TRƯỜNG ĐH KINH TẾ QUẢN TRỊ KINH DOANH KHOA QUẢN LÝ LUẬT KINH TẾ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH LUẬT KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH TÊN ĐỀ TÀI HOÀ GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI UBND CẤP XÃ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI UBND XÃ DƯƠNG PHONG, HUYỆN BẠCH THÔNG, TỈNH BẮC KẠN TRƯỜNG ĐH KINH TẾ QUẢN TRỊ KINH DOANH KHOA QUẢN LÝ LUẬT KINH TẾ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH LUẬT KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện Lớp LUẬT KINH DOANH i LỜI CẢM ƠN Trước tiên với tình cảm.
Mục tiêu nghiên cứu
Tình hình tranh chấp đất đai tại xã Dương Phong, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn đang diễn ra phức tạp, gây khó khăn trong công tác quản lý UBND xã Dương Phong cần đánh giá hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai hiện tại để tìm ra những điểm yếu trong quản lý Để cải thiện tình hình, cần đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý đất đai, nhằm giảm thiểu các vụ tranh chấp và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người dân.
- Thực trạng pháp luật về hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã hiện nay.
- Thực trạng công tác quản lý đất đai tại xã Dương Phong.
UBND xã Dương Phong đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc giải quyết tranh chấp đất đai, điều này phản ánh những hạn chế trong thực trạng pháp luật quản lý đất đai tại địa phương Để nâng cao hiệu quả công tác hòa giải tranh chấp đất đai, cần có những cải tiến trong quy trình và chính sách, từ đó tạo ra môi trường pháp lý rõ ràng và minh bạch hơn cho người dân Việc tăng cường công tác hòa giải không chỉ giúp giảm thiểu xung đột mà còn góp phần phát triển bền vững cho xã Dương Phong.
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu tốt nhất, khoá luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp liệt kê liên quan đến việc thu thập thông tin và tài liệu từ cán bộ địa chính xã Dương Phong, UBND xã cùng các ban ngành liên quan Sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn cấp huyện là cần thiết để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả.
Phương pháp phân tích - tổng hợp là quy trình nghiên cứu bắt đầu từ lý thuyết, phân tích tài liệu liên quan và kiến thức đã có, kết hợp với xu hướng phát triển trong lĩnh vực tranh chấp đất đai và pháp luật điều chỉnh Qua đó, phương pháp này giúp tổng hợp thông tin để xây dựng lý thuyết chọn lọc và những dữ liệu cần thiết, từ đó hoàn thiện đề tài nghiên cứu một cách hiệu quả.
Phương pháp so sánh là một công cụ quan trọng trong việc đánh giá và phân tích các vụ việc liên quan đến xử lý và quản lý đất đai của cán bộ qua các năm Bằng cách so sánh các trường hợp khác nhau, chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm và cải thiện quy trình quản lý đất.
Phương pháp đánh giá tranh chấp đất đai dựa trên việc nghiên cứu và phân tích quá trình hình thành và phát triển của các tranh chấp này, cũng như việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết Qua đó, làm rõ mối quan hệ giữa tranh chấp đất đai và các quy định pháp luật liên quan, cùng với thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
Ngoài các phương pháp liệt kê, phân tích - tổng hợp, so sánh khóa luận còn sử dụng các phương pháp khác.
Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo khóa luận tốt nghiệp gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoà giải tranh chấp đất đai và pháp luật về hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã
Chương 2 của bài viết tập trung vào pháp luật Việt Nam liên quan đến hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, với một cái nhìn cụ thể vào thực tiễn thực hiện tại UBND xã Dương Phong, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn Nội dung sẽ phân tích các quy định pháp lý, quy trình hoà giải và những thách thức mà UBND xã Dương Phong gặp phải trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác hoà giải.
Chương 3 tập trung vào việc hoàn thiện pháp luật về hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, đặc biệt là tại UBND xã Dương Phong, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật trong công tác hoà giải, từ đó giảm thiểu tranh chấp và tạo ra môi trường ổn định cho phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOÀ GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOÀ GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI UBND CẤP XÃ
Khái quát chung về tranh chấp đất đai và hoà giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp đất đai
Theo Điều 3, khoản 24 của Luật Đất đai 2013, tranh chấp đất đai được định nghĩa là sự bất đồng về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong mối quan hệ đất đai Cần lưu ý rằng đối tượng tranh chấp không phải là quyền sở hữu đất, và các bên tham gia tranh chấp không nhất thiết phải là những chủ thể sở hữu đất.
Theo Hiến pháp 2013 và Điều 4 của Luật Đất đai 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước đại diện cho chủ sở hữu và thực hiện việc quản lý thống nhất.
Khái niệm tranh chấp đất đai theo luật đất đai bao gồm các tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và địa giới hành chính Đất đang có tranh chấp được hiểu là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp và cá nhân khác hoặc nhà nước xảy ra tranh chấp về quyền sử dụng, tài sản gắn liền, ranh giới, mục đích sử dụng, hoặc quyền và nghĩa vụ trong quá trình sử dụng Ngoài ra, đất tranh chấp cũng có thể là tình huống giữa hai cá nhân mà chưa xác định được ai là người sử dụng đất hợp pháp.
1.1.1.2 Nguyên nhân dẫn tới tranh chấp đất đai
Chiến tranh kéo dài đã để lại những hậu quả khác nhau cho hai miền Việt Nam Ở miền Bắc, sau Cách mạng tháng 8 và năm 1953, Đảng và Chính phủ đã thực hiện cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu của thực dân và phong kiến, đồng thời thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho người dân Đến năm 1960, qua hợp tác hóa nông nghiệp, ruộng đất của nông dân trở thành sở hữu tập thể, tạo ra sự ổn định trong việc sử dụng đất đai Ngược lại, ở miền Nam, tình hình sử dụng đất đai phức tạp hơn sau hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm Trong giai đoạn kháng chiến, Chính phủ đã chia ruộng đất cho nông dân hai lần vào năm 1949-1950 và năm 1954, nhưng đến năm 1957, ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện cải cách điền địa và “truất hữu”, dẫn đến việc xóa bỏ thành quả cách mạng và gây ra xáo trộn trong quyền quản lý ruộng đất của nông dân.
Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, Nhà nước đã thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp và xây dựng nhiều lâm trường, nông trường, trang trại Tuy nhiên, các tổ chức này chiếm diện tích đất lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả Đặc biệt, hai lần điều chỉnh ruộng đất vào năm 1977 đã làm nổi bật vấn đề này.
Vào các năm 1978 và 1982-1983, chính sách chia cấp đất theo kiểu bình quân "cao bằng" đã gây ra những xáo trộn lớn trong việc quản lý ruộng đất, ảnh hưởng đến ranh giới, số lượng và mục đích sử dụng đất đai.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, giá trị của đất đai ngày càng gia tăng do sự thay đổi trong cơ chế quản lý Dưới góc độ kinh tế, đất đai được xem như hàng hóa trao đổi trên thị trường theo quy luật cung cầu và quy luật giá trị Tuy nhiên, trong một thời gian dài, quy luật này chưa được công nhận một cách đầy đủ tại Việt Nam, dẫn đến việc Nhà nước chưa có các chính sách kịp thời để điều tiết và quản lý hiệu quả.
Sự gia tăng giá trị của nhà đất đã ảnh hưởng đến tâm lý người dân, dẫn đến tình trạng tranh chấp và yêu cầu đòi lại nhà, đất đã từng bán, cho thuê, mượn hoặc bị tịch thu Nhiều người cũng đang tìm cách lấy lại quyền sử dụng đất khi không có văn bản xác định rõ ràng về việc sử dụng đất ổn định trong các chính sách đất đai trước đây.
Đất đai không chỉ là tài sản có giá trị mà còn mang lại nhiều lợi ích đa dạng, được xem như tài sản lâu dài Điều này ảnh hưởng đến tâm lý của nhiều người, dẫn đến tình trạng tranh chấp đất đai để tìm kiếm lợi ích Đồng thời, một số cá nhân đã lợi dụng những thiếu sót trong hệ thống pháp luật về đất đai, tạo ra các tranh chấp phức tạp trong xã hội hiện nay.
Trong cơ chế quản lý đất đai hiện nay, việc phân cấp cho nhiều ngành đã dẫn đến tình trạng quản lý lỏng lẻo và nhiều sơ hở Mỗi loại đất thường do một ngành khác nhau quản lý, gây ra tranh chấp giữa các ngành về quyền sở hữu Hơn nữa, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ vẫn còn hạn chế, góp phần làm gia tăng các tranh chấp đất đai phức tạp và khó giải quyết.
Một số cán bộ, công chức trong lĩnh vực quản lý đất đai đã không hoàn thành tốt nhiệm vụ, thiếu gương mẫu và lạm dụng quyền hạn vì lợi ích cá nhân Họ đã bị kẻ xấu lợi dụng để thực hiện những hành vi không chính đáng, gây ra những âm mưu đen tối, làm mất ổn định xã hội.
Chính sách đất đai và các quy định liên quan hiện chưa đồng bộ và có nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng thiếu hụt đất sản xuất cho những người có nhu cầu, trong khi nhiều người sở hữu đất lại không sử dụng hiệu quả Điều này gây ra hiện tượng đất hoang hóa và khiến nông dân phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm việc làm tại các đô thị, làm mất ổn định trong cơ cấu lao động sản xuất.
Công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật đất đai chưa được chú trọng, dẫn đến nhiều văn bản pháp luật chưa được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Mỗi địa phương có những nguyên nhân đặc thù gây ra tranh chấp đất đai, do đó cần phải căn cứ vào thực tế sử dụng đất và phong tục tập quán để tìm ra giải pháp hiệu quả cho từng vụ tranh chấp Tuy nhiên, hiện nay, các cơ quan nhà nước vẫn chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này.
Các vụ tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng không chỉ do các nguyên nhân đã nêu, mà còn phản ánh sự nâng cao dân trí Người dân bắt đầu xem xét lại các thủ tục và hợp đồng pháp lý đã được thiết lập trước đó, dẫn đến việc khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình Nhiều hợp đồng mua bán đã bị tuyên bố vô hiệu do không tuân thủ đúng quy định Theo Luật đất đai, nếu đất là tài sản chung của vợ chồng, việc chuyển nhượng bắt buộc phải có chữ ký của cả hai Tương tự, nếu đất là tài sản chung của gia đình, thì tất cả các thành viên trong gia đình cũng phải ký tên khi thực hiện chuyển nhượng.
1.1.1.3 Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Quan hệ đất đai là một loại quan hệ dân sự đặc biệt, có những đặc điểm riêng biệt so với các tranh chấp dân sự khác như tranh chấp lao động hay tranh chấp kinh tế Sự khác biệt này chủ yếu thể hiện qua các yếu tố đặc trưng trong tranh chấp đất đai.
Khái quát pháp luật Việt Nam về hoà giải tranh chấp đất đai
1.2.1 Lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về hoà giải tranh chấp đất đai
Hệ thống quy định pháp luật về đất đai tại Việt Nam, được hình thành từ năm 1945, là một hệ thống phức tạp, phản ánh nhiều giai đoạn lịch sử và chính sách khác nhau ở cả hai miền Nam Bắc Các quy định này, đặc biệt là trong việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải, đã được hoàn thiện dần để đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng đất đai trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
1.2.1.1 Thời kỳ trước khi ban hành Hiến pháp 1980
Trong giai đoạn này, quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai vẫn chưa được làm rõ, ngoại trừ những quy định cụ thể liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đất đai bãi sa bồi, tức là đất canh tác.
Thông tư 45/NV – TC ngày 02/7/1958 của Bộ Nội vụ quy định về việc phân phối và quản lý đất bãi sa bồi, trong đó xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp hoa màu thuộc về chính quyền và nông hội, với trường hợp khó khăn sẽ được đưa ra Tòa án Đối với tranh chấp địa giới hành chính đất bãi sa bồi, Uỷ ban hành chính xã có trách nhiệm giải quyết; nếu ranh giới liên quan đến nhiều xã, xã nào quản lý sẽ phụ thuộc vào điều kiện địa lý hoặc số dân, đảm bảo xã đông dân hơn trên đất bãi sa bồi sẽ quản lý và hỗ trợ các xã ít dân hơn trong sản xuất.
Giai đoạn hiện tại, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Uỷ ban hành chính các cấp chưa được xác định rõ ràng Thực tế cho thấy, Uỷ ban hành chính cấp xã thường đảm nhận vai trò chủ yếu trong việc giải quyết tranh chấp đất đai, với sự tham gia tích cực của tổ chức nông hội địa phương Trong khi đó, cơ quan tư pháp chỉ can thiệp khi có tranh chấp liên quan đến hoa màu trên đất bãi sa bồi.
1.2.1.2 Thời kỳ sau khi ban hành Hiến pháp 1980 a) Giai đoạn từ khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực đến trước khi Luật Đất đai
Hiến pháp 1980 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nỗ lực của Nhà nước Việt Nam nhằm hoàn thiện quyền sở hữu đất đai Theo Điều 19 và Điều 20 của Hiến pháp, tất cả tài nguyên thiên nhiên như đất đai, rừng núi, sông hồ và khoáng sản đều thuộc sở hữu của Nhà nước và toàn dân Đồng thời, những tổ chức và cá nhân đang sử dụng đất đai sẽ được tiếp tục quyền sử dụng của mình.
Trong giai đoạn từ năm 1990 đến 1993, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quan trọng liên quan đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, như Quyết định số 201/CP và các thông tư hướng dẫn từ Tổng cục Quản lý ruộng đất Tuy nhiên, việc coi đất đai thuộc sở hữu toàn dân đã dẫn đến tình trạng cấp đất tràn lan và sử dụng không hiệu quả Sự tham gia của cấp xã trong việc giao đất cho nhân dân cùng với tình trạng lấn chiếm đất để xây dựng nhà ở diễn ra phổ biến, nhưng không được giải quyết kịp thời, đã trở thành nguyên nhân chính gây ra tranh chấp đất đai Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một số địa phương còn thể hiện sự quan liêu và thiên vị, sử dụng biện pháp hành chính không hiệu quả, khiến cho các tranh chấp không được xử lý dứt điểm, làm gia tăng mâu thuẫn và kéo dài tình trạng tranh chấp.
Hiến pháp năm 1980 và Luật Đất đai năm 1987 khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý, nhưng các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành không rõ ràng về quyền lợi của người sử dụng đất, dẫn đến hạn chế trong hiệu quả sử dụng đất Trong giai đoạn này, vấn đề hòa giải cơ sở trong tranh chấp đất đai không được đề cập, và các tranh chấp tuân theo quy định về hòa giải tại Điều 43, 44 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, có hiệu lực từ ngày 01/01/1990.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ dân sự quy định rằng hòa giải là một bước bắt buộc trước khi tiến hành phiên tòa sơ thẩm Quyết định công nhận thỏa thuận giữa các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay lập tức, và các bên không có quyền kháng cáo Viện kiểm sát nhân dân cũng không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm Trong trường hợp phát hiện sai sót trong quyết định công nhận thỏa thuận, có thể kháng nghị và xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định pháp luật.
Sau khi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ dân sự có hiệu lực, TANDTC và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện quy định về hòa giải Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 do Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành đã hướng dẫn áp dụng các quy định của Pháp lệnh, bao gồm thủ tục và phạm vi vụ hòa giải Tiếp theo, vào ngày 10/06/2002, TANDTC đã phát hành Công văn số 81/TANDTC, hướng dẫn công tác xét xử, trong đó đề cập đến thủ tục hòa giải trước và tại phiên tòa phúc thẩm.
Các hướng dẫn thực hiện quy định hòa giải tại Tòa án theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc điều chỉnh các quan hệ trong hòa giải vụ án dân sự, đặc biệt là trong các vụ tranh chấp đất đai Kể từ khi Luật Đất đai năm 1993 được ban hành, những quy định này đã góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở lần đầu tiên được quy định trong Luật Đất đai năm 1993, nhấn mạnh nguyên tắc quan trọng rằng "nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân" Quy định này phù hợp với Điều 11 Bộ luật dân sự, thể hiện việc hòa giải giữa các bên trong quan hệ dân sự, đồng thời phản ánh đặc điểm tâm lý truyền thống của người Việt Nam.
Theo Khoản 1 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993, quy trình hòa giải tranh chấp đất đai trong giai đoạn tiền tố tụng bao gồm các bước cụ thể nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan.
Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, cùng với các tổ chức kinh tế tại địa phương và công dân, thực hiện hòa giải tranh chấp đất đai giữa các bên liên quan.
Nếu hòa giải không thành công, các bên có quyền gửi đơn lên UBND cấp huyện, quận, thị xã để được giải quyết Quy định này trong Luật Đất đai năm 1993 khác với Luật Đất đai năm 1987 ở chỗ, UBND cấp xã, phường, thị trấn không còn là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp đất đai, mà chỉ đóng vai trò trung gian hỗ trợ hòa giải giữa các bên.
Luật Đất đai năm 2003, có hiệu lực từ ngày 1/7/2004, tiếp tục khuyến khích phương thức hòa giải tranh chấp đất đai trong giai đoạn tiền tố tụng, với các quy định cụ thể hơn Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp tự hòa giải hoặc thông qua hòa giải cơ sở Điểm mới so với Luật Đất đai năm 1993 là việc khuyến khích tổ chức hòa giải tại cơ sở Nếu không hòa giải được, các bên cần gửi đơn lên UBND cấp xã để yêu cầu giải quyết UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp Luật Đất đai năm 2013, ban hành ngày 29/11/2013, quy định rõ ràng hơn về hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp cơ sở, theo đó tranh chấp đất đai được hiểu là tranh chấp về nghĩa vụ sử dụng đất giữa các bên trong quan hệ đất đai Hiện nay, chỉ những tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất mới yêu cầu hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất.
Khái quát pháp luật Việt Nam về hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã 1 CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ VIỆT NAM VỀ HOÀ GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI
Pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã được quy định rõ ràng trong Luật Đất đai 2013, Nghị định 43/2014/NĐ-CP và Nghị định 01/2017/NĐ-CP Những quy định này bao gồm các hướng dẫn chi tiết nhằm thực hiện hiệu quả các điều khoản của Luật Đất đai, đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Các quy định này làm rõ các loại tranh chấp đất đai mà UBND cấp xã có thẩm quyền hoà giải Theo đó, các tranh chấp đất đai sẽ được phân chia thành hai nhóm cụ thể.
Nhóm đầu tiên bao gồm các tranh chấp đất đai cần phải được hòa giải tại Ủy ban Nhân dân cấp xã Việc hòa giải này chỉ được thực hiện khi xác định ai là người có quyền sử dụng đất, và phải diễn ra tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Nhóm tranh chấp đất đai thứ hai không yêu cầu phải hoà giải tại UBND cấp xã bao gồm các tranh chấp liên quan đến giao dịch quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng liên quan đến quyền sử dụng đất.
Trình tự và thủ tục hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã được quy định tại Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ.
Nhóm quy định pháp luật về tiếp nhận hồ sơ và công việc của UBND cấp xã liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai bao gồm việc xác định các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ yêu cầu UBND cấp xã có trách nhiệm thẩm tra, xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp và thu thập chứng cứ, thông tin liên quan Sau khi hoàn tất các bước này, UBND sẽ thành lập hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện quy trình hòa giải theo quy định pháp luật, đảm bảo sự có mặt của các bên liên quan.
Nhóm quy định pháp luật về lập biên bản hòa giải khi giải quyết tranh chấp quy định rằng kết quả hòa giải sẽ được ghi nhận thành biên bản, bao gồm hai loại: biên bản hòa giải thành công và biên bản hòa giải không thành công Trong trường hợp hòa giải không thành, các bên có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai từ các cơ quan thẩm quyền cao hơn, cụ thể là tòa án.
- Nhóm quy định về các hậu quả pháp lý phát sinh sau thủ tục hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã:
Để được công nhận kết quả hòa giải thành tại UBND cấp xã, cần tuân thủ các quy định về điều kiện yêu cầu Tòa án công nhận Sau khi hoàn tất hòa giải, nếu có sự thay đổi về ranh giới hoặc người sử dụng đất, UBND xã, phường, thị trấn sẽ gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường trong trường hợp tranh chấp đất đai giữa các hộ gia đình, cá nhân hoặc cộng đồng dân cư; và gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Theo quy định, nếu hòa giải không thành công hoặc sau khi hòa giải thành mà một trong các bên thay đổi ý kiến về kết quả, UBND xã, phường, thị trấn sẽ lập biên bản hòa giải không thành Đồng thời, UBND cũng hướng dẫn các bên tranh chấp nộp đơn đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết tiếp theo.
Các quy định về thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành tại UBND cấp xã bao gồm việc gửi đơn của các bên tranh chấp, thời gian và thời hạn gửi đơn, cùng với quy định về phí và lệ phí nộp.
CHƯƠNG 2 PHÁP LUẬT VỀ VIỆT NAM VỀ HOÀ GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI UBND CẤP XÃ
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI UBND XÃ DƯƠNG PHONG, HUYỆN BẠCH THÔNG,
Pháp luật Việt Nam về hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã
2.1.1 Phạm vi tranh chấp đất đai được tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã
Căn cứ luật Đất đai 2013 quy định khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã cần thực hiện các công việc:
Thẩm tra và xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai là bước quan trọng, bao gồm việc thu thập các giấy tờ, tài liệu liên quan từ các bên cung cấp Các tài liệu này cần thể hiện rõ nguồn gốc đất, quá trình sử dụng và hiện trạng sử dụng đất mà cơ quan có thẩm quyền đang quản lý.
- Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải…
Tổ chức hòa giải trong tranh chấp đất đai bao gồm các bên liên quan, thành viên Hội đồng hòa giải và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Theo Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai 2013, tranh chấp đất đai được định nghĩa là sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa những người sử dụng đất trong mối quan hệ đất đai.
Theo quy định hiện hành, khái niệm tranh chấp đất đai còn nhiều điểm chưa rõ ràng, gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giải quyết và yêu cầu hòa giải Do đó, việc xác định phạm vi tranh chấp đất đai và tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã là rất quan trọng cho quá trình giải quyết sau này Tranh chấp đất đai có thể được chia thành hai nhóm cơ bản, trong đó nhóm đầu tiên là những tranh chấp bắt buộc phải hòa giải tại UBND xã.
Theo Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, tại khoản 2 điều 3, có hướng dẫn về việc trả lại đơn khởi kiện và quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
“Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại
UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện”.
Theo quy định, chỉ những tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, tức là xác định ai là chủ thửa đất, mới phải thực hiện hòa giải tại Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi có đất.
Theo Điều 202 Luật Đất đai 2013, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc thông qua hòa giải ở cơ sở nhằm giảm thiểu các tranh chấp phức tạp trong lĩnh vực này Việc tự hòa giải không chỉ giúp các bên giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và tiết kiệm chi phí, mà còn củng cố tình làng nghĩa xóm Hơn nữa, điều này giúp Nhà nước giảm bớt gánh nặng trong việc xử lý các vụ tranh chấp đất đai, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý đất đai Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên cũng có thể đạt được sự hòa giải thành công.
Cụ thể kết quả sẽ có thể có kết quả sau:
* Nếu các bên hòa giải thành công thì tranh chấp được kết thúc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ không tiếp tục giải quyết tranh chấp.
Nếu các bên tranh chấp không thể hòa giải, họ nên gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất để yêu cầu hòa giải Kết quả hòa giải tại UBND cấp xã có thể dẫn đến một số trường hợp khác nhau.
Trường hợp 1: Hòa giải thành (sẽ kết thúc tranh chấp)
Trường hợp 2: Hòa giải không thành
Trong trường hợp thứ 2: Khi hòa giải không thành thì được giải quyết như sau:
Tranh chấp đất đai có Giấy chứng nhận hoặc các giấy tờ theo Điều 100 Luật Đất đai 2013, cùng với tranh chấp tài sản gắn liền với đất, sẽ được giải quyết bởi Tòa án nhân dân.
Trong trường hợp tranh chấp đất đai mà đương sự không sở hữu Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013, họ chỉ có thể lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp.
Hình thức 1:Theo thủ tục hành chính:
+ Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân do Chủ tịch UBND cấp huyện nơi có đất giải quyết.
Trong trường hợp tranh chấp liên quan đến tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thẩm quyền giải quyết thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Hình thức 2: Theo thủ tục tố tụng dân sự
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định: đối với tranh chấp ai là người sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp thì được xác định là chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Tất cả các tranh chấp đất đai đều phải trải qua quá trình hòa giải tại Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp Nếu không thực hiện hòa giải tại đây, các bên liên quan sẽ không được quyền khởi kiện tại tòa án hoặc yêu cầu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện can thiệp giải quyết.
Hòa giải cấp cơ sở về đất đai đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết mâu thuẫn và ảnh hưởng đến các thủ tục giải quyết tranh chấp sau này Ngoài ra, tranh chấp đất đai không nhất thiết phải được hòa giải tại Ủy ban Nhân dân xã.
Theo khoản 2 điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP, đối với các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp không bắt buộc trước khi khởi kiện Điều này có nghĩa là các bên có thể khởi kiện ngay mà không cần thực hiện hòa giải tại UBND cấp xã trước đó.
- Tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất
Khi xảy ra tranh chấp đất đai, việc giải quyết không tuân theo Luật Đất đai mà phải dựa vào Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự Trong những trường hợp này, các bên có quyền tự hòa giải, thương lượng hoặc khởi kiện tại Toà án.
Từ những quy định đã nêu ở trên ta có thể thấy:
- Ưu điển các quy định về phạm vi tranh chấp đất đai
Thực trạng thực thi pháp luật về hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND xã Dương Phong, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn
2.2.1 Khái quát chung về UBND xã Dương Phong
1.2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tăng cường khai thác thuộc địa và bóc lột nhân dân Việt Nam Mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn vẫn tồn tại, nhưng quyền lực thực tế đã rơi vào tay người Pháp.
Về chính trị, sau khi chiếm đóng và thành lập tỉnh Bắc Kạn vào năm 1900, thực dân Pháp đã chia tỉnh thành các châu, tổng và xã, trong đó vùng Dương Phong thuộc tổng Nông Thượng Chánh tổng và phó tổng đứng đầu các châu, trong khi cấp làng xã được chú trọng hơn với làng là đơn vị hành chính chính Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, sau khi thiết lập bộ máy cai trị tại tỉnh Bắc Kạn và châu Bạch Thông, thực dân Pháp đã tăng cường nhiều biện pháp nhằm siết chặt quản lý và phục vụ cho mục đích bóc lột nhân dân.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đời sống người dân Dương Phong, như nhiều địa phương khác ở châu Bạch Thông, rất khó khăn và thiếu thốn, chủ yếu phụ thuộc vào nghề nông Chính quyền thực dân và phong kiến tay sai đã cấu kết để vơ vét tài sản của nhân dân, áp đặt nhiều loại thuế nặng nề, trong đó thuế đinh và thuế điền là khắc nghiệt nhất Những gia đình không có khả năng nộp thuế thường bị quan lại bắt giam và đánh đập, buộc họ phải tìm mọi cách kiếm tiền để trả nợ Hậu quả là không ít gia đình rơi vào cảnh khốn cùng và tan nát Bên cạnh việc nộp thuế, người dân Dương Phong còn phải tự túc lương thực, trong khi hàng năm họ phải chịu cảnh bắt phu, bắt lính do gần tỉnh.
Thực dân Pháp và phong kiến địa phương không chỉ bóc lột kinh tế mà còn duy trì nhiều hủ tục lạc hậu, khiến người dân Dương Phong sống trong cảnh nghèo đói, với hơn 95% dân số mù chữ Chính quyền không chú trọng đến việc chăm sóc sức khỏe, buộc người dân phải dựa vào kinh nghiệm dân gian mỗi khi ốm đau.
* Lịch sử tạo thành và phát triển
Ngày 03-02-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta với tấm lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết đã đứng lên đấu tranh nhằm lật đổ ách đô hộ, thống trị của chính quyền thực dân phong kiến Tuy nhiên, vì nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1943, các phong trào cách mạng chưa tạo được sức ảnh hướng lớn đến vùng đất Dương Phong Tuy nhiên nhiều cuộc nổi dậy vẫn diễn ra sôi nổi tiêu biểu là phong trào đấu tranh chống thuế từ năm 1932-1934 tại hai tổng Hà Vị và Nông Thượng do hai ông Nguyễn Bông và ông Chi đứng ra tổ chức bằng việc đưa đơn kiện bọn quan lại địa phương lên tận phủ Toàn quyền
Năm 1945, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển thuận lợi cho cách mạng Việt Nam, đặc biệt là sau cuộc đảo chính của Nhật lật đổ quyền thống trị của Pháp tại Đông Dương vào ngày 9-3-1945, tạo ra một cuộc khủng hoảng lớn Tin Nhật đầu hàng quân Đồng Minh vào ngày 14-8-1945 đã làm suy sụp tinh thần lính Nhật, dẫn đến việc quân Nhật trao đổi với đại diện Việt Minh để rút quân khỏi thị xã Bắc Kạn vào ngày 23-8 Ngày 25-8-1945, người dân các dân tộc Dương Phon và các địa phương khác đã tập trung tại Bắc Kạn tham gia mít tinh, nghe tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến từ đại diện Tổng bộ Mặt trận Việt Minh.
Mặc dù chính quyền châu Bạch Thông vừa đạt được thắng lợi, nhưng khu vực Đông Dương vẫn đối mặt với nhiều khó khăn do chính sách áp bức của thực dân và tay sai phong kiến, gây ra tình trạng lạc hậu Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong trào diệt giặc đói, nhân dân Dương Phong đã tích cực tham gia các hoạt động như “Nhường cơm sẻ áo” và “Hũ gạo cứu đói” để hỗ trợ các gia đình khó khăn Đồng thời, một số lớp học đã được mở tại thôn Nà Chè và Bản Pè do thầy Nguyễn Duy Quang phụ trách, nhằm chống lại nạn mù chữ Chỉ sau một thời gian ngắn, tỷ lệ người biết đọc, biết viết đã tăng lên đáng kể.
Tháng 12-1945 dưới sự lãnh đạo của cấp trên chính quyền xã tập trung lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tốt cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, ngày 6-1-1946 nhân dân phấn khởi đi tham gia bỏ phiếu Tiếp nối thành công của cuộc bầu cử quốc hội khóa I, tháng 3-1946 nhân dân địa phương tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp Theo yêu cầu xã Phong Quang được thành lập Tháng 4-1946, nhân dân xã Phong Quang tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân xã và tỉnh khóa I Hội đồng nhân dân xã Phong Quang khóa I đã bầu Ủy ban hành chính bao gồm: Ông Cao Thịnh Vực - Chủ tịch Ông Hà Sĩ Ngư - Phó Chủ tịch Ông Đặng Phúc Thao - Phó Chủ tịch Ông Lưu Kế Tuyên - Ủy viên thư ký Ông Trịnh Đình Tuân - Ủy viên quân sự
Sau khi củng cố chính quyền, các tổ chức Mặt trận và đoàn thể cũng được điều chỉnh để thích ứng với tình hình mới Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 1957-1959 đã được tổ chức, nhấn mạnh nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân trong công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội, nhằm nâng cao đời sống nhân dân Tại đại hội, đồng chí Nguyễn Duy Kiên được bầu làm Bí thư Chi bộ, trong khi đồng chí Nguyễn Như Lại giữ chức Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.
Cuối năm 1958, Việt Nam thực hiện chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng nền kinh tế tập thể, với tổ đổi mới làm nền tảng cho việc thành lập các hợp tác xã nông nghiệp Đến năm 1959, xã Thanh Phong đã tiến hành thí điểm xây dựng hai hợp tác xã thấp Bản Pè, bao gồm Bản Pè và Tổng Mú, cùng với hợp tác xã Nà Coọng.
Từ năm 1961-1965, Chi bộ Thanh Phong đã tổ chức hai kỳ Đại hội nhiệm kỳ 1961-1963 và 1963-1965, tập trung vào phát triển kinh tế - xã hội và củng cố hoạt động của các hợp tác xã theo chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy Bắc Thái và huyện uỷ Bạch Thông Các Đại hội cũng chú trọng đến việc tăng cường quốc phòng an ninh, xây dựng lực lượng dân quân xã cả về chính trị, tổ chức và trang bị hậu cần Trong Đại hội nhiệm kỳ 1961-1963, đồng chí Hà Văn Cam được bầu làm Bí thư Chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.
Ngày 12-5-1964 theo quyết định số 150/NV của Bộ Nội vụ về việc đổi tên một số xã của tỉnh Bắc Kạn, xã Thanh Phong được đổi tên thành xã Dương Phong. Cuối năm 1965, Chi bộ xã Dương Phong tiến hành Đại hội nhiệm kỳ 1695-1697. Đại hội đánh giá các mặt công tác trong nhiệm kỳ trước, qua đó đề ra nhiệm vụ quan trọng về kinh tế- xã hội trong đó quan trọng nhất là công tác quốc phòng- an ninh, nhanh chóng chuyển hoạt động từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục đi vào nhiệm vụ củng cố hậu phương vững mạnh về mọi mặt Đại hội bầu Ban Chi ủy nhiệm kỳ mới, trong đó đồng chí Hà Văn Cam làm Bí thư Chi bộ, đồng chí Chu thế Vực giữ chức Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.
Vào giữa năm 1967, Chi bộ xã Dương Phong đã tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 1967-1969, bầu đồng chí Hà Văn Cam làm Bí thư và đồng chí Ma Văn Ái làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Đến tháng 4-1969, Đại hội Chi bộ xã Dương Phong nhiệm kỳ 1969-1971 được tiến hành, đánh giá thành tích của nhiệm kỳ trước và đề ra phương hướng phát triển, tập trung vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là thâm canh lương thực, đồng thời tăng cường hỗ trợ cho tiền tuyến lớn miền Nam Đại hội tiếp tục bầu đồng chí Hà Văn Cam làm Bí thư Chi bộ và đồng chí Ma Văn Ái làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.
Từ năm 1971 đến 1975, Chi bộ đã tổ chức 2 kỳ Đại hội quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành về số lượng và chất lượng đảng viên cũng như năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng Các kỳ đại hội chú trọng công tác bồi dưỡng nhân sự và bầu mới Ban Chi ủy, bao gồm các chức danh Bí thư, Phó Bí thư và Chủ tịch.
Vào đầu năm 1975, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam, nhân dân Dương Phong đã mobilize toàn lực để hỗ trợ chiến trường miền Nam Chiến dịch Hồ Chí Minh đã đạt được thắng lợi hoàn toàn, dẫn đến sự giải phóng toàn diện cho đất nước.