TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 9
1 1 Mức độ quan tâm và các hướng nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế
Nghiên cứu thuế có thể được tiếp cận từ nhiều lĩnh vực như luật, kinh tế, kế toán, tâm lý học và tài chính công (McKerchar, 2010) Một trong những nghiên cứu sớm nhất về hành vi trốn thuế là của Groves (1958), ông đã phỏng vấn những người thuê nhà để đánh giá hành vi trốn thuế của chủ nhà thông qua việc kiểm tra các tờ khai thuế Kể từ đó, đã có nhiều nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế trên toàn cầu với các mục tiêu và phạm vi khác nhau (Xem bảng 2 – Phụ lục 01) Tại Việt Nam, nhiều nhà khoa học cũng đã nghiên cứu về tuân thủ thuế, trong đó có Nguyễn Thị Lệ Thúy.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của doanh nghiệp tại Việt Nam Trong đó, luận án tiến sĩ của tác giả năm 2009 tập trung vào việc hoàn thiện quản lý thu thuế để tăng cường sự tuân thủ thuế ở Hà Nội Năm 2012, Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Hoàng Quân phân tích hành vi nộp thuế đúng hạn của doanh nghiệp tư nhân Nghiên cứu năm 2013 của Nguyễn Hoàng và Đào Thị Phương Liên chỉ ra ảnh hưởng của chính sách thuế đến tuân thủ thuế, kèm theo các kiến nghị Đặng Thị Bạch Vân (2014) xem xét vấn đề người nộp thuế và tuân thủ thuế, trong khi Phan Thị Mỹ Dung và Lê Quốc Hiếu (2015) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của doanh nghiệp Luận án tiến sĩ của Lèng Hoàng Minh (2017) đề xuất giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế ở Việt Nam Nghiên cứu của Bùi Ngọc Toản (2017) tập trung vào hành vi tuân thủ thuế thu nhập của doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh, và Phạm Thị Mỹ Linh (2019) phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế ở Hà Nội Cuối cùng, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Dương và cộng sự (2019) đánh giá các yếu tố quyết định ảnh hưởng đến tuân thủ thuế tại Việt Nam.
Tuân thủ thuế được hiểu đơn giản là mức độ sẵn sàng của người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, trong khi không tuân thủ thuế xảy ra khi người nộp thuế không thực hiện nghĩa vụ này (Kirchler, 2007) Theo nghiên cứu của Kirchler và Wahl (2010), tuân thủ thuế có thể chia thành hai loại: tuân thủ thuế tự nguyện và tuân thủ thuế bắt buộc, trong khi không tuân thủ thuế bao gồm hành vi trốn thuế và tránh thuế.
Tuân thủ thuế có hai hình thức: tuân thủ tự nguyện, trong đó người nộp thuế coi việc nộp thuế là nghĩa vụ công dân, và tuân thủ bắt buộc, liên quan đến nỗi sợ bị phát hiện và trừng phạt Tránh thuế được hiểu là việc giảm thiểu thuế trong khuôn khổ pháp lý, trong khi trốn thuế là hành vi vi phạm pháp luật.
Theo nghiên cứu của Cechovsky (2018), từ năm 1992 đến 2021, có sự chênh lệch rõ rệt trong nghiên cứu về tuân thủ thuế, với 48/63 công trình tập trung vào tuân thủ thuế, trong khi nghiên cứu về không tuân thủ thuế ít hơn Đặc biệt, từ năm 2012 đến 2021, nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế tự nguyện và bắt buộc gia tăng đáng kể Các công trình nghiên cứu này được thực hiện ở nhiều quốc gia, bao gồm cả nước phát triển như Mỹ, Áo, Hàn Quốc và các nước đang phát triển như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Jordan, Ghana, Campuchia và Việt Nam.
Nghiên cứu về tuân thủ thuế đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả với các hướng đi đa dạng, bao gồm việc khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến ý định và hành vi tuân thủ thuế Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm làm rõ hành vi tuân thủ thuế (Arcos Holzinger và cộng sự, 2016; Alm và cộng sự, 2016) cũng như xây dựng thang đo để đo lường hành vi này (Kirchler và Wahl, 2010) Bên cạnh đó, một số nghiên cứu còn tập trung vào việc đánh giá và so sánh mức độ tuân thủ thuế giữa các quốc gia (Mas’ud và cộng sự, 2019; Alm và cộng sự, 2016; Mas’ud và cộng sự, 2014; Natrah Saad, 2012; Alan Lewis và cộng sự, 2009).
Nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế theo các sắc thuế rất đa dạng, bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp (Bùi Ngọc Toản, 2017; Gobena và cộng sự, 2016) và thuế giá trị gia tăng (Azmi và cộng sự, 2016; Harju và cộng sự, 2019) Các nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về hành vi của người nộp thuế trong bối cảnh các loại thuế khác nhau.
He và Huina Xiao, 2019; Fjeldstad và cộng sự, 2020; Alshira’h và cộng sự, 2020) hay thuế thu nhập (Khasawneh và cộng sự, 2008) (Xem bảng 1 – Phụ lục 01)
Đối tượng nộp thuế không chỉ bao gồm cá nhân mà còn mở rộng đến các doanh nghiệp lớn, như đã được đề cập trong các nghiên cứu của Alm và cộng sự (2010), Benk và cộng sự (2010), Lèng Hoàng Minh (2017), Da Silva và cộng sự (2019), cùng với Robbins và Kiser (2020) Sự đa dạng trong đối tượng nghiên cứu về tuân thủ thuế cho thấy tầm quan trọng của việc hiểu rõ các nhóm khác nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
2018) cũng như các doanh nghiệp nói chung (Nguyễn Thị Lệ Thúy, 2009; Phan Thị
Mỹ Dung và Lê Quốc Hiếu, 2015; Bùi Ngọc Toản, 2017; Phạm Thị Mỹ Linh, 2019;
Nguyễn Thị Thùy Dương và cộng sự (2019) đã nghiên cứu về các loại hình doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp vừa và nhỏ (Malik và Younus, 2020; Alshira’h và cộng sự, 2020), doanh nghiệp siêu nhỏ (Abba Ya’u, Natrah Saad, 2019), doanh nghiệp khởi nghiệp (Nagel và cộng sự, 2018), và doanh nghiệp tư nhân (Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Hoàng Quân, 2012) Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đề cập đến cá nhân tự kinh doanh (Eichfelder và Kegels, 2014; Olsen và cộng sự, 2018; Choo và cộng sự, 2016), cũng như vai trò của đại lý thuế (Abdul Hamid, 2014) và chuyên gia tư vấn thuế (Darmayasa và Aneswari).
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tuân thủ thuế đối với nhân viên thuế (Fagbemi và cộng sự, 2010), nhưng vẫn còn thiếu các nghiên cứu tập trung vào đối tượng hộ kinh doanh cá thể, đặc biệt là những người làm nghề và kinh doanh tại các làng nghề Đây là một khoảng trống quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu về tuân thủ thuế.
Nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam, đặc biệt trong các làng nghề, vẫn còn là một khoảng trống lớn Hầu hết các nghiên cứu hiện tại tập trung vào quản lý thuế, như luận văn của Lê Kim Ngọc (2016), đã phân tích thực trạng quản lý thuế tại quận Hoàng Mai, chỉ ra những ưu nhược điểm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý thuế Nguyễn Thị Biên (2017) cũng đã trình bày chi tiết về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán, đồng thời đưa ra các giải pháp cải thiện tổ chức bộ máy và tăng cường kiểm tra thuế Bài báo của Nguyễn Thị Thủy (2017) nhấn mạnh những hạn chế trong công tác quản lý thuế, như tình trạng trốn thuế và gian lận, và đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế Cuối cùng, nghiên cứu của Nguyễn Hải Nam (2020) đã phân tích thực trạng quản lý thuế tại huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, góp phần làm rõ hơn về tình hình tuân thủ thuế của hộ kinh doanh cá thể.
Năm 2019, phân tích dữ liệu từ khảo sát 60 hộ kinh doanh cá thể tại huyện Việt Yên đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong công tác quản lý thuế Nghiên cứu cũng rút ra bài học kinh nghiệm và nguyên nhân của các vấn đề hiện tại, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm rà soát đối tượng kinh doanh và tăng cường quản lý nợ đọng Những biện pháp này nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước cho huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Dựa trên các nghiên cứu hiện có, tác giả nhận thấy rằng nghiên cứu về tuân thủ thuế đã được nhiều tác giả thực hiện Tuy nhiên, nghiên cứu hành vi tuân thủ thuế của hộ kinh doanh cá thể trong các làng nghề ở Việt Nam vẫn là một lĩnh vực chưa được khai thác, tạo thành một khoảng trống trong nghiên cứu về tuân thủ thuế.
1 2 Các lý thuyết, mô hình nghiên cứu liên quan đến hành vi tuân thủ thuế
Tuân thủ thuế là khái niệm mô tả sự sẵn sàng của người nộp thuế trong việc nộp thuế (Kirchler, 2007), tuy nhiên, không có một quan điểm chung nào về tuân thủ thuế (Devos, 2008) Allingham và Sandmo (1972) định nghĩa tuân thủ thuế là quyết định kê khai thu nhập thực tế với cơ quan thuế trong bối cảnh không chắc chắn, nơi người nộp thuế có thể chọn kê khai số thuế chính xác hoặc thấp hơn số thực tế.
Lý thuyết/ mô hình Nội dung chính của lý thuyết/ mô hình Công trình nghiên cứu áp dụng lý thuyết theo tên tác giả/ nhóm tác giả
TTT là quy trình kê khai thu nhập thực tế với cơ quan thuế trong bối cảnh không chắc chắn Người nộp thuế (NNT) có thể lựa chọn kê khai thuế nhằm đảm bảo số tiền thuế nộp đúng hoặc thấp hơn mức phải nộp Quyết định này phụ thuộc vào khả năng bị phát hiện và mức phạt có thể phải chịu.
Mọi người sẽ tuân thủ luật pháp nếu họ nhận thức quá trình xây dựng và thực thi