1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam

144 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề An Sinh Xã Hội Đối Với Lao Động Khu Vực Phi Kết Cấu Ở Việt Nam
Tác giả Nguyễn Đức Tú
Trường học khoa kinh tế
Chuyên ngành kinh tế chính trị
Thể loại luận văn tốt nghiệp
Năm xuất bản 2005
Thành phố hà nội
Định dạng
Số trang 144
Dung lượng 1,31 MB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU

  • 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI KHU VỰC PHI KẾT CẤU

  • 1.1.1. Khu vực kinh tế phi kết cấu

  • 1.1.2. An sinh xã hội đối với khu vực phi kết cấu

  • 1.1.3. Hệ thống an sinh xã hội

  • 1.1.4. Một số tiêu chí đánh giá an sinh xã hội

  • 1.1.5. Vai trò của hệ thống an sinh xã hội

  • 1.2. HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

  • 1.2.1. Hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở một số nƣớc trên thế giới

  • 1.2.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

  • 2.1. ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC KINH TẾ PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI

  • 2.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển

  • 2.1.2. Đặc điểm lao động khu vực phi kết cấu ở Việt Nam

  • 2.1.3. Ảnh hƣởng của những đặc điểm trên đến vấn đề an sinh xã hội của lao động khu vực phi kết cấu

  • 2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM

  • 2.2.1. Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam

  • 2.2.2. Thực trạng hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở Việt Nam

  • 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

  • 2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc và tác động kinh tế xã hội

  • 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

  • CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU

  • 3.1. BỐI CẢNH MỚI VÀ SỰ TÁC ĐỘNG TỚI HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU

  • 3.1.1. Bối cảnh quốc tế

  • 3.1.2. Bối cảnh trong nƣớc

  • 3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

  • 3.2.1. Quan điểm phát triển hệ thống an sinh xã hội quốc gia

  • 3.2.2. Quan điểm định hƣớng nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu

  • 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

  • 3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về an sinh xã hội.

  • 3.3.2. Tăng cƣờng công tác quản lý, phát triển khu vực kinh tế phi kết cấu

  • 3.3.3. Tạo điều kiện thuận lợi cho lao động khu vực phi kết cấu tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản

  • 3.3.4. Tập trung nguồn lực cho giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo

  • 3.3.5. Mở rộng phạm vi và cơ hội lựa chọn đối với các dịch vụ an sinh xã hội

  • 3.3.6. Đề cao vai trò của các địa phƣơng, tổ chức xã hội trong việc giải quyết vấn đề an sinh xã hội

  • PHẦN KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU

Khu vực kinh tế phi kết cấu

Khu vực kinh tế phi kết cấu, xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ 20, được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau trên thế giới như kinh tế phi chính thức, kinh tế chìm, kinh tế song song, kinh tế vô hình, kinh tế giấu diếm, và khu vực kinh tế phi doanh nghiệp.

(Unincorporated sector); Khu vực dịch vụ phi chính thức (Informal service sector); Kinh tế nhân dân (People’s economy) Vì thế cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau

Do sự khác biệt về kinh tế - xã hội và trình độ phát triển giữa các quốc gia, quan niệm về khu vực kinh tế phi kết cấu rất đa dạng Các tiêu chí nghiên cứu và góc độ tiếp cận khác nhau dẫn đến những khái niệm khác nhau về khu vực này Khi nghiên cứu, các nhà kinh tế và tổ chức quốc tế thường chỉ ra những đặc điểm chính để nhận diện và giải thích tên gọi cũng như khái niệm liên quan Một số khái niệm từ các tổ chức quốc tế và quốc gia trên thế giới có nhiều điểm hợp lý và phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển như Việt Nam.

Theo Liên hiệp quốc (UN), khu vực kinh tế phi kết cấu là đơn vị sản xuất sử dụng vốn, lao động, hàng hóa và dịch vụ để tạo ra hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định Hoạt động này thường được thực hiện bởi cá nhân, hộ gia đình hoặc nhóm nhỏ lao động mà không đăng ký theo quy định pháp luật và không thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh.

Với quan niệm này, khu vực kinh tế phi kết cấu được xem xét với tư cách là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế

Năm 1972, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa khu vực kinh tế phi kết cấu là các đơn vị kinh tế nhỏ, chuyên sản xuất và phân phối hàng hóa cũng như dịch vụ cho người lao động tự do, lao động gia đình và một số ít lao động khác Khu vực này có đặc điểm dễ thâm nhập, yêu cầu vốn thấp, sử dụng công nghệ và kỹ năng đơn giản, đồng thời có năng suất lao động thấp.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đang tích cực nghiên cứu về khu vực kinh tế phi kết cấu, một khái niệm được hoàn thiện vào năm 1993 Khái niệm này phản ánh thực trạng của nền kinh tế ở các nước đang phát triển, cho thấy sự quan tâm sâu sắc của ILO đối với vấn đề này.

Khu vực kinh tế phi kết cấu bao gồm các đơn vị sản xuất nhỏ, tạo ra của cải và dịch vụ, nhằm mục đích tạo việc làm và thu nhập Những đơn vị này có quy mô nhỏ, tổ chức lỏng lẻo và tỷ lệ vốn đầu tư so với lao động thấp Quan hệ lao động trong khu vực này thường gắn liền với quan hệ gia đình, cá nhân và xã hội, thay vì dựa vào hợp đồng kinh tế chính thức Các xí nghiệp cá thể hoạt động trong khu vực này thường có chi phí và cam kết gắn liền với hộ gia đình của chủ sở hữu, nhưng không nhất thiết phải tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý như các doanh nghiệp khác và khác biệt với nền kinh tế “ngầm”.

Khu vực kinh tế phi kết cấu ở các nước đang phát triển bao gồm các doanh nghiệp rất nhỏ và nhiều người lao động tự tạo việc làm cho mình Khu vực này có trình độ công nghệ thấp, nhu cầu về vốn và tài nguyên cũng thấp, nhưng vẫn đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc dân Tuy nhiên, khu vực này thường nằm ngoài tầm kiểm soát và hỗ trợ của Nhà nước.

1.1.1.2 Nguồn gốc hình thành khu vực kinh tế phi kết cấu

Trong lịch sử nhân loại, lao động đã luôn là yếu tố quan trọng giúp con người tồn tại và phát triển Dù nền kinh tế, chính trị và xã hội có biến đổi, nhiều người vẫn phải lao động tự do để duy trì cuộc sống Sự tồn tại của người lao động tự do là điều khách quan ở bất kỳ quốc gia nào Tuy nhiên, tại các quốc gia phát triển, khu vực lao động tự do ngày càng thu hẹp nhờ vào nền kinh tế phát triển và hệ thống chính sách hiệu quả Ngược lại, ở các quốc gia đang phát triển, khu vực kinh tế phi chính thức lại có xu hướng mở rộng do chính sách phát triển nền kinh tế thị trường.

Phát triển kinh tế thị trường là yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Do đó, trong những năm gần đây, hầu hết các quốc gia đang phát triển đã chuyển sang mô hình kinh tế thị trường Một trong những điều kiện thiết yếu để đạt được điều này là việc thực hiện nền kinh tế đa thành phần.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, cá nhân và hộ gia đình đóng vai trò là những chủ thể kinh tế độc lập, có khả năng quyết định sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai Điều này tạo ra cơ hội cho họ tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm ngoài khu vực nhà nước, từ đó mang lại thu nhập và đảm bảo đời sống cho bản thân.

Kinh tế thị trường mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng tồn tại không ít khuyết tật, và nhiệm vụ khắc phục những khuyết tật này thuộc về Nhà nước Sự phát triển của kinh tế thị trường dẫn đến nhiều vấn đề xã hội như phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng, nghèo đói, thất học và tệ nạn xã hội Để giải quyết những vấn đề này, cần có một loạt chính sách xã hội và hệ thống thực thi hiệu quả Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, các chính sách và mạng lưới an toàn xã hội vẫn chưa đủ mạnh để bảo vệ tất cả người nghèo, khiến họ phải tự lo cho cuộc sống bằng cách tìm kiếm nhiều công việc khác nhau để có thu nhập Điều này dẫn đến sự mở rộng ngày càng lớn của khu vực kinh tế phi kết cấu.

Mục tiêu chính của các nước đang phát triển là tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hoá Để đạt được điều này, hầu hết các quốc gia đều tập trung vào việc phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết.

Quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng, với nền kinh tế tăng trưởng nhờ sự phát triển của sản xuất, đồng thời giảm thiểu nạn thất nghiệp và nghèo đói Tuy nhiên, sự phát triển này cũng dẫn đến sự gia tăng cách biệt về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư Bên cạnh đó, khi trình độ kỹ thuật của nền kinh tế được nâng cao, nhu cầu về lao động giảm, khiến những người có trình độ học vấn và tay nghề thấp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm.

Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã khiến nhiều nông dân mất đất canh tác, dẫn đến khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm trong khu vực kinh tế chính thức Điều này tạo ra một sự di cư mạnh mẽ từ nông thôn ra thành phố, nhưng nhiều người không được khu vực chính thức tiếp nhận, làm cho khu vực kinh tế phi kết cấu tiếp tục mở rộng ở các nước đang phát triển Một đặc điểm nổi bật của các nước này là thu nhập và mức sống thấp, buộc người lao động phải tự tạo việc làm bằng mọi cách, từ đó góp phần hình thành khu vực kinh tế phi kết cấu.

Thất nghiệp trầm trọng là đặc điểm nổi bật ở các nước đang phát triển, khiến nhiều lao động không tìm được việc làm trong khu vực kinh tế chính thức phải chuyển sang khu vực kinh tế phi kết cấu Nếu không có khu vực này, số lượng lớn người sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp và không có thu nhập Khu vực kinh tế phi kết cấu không chỉ tiếp nhận người lao động thất nghiệp mà còn tạo thêm việc làm cho những người nghèo trong khu vực chính thức, giúp tăng thu nhập cho họ Vì vậy, khu vực kinh tế phi kết cấu đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi sống không chỉ cá nhân mà còn cả gia đình của họ.

An sinh xã hội đối với khu vực phi kết cấu

1.1.2.1 Khái niệm an sinh xã hội

An sinh xã hội có nguồn gốc từ các hình thức đảm bảo an ninh kinh tế của người Hy Lạp cổ đại, với bước tiến quan trọng bắt đầu từ luật người nghèo của Anh vào năm 1601 Đến năm 1850, an sinh xã hội chính thức phát triển khi Thủ tướng Bismark thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội tại Phổ, bao gồm bảo hiểm ốm đau, tai nạn nghề nghiệp, tàn tật và tuổi già, từ nguồn đóng góp của người lao động và Chính phủ Hệ thống này sau đó lan rộng ra các nước Châu Âu vào đầu thế kỷ XX, phát triển mạnh mẽ ở Bắc Mỹ trong những năm 30 và tiếp tục mở rộng ra các châu lục khác trong nửa cuối thế kỷ XX.

Hiện nay, khái niệm an sinh xã hội chưa được thống nhất, với mỗi tổ chức, quốc gia và nhà nghiên cứu đưa ra định nghĩa riêng Sự khác biệt này chủ yếu xuất phát từ việc xác định phạm vi của an sinh xã hội, từ đó ảnh hưởng đến mô hình hệ thống an sinh xã hội được áp dụng.

William H Beveridge (1879-1963), a prominent British economist and sociologist, defined social security as a guarantee of employment for individuals while they are able to work, and a provision of income support when they can no longer engage in work.

Khái niệm an sinh xã hội chỉ bao gồm một phần nhỏ, bảo vệ những người có khả năng lao động khi họ còn làm việc và khi họ không còn khả năng lao động Tuy nhiên, những người không có khả năng lao động do lý do như tàn tật bẩm sinh vẫn chưa được đề cập đến trong khái niệm này.

Năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã định nghĩa an sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng Mục tiêu của an sinh xã hội là chống lại tình trạng khốn khổ về kinh tế và xã hội, do giảm sút thu nhập vì ốm đau, thai sản, thương tật lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong An sinh xã hội cũng bao gồm việc cung cấp chăm sóc y tế và hỗ trợ tài chính cho các gia đình đông con.

Sau năm 1952, nhiều học giả đã tiến hành nghiên cứu sâu về an sinh xã hội, từ đó phát triển các khái niệm mới, mở rộng ý nghĩa của lĩnh vực này.

An sinh xã hội ở Mỹ được hiểu là các chương trình công cộng nhằm cung cấp thu nhập và dịch vụ cho cá nhân trong những trường hợp như nghỉ hưu, ốm đau, mất khả năng lao động, qua đời hoặc thất nghiệp.

Theo học giả Getubig, an sinh xã hội là tập hợp các biện pháp và hoạt động nhằm đảm bảo các nhu cầu cơ bản cho mọi thành viên trong xã hội, bao gồm ăn, ở, chăm sóc sức khoẻ, nước sạch Nó cũng bảo vệ họ khỏi những rủi ro bất ngờ như ốm đau, mất khả năng lao động, tử vong, thất nghiệp và tuổi già, giúp họ duy trì mức sống phù hợp với tiêu chuẩn xã hội.

Khái niệm này liên quan đến các quốc gia đang phát triển, bắt nguồn từ tình trạng thu nhập không đủ đáp ứng các nhu cầu cơ bản và gia tăng khả năng gặp phải các rủi ro bất ngờ.

Theo học giả Droze và Sen (1991), an sinh xã hội được định nghĩa là việc sử dụng các phương tiện xã hội nhằm ngăn chặn sự mất mát và tổn thương dẫn đến suy giảm mức sống Mục tiêu của an sinh xã hội là nâng cao chất lượng cuộc sống để chống lại những tác động tiêu cực đến đời sống của người dân.

Theo quan niệm này, an sinh xã hội chủ yếu tập trung vào vấn đề thu nhập, vì thiếu thu nhập được xem là yếu tố quan trọng nhất hạn chế khả năng phát triển của con người.

An sinh xã hội là hệ thống bảo vệ mà xã hội cung cấp cho những thành viên gặp khó khăn, nhằm hỗ trợ họ vượt qua tình trạng yếu thế Thông qua các biện pháp công cộng, an sinh xã hội tạo ra thu nhập và phân phối lại tài sản, của cải, cũng như dịch vụ xã hội, đảm bảo sự công bằng và ổn định trong cộng đồng.

1.1.2.2 Bản chất của an sinh xã hội

Từ giữa thế kỷ XIX, bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển mạnh mẽ ở các nước Tư bản Tây Âu, đánh dấu sự hình thành hệ thống an sinh xã hội toàn cầu Ban đầu, nó nhằm tương trợ những người lao động gặp khó khăn và dự phòng mất thu nhập do tai nạn hoặc tuổi già Tuy nhiên, theo thời gian, bảo hiểm xã hội đã trở thành công cụ quan trọng của chủ Tư bản để lấp lỗ hổng trong quá trình tái sản xuất và giải quyết hậu quả của khủng hoảng kinh tế chu kỳ.

Khi phân tích bảo hiểm xã hội như một hình thức bảo vệ những lỗ hổng trong tái sản xuất, Mác đã mở rộng khái niệm này gần như đồng nhất với an sinh xã hội Ông phân tích thuật ngữ "bảo hiểm xã hội" bao gồm hai thành phần: "bảo hiểm" và "xã hội".

Quá trình sản xuất xã hội là sự tạo ra các điều kiện vật chất cho cuộc sống con người, diễn ra trong khuôn khổ các quan hệ sản xuất đặc thù Tất cả các quan hệ giữa những người tham gia sản xuất và với tự nhiên hình thành nên cấu trúc kinh tế của xã hội Mác nghiên cứu khái niệm xã hội từ góc độ cấu trúc kinh tế, cho thấy rằng xã hội là một phạm trù rộng lớn, bao gồm các mối quan hệ giữa các quốc gia trong sản xuất và với môi trường tự nhiên.

Cũng theo Mác, từ “Bảo hiểm” được hiểu như sau:

Hệ thống an sinh xã hội

Hệ thống an sinh xã hội là tập hợp các chính sách của Chính phủ nhằm duy trì và bảo vệ thu nhập cho các thành viên trong xã hội trong những thời điểm khó khăn hoặc gặp rủi ro, từ đó đảm bảo sự ổn định trong đời sống.

1.1.3.1 Cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội

Hệ thống an sinh xã hội được xây dựng dựa trên phạm vi, đặc điểm kinh tế - xã hội và mục tiêu phát triển của từng quốc gia Hiện nay, nhiều tổ chức quốc tế và nhà nghiên cứu đã đề xuất một số mô hình cho hệ thống an sinh xã hội.

Theo Liên hiệp quốc, hệ thống an sinh xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội, trong đó có bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm y tế và các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ngắn hạn.

+ Hệ thống trợ giúp xã hội: Như trợ cấp xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ xã hội nhóm yếu thế

+ Hệ thống trợ cấp xã hội chung: Như trợ cấp gia đình, dịch vụ y tế công cộng, trợ cấp cho người cao tuổi

Trong những năm gần đây, các tổ chức ngân hàng và tiền tệ toàn cầu như IMF, ADB, và WB đã phát triển khái niệm an sinh xã hội, phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển Hệ thống an sinh xã hội này bao gồm nhiều yếu tố thiết yếu nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo sự ổn định cho cộng đồng.

Hệ thống bảo hiểm xã hội bao gồm các khoản trợ cấp hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và trợ cấp ngắn hạn Hệ thống này được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước, nhằm tạo ra quỹ tài chính dự trữ Quỹ này sẽ hỗ trợ cho các trường hợp như tuổi già, ốm đau, thai sản, tử vong, tàn tật và bệnh nghề nghiệp.

Trong hệ thống bảo hiểm xã hội, tất cả các thành viên đều có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập của mình vào quỹ bảo hiểm Đổi lại, họ sẽ nhận được các khoản trợ cấp khi về hưu hoặc khi gặp phải các rủi ro theo quy định.

Trợ cấp xã hội và dịch vụ xã hội là những phúc lợi được tài trợ từ thuế, các khoản đóng góp, và hỗ trợ từ bên ngoài.

Trợ cấp xã hội là sự hỗ trợ từ Nhà nước hoặc cộng đồng, cung cấp tiền bạc hoặc các điều kiện, phương tiện cần thiết, nhằm giúp đối tượng nhận trợ giúp phát huy khả năng tự lập trong cuộc sống và sớm hòa nhập với cộng đồng.

Dịch vụ xã hội bao gồm các hoạt động do tổ chức tự nguyện hoặc phi chính phủ thực hiện, nhằm hỗ trợ những nhóm người yếu thế như người già, người tàn tật, và trẻ em lang thang Các dịch vụ này bao gồm phục hồi chức năng cho người tàn tật, phòng chống bệnh tật qua tiêm chủng và kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho người cao tuổi, cũng như các lớp xoá mù chữ và dịch vụ kế hoạch hoá gia đình.

Nhà nước triển khai các chính sách hỗ trợ nhằm tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống và đảm bảo an ninh cho bản thân và gia đình trước những rủi ro Các chính sách này bao gồm phát triển thị trường lao động, đào tạo nghề, hỗ trợ đào tạo lại, giới thiệu việc làm, cung cấp thông tin và hỗ trợ tìm kiếm việc làm.

Bảo hiểm xã hội là thành phần quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội, đóng vai trò trụ cột chính của chính sách này Đối tượng của bảo hiểm xã hội bao gồm toàn bộ người lao động, những người tạo ra của cải vật chất cho xã hội Tính ổn định và cơ bản của bảo hiểm xã hội được thể hiện qua quỹ tài chính tập trung, hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia Quỹ bảo hiểm xã hội không chỉ được bảo vệ mà còn được đầu tư để phát triển, từ đó đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ Sự hoạt động hiệu quả của bảo hiểm xã hội góp phần tạo ra một "lưới an toàn xã hội" cho mọi tầng lớp dân cư, khẳng định vai trò quan trọng của nó trong hệ thống an sinh xã hội và chính sách xã hội quốc gia.

Hệ thống an sinh xã hội không chỉ đơn thuần thay thế thu nhập mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối lại thu nhập và cung cấp dịch vụ xã hội cho những nhóm yếu thế trong cộng đồng Quá trình phân phối lại này diễn ra theo hai hướng: ngang và dọc.

Sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang diễn ra giữa những người khỏe mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người đã nghỉ việc, cũng như giữa những người chưa có con và những người có gánh nặng gia đình Thường thì, quá trình này chỉ xảy ra trong nội bộ các nhóm người nhận trợ cấp, nơi có sự phân chia rõ ràng giữa những người đóng góp đều đặn vào quỹ an sinh xã hội và những người nhận trợ cấp dựa trên các điều kiện xác định.

Sự phân phối theo chiều dọc là quá trình chuyển giao tài sản và sức mua từ những người có thu nhập cao đến những người có thu nhập rất thấp, nhằm hỗ trợ nhóm người yếu thế trong xã hội.

Phân phối lại theo chiều dọc có thể được thực hiện qua nhiều kỹ thuật khác nhau, bao gồm thuế trực thu và điều chỉnh giá cả hàng hóa cao cấp, hàng xa xỉ Ngoài ra, việc phân phối lại cũng có thể diễn ra gián tiếp thông qua cung cấp các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế và nhà ở.

Một số tiêu chí đánh giá an sinh xã hội

Thu nhập là tổng số tiền kiếm được trong một khoảng thời gian nhất định và là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá tình trạng cuộc sống Một khoản thu nhập thấp hoặc không ổn định có thể dẫn đến sự không đảm bảo cho cuộc sống của bản thân và gia đình Vấn đề đặt ra là bao nhiêu thu nhập thì được coi là đủ để đảm bảo một cuộc sống an toàn.

Theo quy định của Liên Hiệp Quốc, thu nhập bình quân đầu người dưới 450 USD/năm được xem là nghèo đói Do đó, một gia đình 4 người có thu nhập dưới 1.800 USD/năm sẽ không đảm bảo an sinh Tuy nhiên, mỗi quốc gia có thể xác định chuẩn nghèo riêng dựa trên điều kiện thực tế như giá cả, sức mua, mức sinh hoạt và điều kiện sống Nếu chi phí sinh hoạt hàng ngày thấp, chuẩn nghèo có thể thấp hơn mức của Liên hiệp quốc, trong khi một số quốc gia khác có thể quy định chuẩn nghèo cao hơn mức chung.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), người nghèo được định nghĩa là những người có thu nhập không đủ để đảm bảo mức dinh dưỡng tối thiểu 2.100 kcal/người/ngày Áp dụng tiêu chuẩn này, năm

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã xác định ngưỡng nghèo cho từng khu vực, cụ thể là: khu vực nông thôn miền núi và hải đảo có ngưỡng thu nhập 80.000 đồng/người/tháng; khu vực nông thôn đồng bằng là 100.000 đồng/người/tháng; và khu vực thành phố là 150.000 đồng/người/tháng.

Ngày 26/05/2005, Chính phủ Việt Nam đã ban hành quy định mới về chuẩn nghèo đói, xác định mức thu nhập bình quân 1 người ở thành phố dưới 260.000 VNĐ/tháng và nông thôn dưới 200.000 VNĐ/tháng là nghèo đói Quy định này đã làm tăng tỷ lệ nghèo đói từ 8% lên 28%, tức là hơn 1/4 hộ gia đình không đạt tiêu chuẩn an sinh xã hội theo quy định chung.

Mức sống được định nghĩa là mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần theo tiêu chuẩn xã hội nhất định Nó phản ánh sự đáp ứng các nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, nhà ở, đồ dùng sinh hoạt, giao thông, thông tin liên lạc, chăm sóc y tế, giáo dục, hưởng thụ văn hoá, dịch vụ công cộng, môi trường, và mức độ an toàn trong cuộc sống và làm việc, phù hợp với trình độ phát triển của quốc gia tại một thời điểm nhất định.

Việc đáp ứng các nhu cầu của mỗi quốc gia, vùng miền và nhóm dân cư là khác nhau, dẫn đến sự phân chia mức sống đa dạng Ngay trong một quốc gia, mức sống cũng có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau.

Mức sống cao thể hiện khả năng đáp ứng tối đa mọi nhu cầu của con người, đồng thời tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để mỗi cá nhân có thể tự hoàn thiện và phát triển toàn diện.

Mức sống chung của xã hội được định nghĩa là mức sống trung bình của người dân tại mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội, phản ánh điều kiện sống của đại đa số dân cư.

Mức sống tối thiểu là mức độ cần thiết để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người tại một thời điểm nhất định, bao gồm các tư liệu sinh hoạt thiết yếu như ăn uống, chỗ ở và phương tiện di chuyển Khi mức sống rơi xuống dưới ngưỡng này, con người không thể tái sản xuất sức lao động một cách đơn giản và không đảm bảo được nhân cách, dẫn đến tình trạng nghèo đói và khổ cực.

Nghèo đói là tình trạng mà con người không có khả năng duy trì cuộc sống hoặc tham gia vào các hoạt động xã hội, dẫn đến việc thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần.

Mức sống của mỗi quốc gia được đánh giá dựa trên trình độ phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống chỉ tiêu khác nhau Để được coi là đảm bảo và an sinh, mức sống cần đạt tiêu chuẩn chung của xã hội.

1.1.4.3 Khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội Đó là khả năng được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ về y tế, giáo dục, văn hoá thông tin, nhất là các dịch vụ về bảo hiểm

Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm điều kiện địa lý, các quy định pháp lý và quyền lợi cá nhân.

Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội không chỉ phụ thuộc vào khả năng cá nhân mà còn cần sự hỗ trợ từ Nhà nước về chính sách, tài chính và kỹ thuật.

Vai trò của hệ thống an sinh xã hội

1.1.5.1 Ổn định đời sống con người

Mọi người đều có quyền sống, hưởng hạnh phúc và mưu cầu cuộc sống trong xã hội, nhưng việc thực hiện những quyền này không phải lúc nào cũng dễ dàng Trong cuộc sống, con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ và khó khăn không do chính họ tạo ra Kết quả là một số cá nhân và cộng đồng gặp khó khăn trong việc tồn tại Trong bối cảnh này, hệ thống an sinh xã hội đóng vai trò quan trọng, cung cấp hỗ trợ giúp họ tìm kiếm việc làm, bù đắp thu nhập thiếu hụt và ổn định cuộc sống.

1.1.5.2 Góp phần thực hiện công bằng xã hội

Kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều quy luật như giá trị, độc quyền, cạnh tranh và chuyển giá trong các công ty xuyên quốc gia, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng Hội nghị các Nguyên thủ quốc gia tại Nam Phi tháng 9/2002 chỉ ra rằng tài sản của 3 tỷ phú bằng tài sản của 49 quốc gia cộng lại, trong khi 5% dân số giàu có chiếm 85% của cải toàn cầu, còn 95% dân số còn lại chỉ sở hữu 15% Tình trạng này không chỉ diễn ra trên toàn cầu mà còn trong từng quốc gia, nơi khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng, thể hiện rõ rệt qua hiện tượng "người ăn không hết, kẻ lần không ra".

Hệ thống an sinh xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện điều kiện sống của người dân, đặc biệt là người nghèo Nó thực hiện phân phối lại tài sản giữa người khoẻ và người ốm, người đang làm việc và người đã nghỉ việc, cũng như giữa người giàu và người nghèo thông qua các chính sách điều tiết của Nhà nước Các biện pháp như đánh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và thuế gián thu đối với hàng hoá xa xỉ giúp thực hiện cứu tế và hỗ trợ những người gặp khó khăn Nhờ đó, sự bất bình đẳng trong xã hội được giảm bớt, tạo nền tảng cho một xã hội tốt đẹp hơn.

1.1.5.3 Góp phần đảm bảo lợi ích trước mắt và lâu dài của quốc gia

Lựa chọn kinh tế là quá trình tối ưu hóa lợi ích ngắn hạn và dài hạn Khi kinh tế thị trường phát triển, con người thường có xu hướng cận thị và thực dụng, dẫn đến việc chỉ tập trung vào lợi ích trước mắt mà bỏ qua những lợi ích lâu dài Điều này gây ra sự mất cân đối trong xã hội, làm gia tăng rối loạn và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững.

Hệ thống an sinh xã hội, bao gồm các quỹ dự phòng như quỹ bảo hiểm hưu trí và quỹ bảo hiểm thất nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định xã hội Những quỹ này không chỉ bảo vệ lợi ích trước mắt của người lao động mà còn giúp họ tích lũy để phòng ngừa rủi ro trong tương lai Khi còn trẻ, việc tham gia quỹ hưu trí cho phép người lao động chuẩn bị tài chính cho tuổi già hoặc khi không còn khả năng lao động Nếu mỗi cá nhân đều biết tích lũy qua các quỹ an sinh, điều này sẽ tạo ra một mạng lưới an toàn cho toàn xã hội, mang lại lợi ích lâu dài cho quốc gia.

1.1.5.4 Góp phần chống lại khủng hoảng mang tính chu kỳ kinh doanh

Kinh tế thị trường, đặc biệt là kinh tế thị trường tư bản, thường trải qua chu kỳ khủng hoảng kéo dài từ 2-5 năm Trong mỗi chu kỳ, điểm cực đại của tăng trưởng kinh tế dẫn đến khủng hoảng, gây ra tình trạng hàng hóa ế ẩm, thất nghiệp và đóng cửa nhà máy Hậu quả nghiêm trọng nhất là người lao động mất việc làm, dẫn đến giảm thu nhập và sức mua, làm chậm lại hoặc thậm chí âm tăng trưởng kinh tế Ví dụ, Nhật Bản giai đoạn 2000-2001 ghi nhận tăng trưởng bằng không, trong khi Mỹ từ mức 4,8% năm 1999-2000 giảm xuống chỉ còn 1,1% vào năm 2001-2002 Những cuộc khủng hoảng này thường đi kèm với suy thoái và trì trệ, trước khi chuyển sang phục hồi và hưng thịnh, nhưng người lao động luôn phải đối mặt với sự bất ổn trong đời sống Điều này yêu cầu cả người lao động và chủ tư bản cần có kế hoạch dự phòng, trong đó hệ thống an sinh xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực.

“con sóng kinh tế”, giữ cho xã hội bình yên ở mức tối thiểu

Sau mỗi cuộc khủng hoảng kinh tế, nhà đầu tư thường đổi mới công nghệ và cơ cấu kinh tế, yêu cầu người lao động phải nâng cao tay nghề để thích ứng với sự chuyển đổi này Để tránh thất nghiệp, họ cần liên tục cải thiện kỹ năng qua đào tạo và huấn luyện Các quỹ an sinh xã hội như quỹ trợ cấp thất nghiệp và đào tạo nghề đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm Khi người lao động có việc làm và thu nhập ổn định, sức mua tăng lên, từ đó tạo ra cầu hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thể hiện rõ vai trò của hệ thống an sinh xã hội.

1.1.5.5 Góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững

An sinh xã hội là chính sách của Chính phủ nhằm hỗ trợ cộng đồng, giúp những người gặp khó khăn có thêm điều kiện vật chất để vượt qua rủi ro và khuyến khích nỗ lực cá nhân Chính sách này thúc đẩy sự hoà đồng giữa mọi người, không phân biệt giới tính, tôn giáo hay địa vị xã hội, thể hiện tinh thần đoàn kết trong cộng đồng Sự san sẻ và giúp đỡ lẫn nhau trong lúc hoạn nạn là biểu hiện của tinh thần "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Chính sách an sinh xã hội nhằm ổn định kinh tế và đảm bảo an toàn cho con người thông qua các chương trình như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và quỹ quốc gia giải quyết việc làm Những chính sách này tạo ra quỹ tiền tệ lớn từ sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và cộng đồng, trở thành nguồn vốn quan trọng cho thị trường tài chính Việc đầu tư các quỹ này vào phát triển kinh tế không chỉ giúp tăng trưởng mà còn nâng cao mức thụ hưởng cho người tham gia hệ thống an sinh xã hội.

Một xã hội ổn định và bình yên là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững và hạnh phúc của mọi người Hệ thống an sinh xã hội đóng vai trò quan trọng như một công cụ hiệu quả của Nhà nước, giúp duy trì ổn định chính trị và tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Trong những năm gần đây, phát triển kinh tế bền vững đã trở thành xu thế quan trọng trong các hội thảo khoa học, khẳng định là mục tiêu phát triển của mọi quốc gia trong kỷ nguyên mới Tăng trưởng kinh tế không chỉ cần chú trọng đến số lượng mà còn phải nâng cao chất lượng cuộc sống Do đó, cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo và phát triển con người luôn được coi là trung tâm của sự phát triển.

HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT

1.2.1 Hệ thống an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở một số nước trên thế giới

Luật an sinh xã hội của Singapore, ra đời năm 1953, đã thiết lập hệ thống an sinh xã hội quốc gia Năm 1955, Quỹ phòng xa trung ương (CPF) được thành lập, quản lý bởi Bộ Nhân lực, nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho người lao động trong trường hợp tuổi già hoặc không thể làm việc CPF không chỉ đáp ứng nhu cầu về nhà ở, chăm sóc y tế và trợ cấp tuổi già mà còn cung cấp bảo hiểm cho người lao động và gia đình họ Tất cả công dân và cư dân lâu dài có thu nhập trên 2.400 đô la Singapore/năm đều bắt buộc tham gia CPF, trong khi những người có thu nhập thấp hơn có thể tham gia tự nguyện Cơ chế này không chỉ tạo cơ hội cho lao động khu vực phi kết cấu mà còn thể hiện sự bình đẳng giữa các người lao động Kết quả là, một số lượng lớn lao động phi kết cấu đã tham gia CPF theo hình thức tự nguyện.

Đến cuối năm 1999, CPF đã quản lý hơn 2,8 triệu người, chiếm 88,4% dân số, tỷ lệ cao nhất không chỉ ở Đông Nam Á mà còn trên toàn thế giới Trong số đó, khoảng 1,2 triệu người thường xuyên đóng góp vào quỹ, bao gồm hơn 200.000 lao động thuộc khu vực phi kết cấu Những lao động này có thể tham gia tất cả các chế độ mà CPF cung cấp theo hình thức tự nguyện, ngoại trừ chế độ trợ cấp tai nạn lao động.

Năm 1999, quỹ CPF ghi nhận tổng thu 12,9 tỷ $S và tổng chi 12,7 tỷ $S, với tổng giá trị tích lũy của người lao động đạt 80 tỷ $S (khoảng 49 tỷ USD) CPF nổi bật với hệ thống tài khoản cá nhân hóa, cho phép người lao động tích lũy tài sản qua các khoản đóng góp hàng tháng từ cả họ và chủ sử dụng lao động Kể từ khi thành lập, CPF đã điều chỉnh tỷ lệ đóng góp hơn 20 lần, với tỷ lệ này đa dạng theo độ tuổi; người lao động lớn tuổi sẽ có tỷ lệ đóng góp giảm dần, và sau 65 tuổi chỉ cần đóng góp 2% thu nhập cho chăm sóc sức khỏe, trong khi chủ sử dụng lao động đóng góp 5%.

Biểu 1.1: Tỷ lệ đóng góp vào CPF theo độ tuổi người lao động

Tỷ lệ đóng góp (%/thu nhập) Tỷ lệ vào tài khoản

Nhóm tuổi Người sử dụng lao động

Tài khoản đảm bảo y tế

Nguồn: Tạp chí bảo hiểm xã hội Việt Nam 06/2001

Người lao động tham gia CPF có hai loại tài khoản chính: tài khoản thông thường phục vụ cho các mục đích như nhà ở, đầu tư, bảo hiểm, giáo dục và hưu trí, và tài khoản bảo đảm y tế để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và chi phí thuốc men Ngoài ra, còn có tài khoản đặc biệt dành cho việc sử dụng khi về già hoặc gặp rủi ro Người lao động sẽ nhận lãi suất cho khoản tích lũy trong tài khoản CPF, dựa trên lãi suất của bốn ngân hàng quốc gia lớn, với mức lãi suất tối thiểu là 2,5% mỗi năm.

CPF đảm bảo 5 chế độ trợ cấp cơ bản sau:

Chế độ hưu trí cho phép người lao động từ 55 tuổi rút các khoản tích lũy tại quỹ để mua bảo hiểm nhân thọ nếu đã tiết kiệm đủ Nếu chưa đủ, họ có thể sử dụng tiền từ tài khoản khác, như khoản tiết kiệm hưu trí của bố mẹ do con cái đóng góp Các khoản tích lũy tại CPF có thể được rút hết khi người lao động mất sức lao động vĩnh viễn, định cư ở nước ngoài hoặc qua đời.

Tất cả những người tham gia CPF sẽ được hưởng chế độ chăm sóc y tế miễn phí, được đảm bảo bởi CPF và Chính Phủ.

Từ năm 1968, người lao động tham gia CPF có thể sử dụng số tiền tích lũy trong tài khoản của mình để mua nhà ở Chế độ sở hữu nhà ở này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trong việc sở hữu bất động sản.

Chế độ bảo trợ gia đình nhằm đảm bảo tài chính cho người lao động và gia đình trong trường hợp gặp rủi ro, với mức trợ cấp tối đa lên đến 36.000 $S Đối với chế độ bảo trợ nhà ở, người lao động chỉ cần mua phí bảo hiểm một lần, giúp họ được CPF bảo vệ, tránh mất nhà khi gặp tình trạng mất sức lao động vĩnh viễn hoặc qua đời trước khi hoàn tất các khoản vay mua nhà.

Thứ năm, chế độ tăng trưởng tài sản tạo cơ hội cho người lao động lựa chọn đầu tư CPF cho phép họ đầu tư vào chứng khoán, công ty tín thác, và trái phiếu Chính Phủ Chế độ này hỗ trợ người lao động đầu tư vào các tài sản đa dạng, ngoại trừ nhà ở, và cũng có thể dùng cho việc học tập.

Quỹ CPF đã đạt được sự tăng trưởng hiệu quả nhờ vào các hoạt động đầu tư bảo toàn vốn, sở hữu khối tài sản lớn từ chứng khoán, trái phiếu Chính Phủ và bất động sản Sự phát triển của CPF không chỉ đảm bảo an sinh xã hội cho các thành viên, đặc biệt là lao động khu vực phi kết cấu, mà còn góp phần ổn định chính trị và thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ, nâng cao đời sống của người dân Singapore qua nhiều thập niên.

Việc chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường đa thành phần đã dẫn đến sự thay đổi trong hệ thống phúc lợi xã hội của Trung Quốc, từ phúc lợi đại chúng sang phúc lợi công cộng Trong bối cảnh kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, sự chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ rệt, với một bộ phận dân cư nghèo khổ cần được hỗ trợ an sinh xã hội lâu dài Do đó, việc thiết kế lại các hệ thống an sinh xã hội để phục vụ cho nhiều tầng lớp lao động đang trở thành một yêu cầu cấp thiết tại Trung Quốc.

Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội ở Trung Quốc được chia thành hai bộ phận chính: bộ phận chính thức do Nhà nước quản lý và phân bổ chi phí, và bộ phận phi chính thức bao gồm sự hỗ trợ từ họ hàng, thân tộc, cộng đồng và các mạng lưới xã hội khác.

Hệ thống an sinh xã hội tại Trung Quốc đang được cải cách theo hướng phát triển bền vững, tập trung vào việc phòng ngừa rủi ro cho người lao động thông qua các hoạt động đầu tư xã hội như tạo việc làm, giáo dục và y tế Thay vì chỉ cung cấp cứu trợ tạm thời, hệ thống này hướng tới việc xây dựng nền tảng vững chắc cho sự an toàn xã hội Quá trình thể chế hoá hệ thống an sinh xã hội hiện tại đang diễn ra thông qua việc tu chỉnh Hiến pháp và pháp luật, nhằm thay thế các chương trình an sinh xã hội cũ.

Khu vực kinh tế phi kết cấu ở Trung Quốc đang ngày càng mở rộng, tương tự như các quốc gia đang phát triển khác, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội Những người lao động trong khu vực này được coi là nhóm "dễ bị tổn thương" và chưa được bảo vệ bởi hệ thống an sinh xã hội chính thức Điều này tạo ra áp lực lớn lên hệ thống an sinh xã hội chưa hoàn thiện của Trung Quốc Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số chính sách nhằm cải thiện an sinh xã hội cho nhóm lao động thuộc khu vực phi kết cấu.

Thứ nhất: Hoàn chỉnh các hệ thống

Trao quyền tự quản cho chính quyền địa phương trong việc bảo hộ xã hội đã mang lại nhiều lợi ích Việc chuyển giao trách nhiệm phúc lợi từ Bộ Công dân vụ (MOCA) cho các uỷ ban dân cư đã tạo điều kiện cho sự phát triển các giải pháp có sự tham gia của nhân dân Các uỷ ban dân cư thực hiện nhiều chương trình phúc lợi và cứu trợ, cung cấp dịch vụ như giúp việc nhà, hỗ trợ các hộ khó khăn, tư vấn pháp luật, hoà giải, tổ chức các hoạt động văn hoá, tình nguyện, an ninh, tạo việc làm và bảo vệ môi trường.

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC KINH TẾ PHI KẾT CẤU Ở VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI

QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG AN

Ngày đăng: 29/06/2022, 06:06

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng1.1: Hệ thống lƣơng hƣu của Nhật Bản - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 1.1 Hệ thống lƣơng hƣu của Nhật Bản (Trang 35)
Bảng 2.1: Phân bố lao động xã hội và các khu vực của nền kinh tế - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.1 Phân bố lao động xã hội và các khu vực của nền kinh tế (Trang 46)
Bảng 2.2: Cơ cấu lao động phân theo nhóm tuổi - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.2 Cơ cấu lao động phân theo nhóm tuổi (Trang 47)
Bảng 2.3: Cơ cấu lao động phân theo trình độ học vấn - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.3 Cơ cấu lao động phân theo trình độ học vấn (Trang 48)
Bảng 2.4: Cơ cấu lao động phân theo trình độ đào tạo - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.4 Cơ cấu lao động phân theo trình độ đào tạo (Trang 49)
Bảng 2.5: Cơ cấu lao động phân theo tình trạng hôn nhân - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.5 Cơ cấu lao động phân theo tình trạng hôn nhân (Trang 50)
(63,16%) và số người chưa kết hôn chiếm tỷ lệ cao hơn so với tình hình chung. Số phụ nữ goá bụa cũng chiếm tỷ  lệ cao hơn so với mức chung (3,72%) - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
63 16%) và số người chưa kết hôn chiếm tỷ lệ cao hơn so với tình hình chung. Số phụ nữ goá bụa cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với mức chung (3,72%) (Trang 50)
2.1.2.4.Tình hình hoạt động kinh tế - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
2.1.2.4. Tình hình hoạt động kinh tế (Trang 51)
a. Tình hình thu nhập - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
a. Tình hình thu nhập (Trang 53)
Bảng 2.9: Cơ cấu và chi tiêu bình quân hàng tháng của lao động khu vực phi kết cấu - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.9 Cơ cấu và chi tiêu bình quân hàng tháng của lao động khu vực phi kết cấu (Trang 54)
(Nguồn: Những luận cứ khoa học cho việc hình thành bảo hiểm xã hội tự nguyện, Bộ Lao động - thương binh và xã hội, Hà Nội, 1996) - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
gu ồn: Những luận cứ khoa học cho việc hình thành bảo hiểm xã hội tự nguyện, Bộ Lao động - thương binh và xã hội, Hà Nội, 1996) (Trang 65)
Bảng 2.12. Số ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội nông dân ở Nghệ An ST - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.12. Số ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội nông dân ở Nghệ An ST (Trang 69)
Bảng 2.17: Mong muốn về mức hƣởng bảo hiểm xã hội - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.17 Mong muốn về mức hƣởng bảo hiểm xã hội (Trang 74)
Bảng 2.22: Số liệu chi đảm bảo xã hội qua từng thời kỳ - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.22 Số liệu chi đảm bảo xã hội qua từng thời kỳ (Trang 81)
Bảng 2.24. Kế hoạch và thực hiện chỉ tiêu giảm hộ nghèo đói thời kỳ - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.24. Kế hoạch và thực hiện chỉ tiêu giảm hộ nghèo đói thời kỳ (Trang 87)
Bảng 2.26: Tỷ lệ hộ nghèo thành thị – nông thôn - (LUẬN án TIẾN sĩ) an sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở việt nam
Bảng 2.26 Tỷ lệ hộ nghèo thành thị – nông thôn (Trang 91)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w