Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu
Thời gian thực hiện nghiên cứu từ 1/6/2016 – 10/2017.
Đối tượng/ vật liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tính dễ tổn thương về sinh kế của cộng đồng dân cư xã Cồn Thoi, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Vật liệu nghiên cứu bao gồm:
- Các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội qua các năm của xã Cồn Thoi, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
- Số liệu về khí tượng
- Bảng phỏng vấn người dân địa phương được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp.
Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại địa điểm nghiên cứu
- Đánh giá tình hình BĐKH trên địa bàn nghiên cứu trong những năm gần đây
- Đánh giá sự tổn thương do BĐKH tác động đến sinh kế cộng đồng dân cư theo chỉ số LVI (chỉ số tổn thương sinh kế)
Đánh giá sự tổn thương do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra cho sinh kế của cộng đồng dân cư được thực hiện thông qua chỉ số LVI theo khung sinh kế của IPCC Chỉ số LVI giúp xác định mức độ ảnh hưởng của BĐKH đối với các nguồn sinh kế và khả năng phục hồi của cộng đồng, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan về những thách thức mà họ phải đối mặt trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực thích ứng và cải thiện sinh kế người dân trước những tác động của BĐKH.
Phương pháp nghiên cứu
3.5.1 Phương pháp thu thập số liệu
Quan sát, chụp ảnh nhằm thu thập các thông tin một cách trực quan trên địa bàn nghiên cứu
3.5.1.2 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của điểm nghiên cứu được thu thập qua UBND huyện Kim Sơn, UBND xã Cồn Thoi
Dữ liệu khí tượng trong nghiên cứu được thu thập từ trạm Khí tượng thủy văn Văn Lý, Hải Hậu, Nam Định, nơi gần biển và huyện Kim Sơn, Ninh Bình Trạm này cung cấp số liệu khí tượng có độ tương đồng cao với khu vực nghiên cứu, với hơn 50 năm dữ liệu được ghi nhận từ năm
3.5.1.3 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn hộ dân nhằm đánh giá mức độ dễ bị tổn thương về sinh kế và tác động của vị trí tương đối so với biển.
Trong tổng số 10 xóm của xã lựa chọn 2 xóm đại diện (1 xóm gần biển hơn;
1 xóm xa biển hơn) bằng cách bốc thăm có điều chỉnh (Hình 4.1)
Từ mỗi xóm, chúng tôi ngẫu nhiên chọn 50 hộ gia đình thuộc các nhóm xã hội khác nhau, bao gồm 25 hộ nghèo và 25 hộ khá giả Việc lựa chọn này được thực hiện thông qua bốc thăm từ danh sách hộ dân của UBND xã Tất cả các thành viên tham gia phỏng vấn đều có độ tuổi trên 45.
Các câu hỏi được soạn để phỏng vấn người dân tập trung vào 8 vấn đề chính:
Hồ sơ nhân khẩu, chiến lược sinh kế, mạng lưới xã hội, sức khoẻ, nước, vốn tài chính, nhà cửa và đất sản xuất, cùng với thảm họa thiên nhiên và sự thay đổi khí hậu đều là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của cộng đồng Việc quản lý hiệu quả các yếu tố này không chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống mà còn tăng cường khả năng chống chịu trước những biến đổi môi trường và rủi ro thiên tai.
Chúng tôi đã thực hiện phỏng vấn sâu với Chủ tịch xã và một số người dân để tìm hiểu về diễn biến thời tiết trong những năm gần đây, cũng như những tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với đời sống của cộng đồng và khả năng thích ứng của họ với những thay đổi này.
3.5.2 Phương pháp phân tích số liệu
Dữ liệu sơ cấp và thứ cấp đã được tổng hợp và phân tích bằng phần mềm Microsoft Excel Nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá chỉ số tổn thương sinh kế LVI (Livelihood Vulnerability Index) theo đề xuất của Hahn et al (2009) nhằm đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với sinh kế của cộng đồng ven biển Theo Hahn và các cộng sự, có hai cách tiếp cận chính đối với chỉ số LVI.
LVI được xác định là một chỉ số hỗn hợp bao gồm bảy yếu tố chính: hồ sơ nhân khẩu, chiến lược sinh kế, mạng lưới xã hội, sức khỏe, lương thực, nguồn nước, thảm họa thiên nhiên và biến đổi khí hậu Mỗi yếu tố này lại bao gồm một số chỉ báo hoặc yếu tố phụ liên quan.
Bài báo cáo này mô phỏng theo nghiên cứu của Hahn et al (2009) với một số điều chỉnh để phù hợp với điều kiện nghiên cứu hiện tại Cụ thể, yếu tố lương thực - thực phẩm đã được thay thế bằng yếu tố vốn tài chính, đồng thời bổ sung thêm yếu tố nhà cửa và đất sản xuất Do đó, chỉ số LVI trong nghiên cứu này được thể hiện như một chỉ số hỗn hợp bao gồm 8 yếu tố chính: hồ sơ nhân khẩu, chiến lược sinh kế, mạng lưới xã hội, sức khỏe, vốn tài chính, nhà cửa và đất sản xuất, nguồn nước, cùng với các thảm họa thiên nhiên và sự thay đổi khí hậu.
Theo định nghĩa của Uỷ ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), khả năng tổn thương bao gồm ba tác nhân chính: sự hứng chịu, độ nhạy cảm và khả năng thích ứng Tập hợp 8 yếu tố chính này vào trong ba tác nhân sẽ giúp hiểu rõ hơn về mức độ tổn thương của các hệ thống tự nhiên và xã hội trước tác động của biến đổi khí hậu.
Để tính LVI, cần chuẩn hóa các yếu tố phụ do chúng được đo lường theo hệ thống khác nhau, nhằm tạo ra một chỉ số thống nhất theo công thức dưới đây.
Giá trị gốc của yếu tố phụ (Sd) đối với địa phương (xã/xóm) d được xác định, với Smin và Smax là các giá trị tối thiểu và tối đa tương ứng Sau khi chuẩn hóa, các yếu tố phụ sẽ được tính trung bình để xác định giá trị của từng yếu tố chính thông qua công thức đã được áp dụng.
Md là một trong tám yếu tố chính của địa phương (xã/xóm) d, trong đó indexsdi thể hiện các yếu tố phụ được ghi chỉ số theo i, tạo nên mỗi yếu tố chính, với n là số lượng yếu tố phụ trong mỗi yếu tố chính Khi giá trị của các yếu tố chính được xác định, chỉ số tổn thương sinh kế cấp địa phương (xã/xóm) sẽ được tính toán theo công thức cụ thể.
LVId, hay chỉ số tổn thương sinh kế địa phương, đo lường mức độ tổn thương tại các xã/xóm dựa trên trung bình có trọng số của 8 yếu tố chính Mỗi yếu tố chính được gán một trọng số cụ thể, phản ánh tầm quan trọng của chúng trong việc đánh giá tình hình sinh kế địa phương.
WMi được xác định bằng số lượng các yếu tố phụ tạo nên các yếu tố chính
Trong nghiên cứu này, giá trị chỉ số LVI dao động trong khoảng 0 (mức tổn thương thấp nhất) đến 1 (mức tổn thương cao nhất) Cụ thể:
LVI = 0: Không bị tổn thương
0 < LVI < 0,4 : Tổn thương ở mức trung bình
0,4 ≤ LVI < 0,7: Tổn thương ở mức cao
0,7 ≤ LVI ≤ 1: Tổn thương ở mức rất cao
Bảng 3.1 Sự đóng góp của các yếu tố theo IPCC đến các yếu tố tổn thương chính
Yếu tố chính Yếu tố phụ
Sự phô bày (sự thể hiện của tác động) (e) Thảm họa thiên nhiên và BĐKH
Khả năng thích ứng (a) Hồ sơ nhân khẩu
Chiến lược sinh kế Mạng lưới xã hội
Tính dễ tổn thương (s) Sức khỏe
Vốn tài chính Nhà cửa và đất sản xuất Nguồn nước
Nguồn: Mô phỏng theo Hahn et al., (2009)
Yếu tố khả năng thích ứng được tính bằng cách lấy 1 trừ đi yếu tố tính dễ tổn thương của các yếu tố phụ như hồ sơ nhân khẩu, chiến lược sinh kế và mạng lưới xã hội Ví dụ, nếu tỷ lệ phụ thuộc của xóm 8B là 0,28, thì chỉ số khả năng thích ứng sẽ được tính là 1 - 0,28 = 0,72.
Thay vì kết hợp tất cả các yếu tố chính vào LVI trong một bước, phương pháp này áp dụng cách tiếp cận từng bước, kết hợp các yếu tố chính theo bảng 3.1 thông qua một công thức cụ thể.
CFd là một tác nhân “đóng góp” theo IPCC;
Mdi là yếu tố chính cho địa phương (xã/xóm) d được ghi chỉ số theo i;
WMi là trọng số của mỗi yếu tố chính; n là số yếu tố chính trong mỗi tác nhân đóng góp
Trong đó: e là sự phô bày; s là sự nhạy cảm/ tính dễ tổn thương; a là khả năng thích ứng
Trong nghiên cứu này, giá trị của LVI-IPCC dao động từ -1 (mức tổn thương thấp nhất) đến 1 (mức tổn thương cao nhất) Cụ thể:
LVI – IPCC = -1: Không bị tổn thương
-1 < LVI – IPCC < -0,5 : Tổn thương ở mức trung bình
-0,5 ≤ LVI – IPCC < 0,5: Tổn thương ở mức cao
0,5 ≤ LVI – IPCC ≤ 1: Tổn thương ở mức rất cao
Mô hình sự đóng góp của các yếu tố theo IPCC đến các yếu tố tổn thương chính được thể hiện trong hình sau:
Hình 3 1 Mô hình sự đóng góp của các yếu tố theo IPCC đến các yếu tố tổn thương chính
Sự phô bày thể hiện của tác động Đánh giá chỉ số tổn thương
Thảm họa thiên nhiên và
Nhà cửa và đất sản xuất