độ, Người đã lễ Phật tại một ngôi chùa và nhận cây Bồ Đề từ Tổng thống Ấn Độ, sau đó trồng tại chùa Trấn Quốc, một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất của Thủ đô.
Tư tưởng vị tha, từ bi và bác ái của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh, thể hiện qua tình yêu thương con người và nỗi đau của những người dân mất nước Mục tiêu cách mạng của Người là giải phóng dân tộc và giành độc lập cho đất nước Sau khi đất nước được giải phóng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một xã hội giàu mạnh vì lợi ích của nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho mọi người.
Hồ Chí Minh không chỉ dành tình cảm cho người Việt Nam mà còn cho tất cả những ai bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới, bất kể màu da Ông nhấn mạnh rằng mọi người đều có giá trị và cần phải đoàn kết để xây dựng hạnh phúc chung Đối với những người lầm lạc, Hồ Chí Minh khuyến khích sự khoan hồng và rộng lượng, giúp họ có cơ hội sửa chữa sai lầm thông qua giáo dục và pháp luật Ông là biểu tượng của lòng nhân ái, khoan dung, và sự giản dị, với tấm gương đạo đức cao đẹp có sức lan tỏa mạnh mẽ, cảm hóa cả những người lầm lỡ và cả kẻ thù.
Hồ Chí Minh đã kế thừa những quan điểm tích cực trong tư tưởng Phật giáo như lòng nhân ái, vị tha, và bình đẳng, đồng thời nhấn mạnh tinh thần cứu khổ, cứu nạn và đứng về phía người nghèo Những giá trị này không chỉ gần gũi với con người mà còn phù hợp với triết lý đạo đức nhân sinh và phong tục tập quán của người Việt Nam Qua đó, Hồ Chí Minh khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác, đề cao quyền bình đẳng của con người, và khuyên mọi người sống hòa đồng, gắn bó với đất nước theo tinh thần của Đạo Phật.
Trong triết lý Đạo Phật, những quan điểm tích cực được vận dụng sáng tạo nhằm đoàn kết đồng bào theo Đạo Phật và toàn dân vì một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh Trong thư gửi Hội Phật tử năm 1947, Người nhấn mạnh rằng Đức Phật là biểu tượng của lòng từ bi, luôn sẵn sàng hy sinh để cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh Ông kêu gọi đồng bào đoàn kết, hy sinh để kháng chiến chống thực dân, nhằm giải phóng dân tộc khỏi khổ nạn và bảo vệ quyền thống nhất, độc lập của Tổ quốc Qua đó, Người chú trọng kế thừa và phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo đức tích cực trong Phật giáo để xây dựng một xã hội mới và con người mới cho Việt Nam.
Lão giáo, với Lão Tử là người sáng lập, được tôn sùng ngang hàng với Phật giáo và Nho giáo Tuy nhiên, Lão giáo nhấn mạnh việc xuất thế và không can thiệp vào đời sống xã hội, điều này trái ngược với Nho giáo, vốn khuyến khích sự tham gia vào thế giới Sự khác biệt này đã dẫn đến những tranh cãi giữa các tín đồ của hai tôn giáo.