TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG DO XÂM NHẬP MẶN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tổng quan các nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương do xâm nhập mặn
1.4 Một số biểu hiện biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Cà Mau
CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN TRONG NGHIÊN CỨU 2.1 Cách tiếp cận
2.2 Các phương pháp thực hiện trong nghiên cứu
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG CỦA CỘNG ĐỒNG
CƯ DÂN VEN BIỂN TỈNH CÀ MAU DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA XÂM NHẬP MẶN VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
Một số biểu hiện biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Cà Mau
CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN TRONG NGHIÊN CỨU 2.1 Cách tiếp cận
2.2 Các phương pháp thực hiện trong nghiên cứu
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG CỦA CỘNG ĐỒNG
CƯ DÂN VEN BIỂN TỈNH CÀ MAU DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA XÂM NHẬP MẶN VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
3.1 Đánh giá về nhiệt độ tỉnh Cà Mau
3.2 Đánh giá về lƣợng mƣa tỉnh Cà Mau
3.3 Đánh giá về xâm nhập mặn tỉnh Cà Mau
3.4 Ảnh hưởng của nhiễm mặn và xâm nhập mặn tại Cà Mau
3.5 Đánh giá tính dễ bị tổn thương của cộng đồng cư dân ven biển tỉnh Cà Mau dưới tác động của xâm nhập mặn
3.6 Đề xuất giải pháp ứng phó và thích ứng với xâm nhập mặn tại Cà Mau KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG DO XÂM NHẬP MẶN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.1 Những khái niệm về tính dễ bị tổn thương do Biến đổi khí hậu
Trên toàn cầu, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm liên quan đến TDBTT và việc áp dụng thuật ngữ này Trong lĩnh vực BĐKH, một số nhà khoa học và tổ chức đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá TDBTT Các khái niệm về TDBTT do BĐKH định hình rất đa dạng và phong phú.
Nghiên cứu của Ron Benioff vào năm 1996 đã giới thiệu khái niệm TDBTT, đề cập đến khả năng tiềm tàng và tác động của các tai biến trong từng bối cảnh xã hội và môi trường sống cụ thể.
Năm 1997, Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) đã định nghĩa TDBTT (Tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu) là mức độ nhạy cảm của các hệ thống tự nhiên và xã hội đối với những thiệt hại lâu dài gây ra bởi biến đổi khí hậu.
Năm 2007, IPCC đã đưa ra khái niệm TDBTT do BĐKH, định nghĩa mức độ mà hệ thống dễ bị ảnh hưởng và thiếu khả năng chống chịu trước các tác động bất lợi.
Ngoài ra, những nhà nghiên cứu khác cũng đƣa ra quan điểm riêng của mình về TDBTT nhƣ sau:
Theo nghiên cứu của Chamber năm 1983, TDBTT bao gồm hai khía cạnh chính: mặt ngoài và mặt trong Mặt ngoài đề cập đến rủi ro mà cá nhân hoặc hộ gia đình phải đối mặt do các cú sốc từ biến đổi khí hậu, trong khi mặt trong thể hiện sự thiếu khả năng bảo vệ, tức là không có đủ phương tiện để ứng phó mà không chịu thiệt hại.
Theo nghiên cứu của Theo Blaikie và các cộng sự vào năm 1994, TDBTT được định nghĩa là những đặc điểm liên quan đến khả năng dự đoán, ứng phó, chống chịu và phục hồi của cá nhân hoặc nhóm người trước các tác động của nguy cơ do biến đổi khí hậu gây ra.
Theo nghiên cứu của Theo Watson và cộng sự năm 1996, TDBTT được định nghĩa là mức độ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể gây ra thiệt hại cho hệ thống, khả năng thích ứng với các điều kiện khí hậu có thể xảy ra, và các biện pháp ứng phó cần thiết.
Theo nghiên cứu của Theo Kasperson và cộng sự năm 2000, TDBTT (Tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu) được định nghĩa là mức độ mà một hệ thống có thể chịu đựng tổn thất do biến đổi khí hậu, cùng với khả năng ứng phó và thích ứng để chuyển đổi thành một hệ thống mới mà không đáp ứng được các yêu cầu hiện tại.
TDBTT (tổn thương do biến đổi khí hậu) bao gồm hai yếu tố chính: mức độ tổn thất và suy thoái của hệ thống, cùng với khả năng chống chịu, phục hồi và ứng phó của đối tượng bị tổn thương Định nghĩa TDBTT do BĐKH là mức độ mà một hệ thống tự nhiên, xã hội hoặc kinh tế có thể bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, hoặc khả năng thích ứng với những tác động bất lợi từ hiện tượng này.
1.2 Tổng quan các nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương do xâm nhập mặn
1.2.1 Lịch sử nghiên cứu trên thế giới
Hiện nay, TDBTT đang được nghiên cứu rộng rãi tại nhiều khu vực chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cũng như trong các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, văn hóa, xã hội, hệ thống tự nhiên và cộng đồng dân cư.
Từ cuối thế kỷ XX, nhiều nghiên cứu về TDBTT đã được thực hiện, thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, nổi bật là công trình của Watts và Bohle (1993) về mối liên hệ giữa nghèo đói và không gian xã hội bị tổn thương Nghiên cứu của Adger (1996) đã làm rõ cách tiếp cận đánh giá TDBTT liên quan đến tính dễ bị tổn thương và sự thay đổi Các nghiên cứu khác như của Sander Evan der Leeuw và Chr Aschan-Leygonie (2000) và nhóm nghiên cứu của Adger (2004) cũng đóng góp vào lĩnh vực này Để đánh giá TDBTT, cần xem xét 7 yếu tố quan trọng, bao gồm cường độ tác động, thời gian và mức độ dai dẳng của tác động, độ tin cậy trong đánh giá, năng lực thích ứng, phân bố các khía cạnh tác động, và tầm quan trọng của hệ thống khi gặp nguy hiểm (IPCC, 2007).
Kết quả từ các nghiên cứu đã đóng góp giá trị quan trọng trong việc nghiên cứu và đánh giá TDBTT, đồng thời phản ánh xu thế BĐKH toàn cầu Những phát hiện này giúp các quốc gia và tổ chức có cơ sở để áp dụng trong việc đánh giá TDBTT hiệu quả hơn.
1.2.2 Lịch sử nghiên cứu tại Việt Nam
Kể từ năm 1994, nhiều nghiên cứu về tác động của nước biển dâng đến tài nguyên đất bền vững ở các vùng đồng bằng ven biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu đã được thực hiện tại Việt Nam Những nghiên cứu này không chỉ đánh giá khả năng rủi ro mà còn cung cấp thông tin hữu ích cho cộng đồng dân cư địa phương Một số nghiên cứu tiêu biểu đã được tham khảo và đánh giá cao trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu TDBTT xã hội ở huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định và khả năng phục hồi, thích nghi do thay đổi về kinh tế, BĐKH (Adger và cộng sự, 1999)
Năm 2005, nghiên cứu của Lê Thị Thu Hiền đã tạo ra bản đồ TDBTT, giúp xác định các yếu tố ảnh hưởng tới TDBTT ở ven biển Hải Phòng, từ đó góp phần vào phát triển kinh tế bền vững và quản lý tổng hợp tại địa phương.
Năm 2009, quỹ Rockefeller đã hỗ trợ nghiên cứu "Đánh giá TDBTT và các tác động của BĐKH tại Cần Thơ" với mục tiêu xác định các khu vực, lĩnh vực và nhóm người dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu cùng nguyên nhân của tình trạng này.
CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN TRONG NGHIÊN CỨU 20 2.1 Cách tiếp cận
Các phương pháp thực hiện trong nghiên cứu
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG CỦA CỘNG ĐỒNG
CƯ DÂN VEN BIỂN TỈNH CÀ MAU DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA XÂM NHẬP MẶN VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
3.1 Đánh giá về nhiệt độ tỉnh Cà Mau
3.2 Đánh giá về lƣợng mƣa tỉnh Cà Mau
3.3 Đánh giá về xâm nhập mặn tỉnh Cà Mau
3.4 Ảnh hưởng của nhiễm mặn và xâm nhập mặn tại Cà Mau
3.5 Đánh giá tính dễ bị tổn thương của cộng đồng cư dân ven biển tỉnh Cà Mau dưới tác động của xâm nhập mặn
3.6 Đề xuất giải pháp ứng phó và thích ứng với xâm nhập mặn tại Cà Mau KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG DO XÂM NHẬP MẶN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.1 Những khái niệm về tính dễ bị tổn thương do Biến đổi khí hậu
Trên thế giới, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm liên quan đến TDBTT, đặc biệt trong lĩnh vực BĐKH Nghiên cứu và đánh giá TDBTT đã được thực hiện bởi nhiều nhà khoa học và tổ chức quốc tế, với các khái niệm tiêu biểu về TDBTT do BĐKH gây ra.
Nghiên cứu của Ron Benioff vào năm 1996 giới thiệu khái niệm TDBTT, đề cập đến khả năng tiềm tàng và tác động của các tai biến trong từng bối cảnh xã hội và môi trường sống cụ thể.
Năm 1997, Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) đã định nghĩa TDBTT là mức độ nhạy cảm của các hệ thống tự nhiên và xã hội trước những thiệt hại lâu dài do biến đổi khí hậu gây ra.
Năm 2007, IPCC đã giới thiệu khái niệm TDBTT (Tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu), mô tả mức độ mà hệ thống có khả năng bị ảnh hưởng và thiếu khả năng chống chịu trước các tác động bất lợi.
Ngoài ra, những nhà nghiên cứu khác cũng đƣa ra quan điểm riêng của mình về TDBTT nhƣ sau:
Theo nghiên cứu của Chamber năm 1983, TDBTT (tính dễ bị tổn thương) bao gồm hai khía cạnh chính: mặt ngoài và mặt trọng Mặt ngoài đề cập đến rủi ro mà cá nhân hoặc hộ gia đình phải đối mặt do các cú sốc từ biến đổi khí hậu, trong khi mặt trong phản ánh sự thiếu khả năng bảo vệ, tức là sự thiếu hụt các phương tiện cần thiết để ứng phó mà không phải chịu thiệt hại.
Theo nghiên cứu của Theo Blaikie và cộng sự năm 1994, TDBTT được định nghĩa là khả năng dự đoán, đối phó, chống chịu và phục hồi của cá nhân hoặc nhóm người trước các tác động từ nguy cơ do biến đổi khí hậu.
Theo nghiên cứu của Theo Watson và cộng sự vào năm 1996, TDBTT được định nghĩa là mức độ tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) có thể gây ra thiệt hại cho một hệ thống, khả năng thích ứng với các điều kiện khí hậu có thể xảy ra và các biện pháp ứng phó cần thiết.
Theo nghiên cứu của Theo Kasperson và cộng sự vào năm 2000, TDBTT (tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu) được định nghĩa là mức độ mà một hệ thống có thể bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, cũng như khả năng ứng phó và thích ứng để chuyển đổi thành một hệ thống mới, không còn đáp ứng được các yêu cầu trước đó.
TDBTT (tổn thương do biến đổi khí hậu) bao gồm hai yếu tố chính: mức độ tổn thất và suy thoái của hệ thống, cùng với khả năng chống chịu, phục hồi và ứng phó của đối tượng bị tổn thương Định nghĩa một cách rõ ràng, TDBTT do biến đổi khí hậu là mức độ mà một hệ thống tự nhiên, xã hội hoặc kinh tế có thể bị tổn thương hoặc không đủ khả năng thích ứng với các tác động bất lợi từ biến đổi khí hậu.
1.2 Tổng quan các nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương do xâm nhập mặn
1.2.1 Lịch sử nghiên cứu trên thế giới
Hiện nay, TDBTT đang được nghiên cứu rộng rãi tại nhiều khu vực chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cũng như trong các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, văn hóa, xã hội, hệ thống tự nhiên và cộng đồng dân cư.
Từ cuối thế kỷ XX, nhiều nghiên cứu về TDBTT đã được thực hiện, đáng chú ý là công trình của Watts và Bohle (1993) khám phá mối liên hệ giữa nghèo đói và không gian xã hội bị tổn thương Nghiên cứu của Adger (1996) đã cung cấp cách tiếp cận để đánh giá TDBTT liên quan đến tính dễ bị tổn thương Các nghiên cứu khác như của Sander Evan der Leeuw và Chr Aschan-Leygonie (2000), cùng với Adger và các cộng sự (2004), cũng như báo cáo của IPCC (2007), đã làm rõ thêm các khái niệm này Để đánh giá TDBTT, cần xem xét 7 yếu tố quan trọng: cường độ tác động, thời gian và mức độ dai dẳng của tác động, tính tin cậy trong đánh giá, năng lực thích ứng, phân bố các khía cạnh của tác động, và tầm quan trọng của hệ thống khi gặp nguy hiểm.
Kết quả nghiên cứu đã đóng góp nhiều giá trị cho việc nghiên cứu và đánh giá TDBTT, đồng thời chỉ ra xu thế BĐKH toàn cầu Những kết quả này tạo điều kiện cho các quốc gia và tổ chức áp dụng trong việc đánh giá TDBTT hiệu quả hơn.
1.2.2 Lịch sử nghiên cứu tại Việt Nam
Bắt đầu từ năm 1994, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về tác động của nước biển dâng đến TDBTT ở các vùng đồng bằng ven biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam Các nghiên cứu này không chỉ đánh giá khả năng rủi ro mà còn cung cấp thông tin hữu ích cho người dân Một số nghiên cứu tiêu biểu đã được tham khảo và đánh giá cao.
Nghiên cứu TDBTT xã hội ở huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định và khả năng phục hồi, thích nghi do thay đổi về kinh tế, BĐKH (Adger và cộng sự, 1999)
Vào năm 2005, nghiên cứu của Lê Thị Thu Hiền đã xây dựng bản đồ TDBTT với các yếu tố ảnh hưởng đến TDBTT ở khu vực ven biển Hải Phòng, đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế bền vững và quản lý tổng hợp tại địa phương.
Vào năm 2009, quỹ Rockefeller đã hỗ trợ nghiên cứu mang tên “Đánh giá TDBTT và các tác động của BĐKH tại Cần Thơ” với mục tiêu xác định các khu vực, lĩnh vực và nhóm người dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu cùng những nguyên nhân liên quan.