1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

44 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Tình Hình Lạm Phát Của Việt Nam Giai Đoạn 2000-2005 Và Các Biện Pháp Mà Chính Phủ Sử Dụng Để Kiểm Soát Lạm Phát
Tác giả Nhóm 9
Người hướng dẫn ThS. Ngô Hải Thanh
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Kinh Tế Và Kinh Doanh Quốc Tế
Thể loại Đề Tài Thảo Luận
Năm xuất bản 2005
Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 884,32 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (4)
  • 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu (4)
  • 3. Câu hỏi nghiên cứu (4)
  • 4. Kết cấu đề tài (4)
  • 1. Lời cam đoan (5)
  • 2. Lời cảm ơn (5)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN (6)
    • 1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỨC ĐỘ LẠM PHÁT (6)
      • 1.2.2. Khái niệm lạm phát (6)
      • 1.2.3. Các mức độ lạm phát (6)
    • 1.2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN LẠM PHÁT (6)
      • 1.2.1. Lạm phát cầu kéo (6)
      • 1.2.2. Lạm phát chi phí đẩy (7)
      • 1.2.3. Lạm phát dự kiến (8)
      • 1.2.4. Lạm phát tiền tệ (9)
    • 1.3. TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - XÃ HỘI (9)
      • 1.3.1. Tác động đối với sản lượng (9)
      • 1.3.2. Tác động đối với sự phân phối lại thu nhập và của cải (10)
      • 1.3.3. Tác động đến cơ cấu kinh tế (11)
      • 1.3.4. Tác động đến tính hiệu quả kinh tế (11)
    • 1.4. CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT (12)
      • 1.4.1. Giải pháp từ phía cầu (12)
      • 1.4.2. Giải pháp từ phía cung (12)
      • 1.4.3. Một số giải pháp hỗ trợ khác (13)
  • CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN (13)
    • 2.1.1. Tình hình lạm phát năm 2000 (13)
    • 2.1.2. Tình hình lạm phát năm 2001 (18)
    • 2.1.3. Tình hình lạm phát năm 2002 (21)
    • 2.1.4. Tình hình lạm phát năm 2003 (24)
    • 2.1.5. Tình hình lạm phát năm 2004 (27)
    • 2.1.6. Tình hình lạm phát năm 2005 (31)
    • 2.1.7. Nguyên nhân lạm phát năm 2004-2005 (34)
    • 2.1.8. Giải pháp của Chính phủ năm 2004-2005 (35)
  • CHƯƠNG III. ĐÁNH GIÁ - GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ (39)
    • 3.1. THÀNH CÔNG (39)
    • 3.2. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN (40)
    • 3.3. ĐỀ XUTT GIẢI PHÁP (41)
      • 3.3.1. Xây dựng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng (41)
      • 3.3.2. Quản lí hiệu quả các dòng vốn nước ngoài (42)
      • 3.3.3. Quản lý tốt đầu tư Nhà nước (43)
  • KẾT LUẬN (43)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (43)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Lạm phát là một hiện tượng kinh niên trong nền kinh tế, gần đây đã thu hút sự chú ý của người dân, doanh nghiệp và tổ chức Mặc dù có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế, lạm phát cũng có thể gây ra bất ổn và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống và lĩnh vực chính trị - xã hội Tại Việt Nam, lạm phát không phải là vấn đề mới; từ thời kỳ bao cấp, nền kinh tế đã chịu thiệt hại nặng nề với tiền đồng mất giá và ba lần đổi tiền trong thời gian ngắn Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, việc kiểm soát lạm phát trở nên khó khăn hơn do tác động từ thị trường tiền tệ và giá nguyên liệu toàn cầu, dẫn đến những bất ổn khó lường.

Nhóm 9 nghiên cứu đề tài “Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2000-2005 và các biện pháp mà Chính phủ sử dụng để kiểm soát lạm phát” nhằm tìm hiểu sâu sắc về lạm phát trong giai đoạn này Nghiên cứu sẽ xem xét các biện pháp và công cụ mà Chính phủ áp dụng để kiểm soát lạm phát, từ đó làm rõ sự kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong quản lý nền kinh tế vĩ mô.

Câu hỏi nghiên cứu

 Tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2000-2005 và các biện pháp mà Chính phủ sử dụng để kiểm soát lạm phát?

 Các kết luận rút ra trong vấn đề nghiên cứu?

Kết cấu đề tài

Đề tài được chia ra làm 3 chương:

 Chương 1: Cơ sở lý luận về lạm phát

 Chương 2: Cơ sở thực tiễn về tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2005 và các biện pháp mà Chính phủ sử dụng để kiểm soát lạm phát

 Chương 3: Đánh giá - Giải pháp và kiến nghị

CƠ SỞ LÝ LUẬN

KHÁI NIỆM VÀ MỨC ĐỘ LẠM PHÁT

Lạm phát là sự gia tăng giá cả hàng hóa hay dịch vụ của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.

1.2.3 Các mức độ lạm phát

Nếu căn cứ theo quy mô của lạm phát thì lạm phát được chia thành 3 loại sau:

+ Lạm phát vừa phải (lạm phát một con số): Là lạm phát với tỷ lệ lạm phát dưới

10% một năm Thông thường, đây là mức lạm phát mà bình thường một nền kinh tế trả qua và ít gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

Lạm phát phi mã là hiện tượng có tỷ lệ lạm phát từ 2-3 con số trong một năm, với tốc độ tăng giá dao động từ 10% đến 1000% Nếu tình trạng lạm phát này kéo dài, nó sẽ gây ra những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến nền kinh tế.

Siêu lạm phát là hiện tượng lạm phát diễn ra với tỷ lệ tăng cao, vượt qua mức 1000%, thường từ ba đến bốn con số trở lên Hậu quả của siêu lạm phát rất nghiêm trọng và khó khắc phục Mặc dù vậy, trường hợp siêu lạm phát xảy ra rất hiếm.

Nếu căn cứ theo nguyên nhân của lạm phát thì lạm phát được chia thành 4 loại là:

Lạm phát có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau, bao gồm lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát dự kiến và lạm phát do tiền Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu vào từng loại lạm phát để cung cấp cái nhìn tổng quan và chi tiết hơn về nguyên nhân và ảnh hưởng của chúng.

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN LẠM PHÁT

Lạm phát cầu kéo xảy ra khi chi tiêu gia tăng, dẫn đến tổng cầu tăng lên Sự gia tăng tổng cầu này tác động đến sản lượng và làm tăng mức giá chung, gây ra lạm phát, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tự nhiên Các nguyên nhân cụ thể của hiện tượng này bao gồm nhiều yếu tố khác nhau.

Sự gia tăng đột biến trong cầu tiêu dùng của hộ gia đình xảy ra khi người dân cảm thấy an tâm về triển vọng việc làm và thu nhập tương lai Nếu Chính phủ thực hiện các biện pháp như giảm thuế thu nhập, các hộ gia đình sẽ có xu hướng chi tiêu mạnh mẽ hơn, dẫn đến tổng cầu của nền kinh tế tăng lên và mức giá cũng sẽ tăng theo.

Sự tăng trưởng trong đầu tư xảy ra khi doanh nghiệp lạc quan về triển vọng mở rộng thị trường, dẫn đến việc mở thêm nhà máy và mua sắm thiết bị mới Ngoài ra, chính sách giảm thuế cho các dự án đầu tư mới và việc ngân hàng Trung ương tăng cung ứng tiền làm giảm lãi suất cũng góp phần thúc đẩy đầu tư Kết quả là, tổng cầu tăng lên, kéo theo sự gia tăng mức giá.

Việc Chính phủ tăng cường chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến sự gia tăng tổng cầu trong nền kinh tế Điều này không chỉ thúc đẩy phát triển vùng ngành kinh tế trọng điểm mà còn có khả năng làm tăng mức giá.

Sự gia tăng xuất khẩu ròng xảy ra khi nền kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ, dẫn đến nhu cầu cao hơn cho hàng hóa sản xuất bởi quốc gia A Ngoài ra, việc đồng nội tệ giảm giá so với ngoại tệ cũng góp phần làm tăng nhu cầu xuất khẩu Khi xuất khẩu tăng, lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường trong nước sẽ giảm, từ đó thúc đẩy mức sản xuất trong nước tăng lên.

Hình 1: Lạm phát cầu kéo

Lạm phát cầu kéo xảy ra khi nền kinh tế chi tiêu vượt quá khả năng sản xuất của nó, dẫn đến tổng cầu tăng trong khi tổng cung không thay đổi hoặc tăng chậm hơn Kết quả là giá cả trong nền kinh tế tăng lên.

1.2.2 Lạm phát chi phí đẩy

Lạm phát chi phí xảy ra khi chi phí đồng loạt tăng trong nền kinh tế, chủ yếu do các cú sốc giá cả của thị trường đầu vào như xăng, dầu, điện và sự gia tăng tiền lương danh nghĩa Những yếu tố này làm giảm tổng cung trong ngắn hạn, khiến đường AS dịch chuyển lên trên và sang trái Ngoài ra, sự suy giảm về số lượng và chất lượng lao động, lượng tư bản và trình độ công nghệ cũng góp phần làm giảm tổng cung, dẫn đến sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cung trong cả ngắn hạn và dài hạn Kết quả là sản lượng giảm, trong khi thất nghiệp và lạm phát đều gia tăng.

Hình 2: Lạm phát chi phí đẩy

Lạm phát do chi phí đẩy còn gọi là “Lạm phát đình trệ” xảy ra ngay cả khi Y < Y*.

Lạm phát dự kiến, hay còn gọi là lạm phát ỳ và lạm phát quán tính, là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người tin rằng sẽ tiếp tục diễn ra trong tương lai Tỷ lệ này thường được tích hợp vào các hợp đồng kinh tế, kế hoạch và thỏa thuận khác, giúp các bên liên quan dự đoán và chuẩn bị cho những biến động về giá cả.

Ví dụ: Giả sử thời gian vừa qua, giá cả tăng ổn định 3%/năm Mọi người đều nghĩ rằng tỷ lệ lạm phát ra tới cũng sẽ ở mức đó.Vì vậy các hợp đồng về lương, các kế hoạch, chính sách của Chính phủ, các thỏa thuận về lãi suất cho vay, các hợp đồng mua bán cũng được xây dựng dựa theo mức 3% Do đó, mỗi năm giá đều tăng thêm một cách đều đặn là 3%, đó là lạm phát dự kiến Lạm phát dự kiến sẽ giữ ổn định nếu như không có các cú sốc làm thay đổi tổng cung hay tổng cầu.

Lạm phát dự kiến được thể hiện bằng sự dịch chuyển của hai đường thẳng AS và AD lên trên Mức giá chung trong nền kinh tế tăng đều trong khi hoạt động sản xuất vẫn như cũ.

Tư tưởng cơ bản của các nhà tiền tệ là luận điểm cho rằng, lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ Các nhà tiền tệ cho rằng, lạm phát gây ra bởi sự dư thừa tổng cầu so với tổng cung và nguyên nhân của sự giao cầu này là do có quá nhiều tiền ở trong lưu thông Do lượng tiền được phát hành quá nhiều trong nơi thông gây mất cân đối giữa cung và cầu tiền Cung tiền tăng làm cho sức mua của đồng tiền giả hai đồng tiền bị mất giá.

Với giả thuyết về thị trường cân bằng và bắt đầu từ vị trí cân bằng trên thị trường tiền tệ, khi đó sự gia tăng trong cung ứng tiền tệ dẫn tới sự mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Để thiết lập trạng thái cân bằng, một phần của số tiền dư thừa được dùng để mua hàng hoá và dịch vụ Tuy nhiên, vì số lượng hàng hóa và dịch vụ được quyết định bởi cung về các nguồn lực và trình độ công nghệ hiện có Do đó xuất hiện dư cầu trên thị trường hàng hóa,gây ra áp lực làm giá cả tăng lên để thiết lập trạng thái cân bằng mới trên thị trường hàng hóa Trong mô hình tổng cung - tổng cầu, sự gia tăng cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự dịch chuyển sang bên phải của đường tổng cầu và làm tăng mức giá chung trong nền kinh tế.

TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - XÃ HỘI

Nếu lạm phát ở quy mô nhỏ (với tỷ lệ lạm phát ở mức một con số), thì thông thường sẽ chưa gây ra các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế, thậm chí, nếu có thể duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức độ hợp lí thì có thể kích thích, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng tốt hơn

Nếu lạm phát ở quy mô lớn và không dự tính trước được thì hậu quả mà lạm phát gây ra sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn.

1.3.1 Tác động đối với sản lượng

Khi giá cả tăng, sản lượng quốc dân cũng thay đổi theo, có thể tăng, giảm hoặc có khi không đổi Nếu lạm phát do cầu thì sản lượng có thể tăng nhưng mức độ tăng nhiều hay ít còn phụ thuộc vào độ dốc của đường cung

Khi sản lượng cân bằng ở dưới mức sản lượng tiềm năng, sự dịch chuyển của đường tổng cầu sang phải sẽ làm cho sản lượng gia tăng với một tốc độ nhanh hơn sự gia tăng của mức giá chung

Khi mức sản lượng cân bằng cao hơn mức sản lượng tiềm năng thì sự gia tăng của tổng cầu sẽ tạo ra sự tăng lên nhanh chóng của mức giá chung, lạm phát tăng nhanh hơn mức tăng sản lượng Nếu lạm phát do cung gây ra thì lượng giảm, giá cả tăng cao, nền kinh tế sẽ rơi vào thời kì lạm phát đình trệ Sự sụt giảm sản lượng như thế nào còn phụ thuộc vào độ dốc của đường tổng cầu Nếu lạm phát do từ cả 2 phía cung và cầu thì tùy mức độ dịch chuyển của cả 2 đường tổng cầu và tổng cung mà sản lượng có thể tăng, giảm, hoặc không đổi.

1.3.2 Tác động đối với sự phân phối lại thu nhập và của cải

Tác động của lạm phát đối với việc phân phối lại thu nhập phụ thuộc vào kết quá dự tính tỷ lệ lạm phát, tính linh hoạt của tiền lương, sự chênh lệch về tốc độ tăng giá giữa các loại hàng hóa, dịch vụ.

+ Đối với người cho vay và người đi vay: Khi nền kinh tế có lạm phát thì mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay được xem xét theo lãi suất thực:

LÃI SUẤT THỰC = LÃI SUẤT DANH NGHĨA – TỶ LỆ LẠM PHÁT

Trong đó: Lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất cho vay được ấn định theo thị trường

 Khi đó thu nhập được chuyển từ người đi vay sang người cho vay và ngược lại khi lạm phát trong thực tế khác với lạm phát dự kiến Chênh lệch giữa 2 loại lạm phát này càng cao thì mức độ phân phối lại càng nhiều.

 Nếu tỷ lệ lạm phát thực tế đúng bằng mức đã dự kiến thì không có sự phân phối lại thu nhập, cả người cho vay lẫn người vay đều không được lợi mà cũng không bị thiệt hơn.

 Nếu tỷ lệ lạm phát thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát đã dự kiến thì lãi suất thực tế sẽ nhỏ hơn lãi suất mà người cho vay nhận được, người vay sẽ được hưởng lợi, người cho vay bị thiệt.

 Nếu tỷ lệ lạm phát thực tế nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát đã dự kiến thì lãi suất thực tế sẽ lớn hơn lãi suất dự kiến người cho vay sẽ hưởng lợi và người vay sẽ bị thiệt.

 Để tránh hiện tượng phân phối lại thu nhập, có thể cho vay theo lãi suất thả nổi LÃI SUẤT THẢ NỔI = LÃI SUẤT THỰC + TỶ LỆ LẠM PHÁT

+ Đối với người lao động và người thuê lao động: Nếu tiền lương được chỉ số hóa theo giá cả, nghĩa là giá tăng bao nhiêu thì tiền lương sẽ tăng bấy nhiêu thì không có lại phân phối lại thu nhập, còn nếu tốc độ tăng trưởng chậm hơn tỷ lệ lạm phát thì người hưởng lương sẽ bị thiệt, người trả lương sẽ được lợi và ngược lại.

+ Đối với người mua và người bán tài sản chính: Các loại tài sản chính như: Trái phiếu Chính phủ, chứng khoán của công ty… đa số có mức lãi suất danh nghĩa cố định Như vậy, trước khi có lạm phát xảy ra, nếu ta mua chúng thì sau lạm phát sẽ bị thiệt hại Phần thiệt hại đó cũng chính là phần lợi của người khác

+ Đối với người mua và người bán tài sản thực: Nếu lạm phát xảy ra: Người mua tài sản hiện vật sẽ hưởng lợi, người bán sẽ bị thiệt, phần thiệt của người bán sẽ trở thành phần lợi của người mua

+ Đối với các doanh nghiệp với nhau: Do khi lạm phát xảy ra, tỷ lệ tăng giá của các mặt hàng không giống nhau, vì vậy, doanh nghiệp nào sản xuất và tồn kho các mặt hàng có tỷ lệ tăng giá chậm sẽ bị thiệt, phần lợi sẽ thuộc về các doanh nghiệp có loại mặt hàng tăng giá nhanh.

+ Đối với Chính phủ và dân chúng: Trong đa số các trường hợp có lạm phát thì Chính phủ thường được lợi, dân chúng bị thiệt do:

(1): Chính phủ nợ dân chủ yếu dưới dạng tài sản chính, món nợ này thường không nhỏ.

(2): Các khoản chi trả lương, trợ cấp hưu trí… thường cố định trong thời gian dài, hoặc thay đổi rất chậm so với tốc độ tăng trưởng của giá.

(3): Các loại thuế lũy tiến như thuế thu nhập sẽ tăng lên nhanh chóng vì lạm phát đã đẩy thu nhập của dân chúng lên mức cao (về mặt danh nghĩa) hoặc phải chịu mức thuế suất cao hơn, trong khi đó, mức thu nhập cao hơn có lúc chỉ đủ bù đắp cho sự tăng giá.

1.3.3 Tác động đến cơ cấu kinh tế

CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

1.4.1 Giải pháp từ phía cầu

Chống lạm phát bằng cách giảm cầu chúng ta thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp và tiền tệ thu hẹp hoặc cùng một lúc sử dụng cả hai chính sách này.Bên cạnh đó chúng ta cũng có thể bổ sung hỗ trợ thông qua biện pháp kiểm soát trực tiếp (kiểm soát giá, lãi suất )

Các biện pháp này thực chất là làm giảm tổng cầu, đẩy đường tổng cầu AD dịch chuyển sang trái, kết quả là giá giảm và sản lượng giảm.

1.4.2 Giải pháp từ phía cung

Chống lạm phát bằng các giải pháp từ phía cung có thể thực hiện theo hai hướng là cắt giảm chi phí sản xuất hoặc gia tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế Muốn vậy cần có các chính sách kích thích tổng cung, dịch chuyển đường AS sang phải, kết quả là sản lượng tăng và giá cả giảm. Đối với lạm phát chi phí đẩy: Chính phủ có thể đưa ra một số chính sách như chính sách cắt giảm một số loại thuế nhằm kích thích sản xuất hoặc giảm bớt chi phí, chính sách kiểm soát lượng. Đối với lạm phát xảy ra do giảm năng lực sản xuất giảm: Chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích cải tiến kỹ thuật, hiện đại hóa khoa học công nghệ, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến quản lý…

1.4.3 Một số giải pháp hỗ trợ khác

Bên cạnh những giải pháp tác động về phía tổng cầu và tổng cung, để kiểm soát lạm phát, Chính phủ có thể thực hiện thông qua một số biện pháp như: kiểm soát lượng cung tiền trong nền kinh tế thông qua hoạt động của thị trường mở, lãi suất chiết khấu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc… Kiểm soát để ổn định giá cả, đặc biệt là giá của các mặt hàng vật tư cơ bản như: xăng, dầu, điện, nước…

CƠ SỞ THỰC TIỄN

Tình hình lạm phát năm 2000

2.1.1.1 Bối cảnh kinh tế - xã hội

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng 6,7% so với năm 1999.

 Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,0%:

 Trồng trọt: Sản lượng lúa đạt 35,6 triệu tấn, tăng 1,4 triệu tấn so với năm 1999; Sản lượng lương thực đạt 34,5 triệu tấn, tăng 1,3 triệu tấn so với năm 1999.

 Chăn nuôi: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi cả năm tăng 6,7%, trong đó giá trị gia súc và gia cầm tăng 6,6%; giá trị sản phẩm chăn nuôi không qua giết thịt tăng 8,2%.

+ Thủy sản: Ngành thuỷ sản tăng cường đầu tư cho nuôi trồng, khai thác và chế biến, tích cực tìm thị trường xuất khẩu Nhà nước đã có chương trình đóng mới tàu có công suất lớn đánh bắt xa bờ và chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thuỷ sản Giá trị sản xuất ngành thuỷ sản tăng 10,7%; sản lượng thuỷ sản đạt trên 2,0 triệu tấn, tăng 7,0%; giá trị thuỷ sản chế biến tăng 33,2%.

 Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,1%

+ Giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp tăng 15,7% so với năm 1999

+ Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng và có giá trị lớn tăng với tốc độ so với năm 1999: Than tăng 12,4%; thép cán tăng 17,2%; xi măng tăng 27,3%; điện tăng12,7%; vải lụa tăng 17,5%…

+ Đầu tư và xây dựng năm 2000 tiếp tục được tăng cường Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả năm ước tính thực hiện được 120,6 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6% + Trong năm 2000 có 180 công trình, trong đó có 2 tổ máy của thuỷ điện Yaly, 2 tổ máy của thuỷ điện sông Hinh và 3 tổ máy của nhà máy tuốc bin khí Phú Mỹ với tổng công suất 1069 MW; cầu Mỹ Thuận (1499 m), cầu Quán Hầu (548 m)… Khởi công được nhiều công trình quan trọng như đường Hồ Chí Minh giai đoạn I, đường hầm đèo Hải Vân, cảng Cái Lân…

 Khu vực dịch vụ tăng 5,6%: Hoạt động thương nghiệp, dịch vụ trong nước năm nay nhìn chung sôi động hơn năm trước Sức mua của dân cư đã tăng

+ Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,1% so với năm

1999, kinh doanh thương nghiệp chiếm 70,7%; khách sạn, nhà hàng 12,2%; dịch vụ 4,9%; du lịch lữ hành 0,8% và các cơ sở sản xuất trực tiếp bán lẻ 11,4%.

+ Chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,6% so với năm trước, trong đó nhóm hàng lương thực, thực phẩm giảm 2,3%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 4,7%; giáo dục và nhóm hàng hoá, dịch vụ khác tăng 4,1%; dược phẩm, y tế tăng 3,6%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,3%; phương tiện đi lại và bưu điện tăng 1,9%,…

 Hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước đều đạt những kết quả vượt trội hơn so với năm 1999.

 Theo Tổng cục thống kê: dân số nước ta năm 2000 là 77685,5 nghìn người; tăng 1089,0 nghìn người so với dân số trung bình năm 1999; trong đó dân số thành thị chiếm gần 24%; dân số nông thôn chiếm 76%; nam chiếm 49,2%; nữ chiếm 50,8%.

 Trong năm 2000, có khoảng 1447 nghìn người trong tuổi lao động không có việc làm, trong đó khu vực thành thị chiếm 48%; nông thôn chiếm 52%.

 Ngành Y tế đã triển khai nhiều biện pháp phòng chống dịch bệnh nên nhìn chung các bệnh gây dịch có xu hướng giảm cả về số ca mắc và số người chết so với năm trước. Riêng nhiễm HIV/AIDS vẫn có xu hướng gia tăng.

 Về giáo dục, nhìn chung có xu hướng phát triển hơn năm trước với sự tăng lên của số học sinh, sinh viên tốt nghiệp xếp loại giỏi, loại khá Đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật cũng có những chuyển biến tích cực.

 Do sản xuất kinh doanh phát triển, giá hàng hoá ổn định, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp chăm lo đời sống nhân dân, đẩy mạnh chương trình xóa đói giảm nghèo nên đời sống các tầng lớp dân đã được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm so với năm 1999.

 Tuy nhiên đời sống nông dân, nhất là nông dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Nghiên cứu về tình hình lạm phát ở Việt Nam xoay quanh các nhân tố: CPI, cung tiền, lãi suất, tỉ giá, sản lượng, GDP.

Hình 3: Tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng giai đoạn 1996-2009

Hình 4: Lạm phát theo CPI và GDP giai đoạn 1996-2009

Hình 5: Mối quan hệ giữa sản lượng thực, sản lượng tiềm năng và chỉ số CPI

Năm Lạm phát theo CPI

Mức tăng tỷ giá USD

Tốc độ tăng tín dụng

Tốc độ tăng cung tiền

Bảng 1: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2000 so với năm 1999

Có thể thấy, trong lịch sử, Việt Nam từng có thời điểm lạm phát phi mã (3 con số) điển hình năm 1986 khi chính sách đổi mới kinh tế bắt đầu được triển khai, lạm phát tới

774,5% Tuy nhiên, đến năm 1999 lạm phát của nước ta rất thấp chỉ dừng ở mức một con số là 0,1% Nhưng đến năm 2000 thì thậm chí lạm phát còn giảm tới mức con số âm là -0.6% (lạm phát theo CPI) Trong 2 thập kỷ qua, năm 2000 là năm duy nhất xảy ra hiện tượng giảm phát âm Mặc dù tốc độ tăng của cung tiền và tín dụng tăng rất nhanh Tốc độ tăng của cung tiền năm 2000 là khoảng 37% (giảm so với năm 1999), tốc độ tăng tín dụng là khoảng 38% (tăng so với năm 1999).

Một thước đo lạm phát nữa đó là lạm phát GDP hay DGDP , ta có thể thấy so với năm

1999 thì DGDP của năm 2000 đã có sự giảm nhẹ từ 4.8% xuống khoảng 4,5%.

Nguyên nhân chủ yếu khiến cho lạm phát năm 2000 là con số âm là do giá lương thực, thực phẩm và nhiều nông sản khác giảm mạnh trên thị trường thế giới như thóc, gạo, cà phê, cao su,… trong khi chính sách tiền tệ lại liên tục được nới lỏng.

+ Khó khăn lớn của sản xuất nông nghiệp nước ta năm 2000 là thiếu thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá, nhất là tiêu thụ gạo Được mùa lớn và sản lượng lúa hàng hoá tăng đáng kể nhưng thị trường xuất khẩu gạo của nước ta có nguy cơ bị thu hẹp do Trung Quốc đang đẩy mạnh xuất khẩu gạo với giá thấp Do vậy 4 tháng đầu năm 2000 chúng ta mới xuất khẩu được 717,0 nghìn tấn gạo, chỉ bằng 48,0% lượng gạo xuất khẩu 4 tháng đầu năm 1999.

+ Theo số liệu tháng 4/2000, chỉ số giá tiêu dùng tháng này tiếp tục giảm, chỉ bằng 99,3% tháng trước và bằng 97,9% mức giá tháng 4/1999 Đáng chú ý là trong tháng này giá tiêu dùng của hầu hết các loại hàng hoá và dịch vụ đều giảm so với tháng trước.

Lạm phát âm do chênh lệch giữa sản lượng thực và sản lượng tiềm năng ít và sản lượng thực thấp hơn sản lượng tiềm năng.

2.1.1.4 Biện pháp kiểm soát lạm phát của Chính phủ

Lạm phát thấp kéo theo sức mua ì ạch, hoạt động kinh tế cũng ngưng trệ theo, người tiêu dùng tạm hoãn chi tiêu để chờ giá giảm sâu hơn Giới doanh nghiệp ngừng đầu tư và tuyển dụng để tiết kiệm chi phí Lạm phát quá thấp “gặm nhấm” doanh số và nguồn thu thuế, cản trở việc tăng lương, ăn mòn lãi suất cận biên Chính vì vậy nên trước tình hình lạm phát của nước ta ở con số âm Chính phủ đã đề ra cách giải quyết như sau:

Tình hình lạm phát năm 2001

2.1.2.1 Bối cảnh kinh tế - xã hội

Kinh tế Việt Nam năm 2001 đạt mức tăng trưởng 6,8% với sự chững lại trong xuất nhập khẩu, sản xuất công và nông nghiệp Với tốc độ tăng GDP 6,8%, Việt Nam đứng thứ hai ở châu Á (sau Trung Quốc) về mức tăng trưởng kinh tế, được đánh giá là nước có môi trường đầu tư an toàn nhất Có thể đánh giá, năm 2001 là một trong những năm thành công nhất trong sự nghiệp 15 năm đổi mới ở Việt Nam.

 Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản: Tăng 2,98%

 Trồng trọt: Sản lượng lúa đạt gần 32 triệu tấn, giảm trên 0,5 triệu tấn Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 34 triệu tấn Sản lượng của nhiều loại cây công nghiệp năm 2001 đã cao hơn năm 2000: Bông tăng 45,7%; đay tăng 31%; thuốc lá tăng 13,7%; hạt tiêu tăng 44,2% Tuy nhiên, vẫn có một số cây công nghiệp hàng năm giảm sút cả diện tích gieo trồng và sản lượng thu hoạch so với năm trước như: mía, lạc…

 Chăn nuôi: Nhu cầu thực phẩm tăng nhanh đã khuyến khích chăn nuôi phát triển. Theo báo cáo chăn nuôi, đàn trâu tăng 13 nghìn con; đàn bò tăng 50 nghìn con; đàn lợn tăng 626 nghìn con; đàn gia cầm tăng 13,6 triệu con.

+ Lâm nghiệp: Sản lượng gỗ và nguyên liệu giấy khai thác đạt 2419,7 nghìn m , bằng 2 94% năm 2000 Tồn tại lớn nhất trong sản xuất lâm nghiệp là, mặc dù các cấp, các ngành và chính quyền các địa phương đã tăng cường công tác quản lý tài nguyên rừng nhưng tình trạng vi phạm lâm luật, chặt phá rừng và cháy rừng vẫn tiếp tục diễn ra

+ Thủy sản: Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng và khai thác đạt 2,4 triệu tấn, tăng 7,7%, trong đó cá tăng 5,1%; tôm tăng 30,7%; thuỷ sản khác tăng 7,1%.

 Khu vực công nghiệp và xây dựng: tăng 10,39%

 Khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,7%, Khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,3%, Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,1%.

 Dầu thô và một số mặt hàng tiêu dùng có tỉ trọng lớn như: rượu, bia, thuốc lá, xe máy, bột ngọt… nhu cầu không tăng hoặc bão hòa nên thị trường tiêu thụ khó khăn.

 Một số ngành chiếm tỷ trọng lớn có dấu hiệu tăng trở lại như: chế biến thủy sản, vải lụa, sản xuất động cơ…

 Ngành điện đã hoàn thành và hoà vào lưới điện quốc gia 1475 MW.

 Ngành giao thông vận tải hoàn thành nhiều công trình quan trọng, trong đó có tuyến đường Hà Nội-Lạng Sơn, Vinh- Đông Hà, Thường Tín- Cầu Giẽ, Biểu Nghi- Bãi Cháy; cầu vượt Nam Chương Dương.

 Khu vực dịch vụ: Tăng 6,10%.

+Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 8,5% (kinh tế Nhà nước 42 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,7% và tăng 5,5%; kinh tế cá thể 157 nghìn tỷ đồng, chiếm 65,9% và tăng 6,7%; kinh tế tập thể, tư nhân, hỗn hợp và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 39 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,4% và tăng 20,6%,…)

+Kim ngạch xuất khẩu đạt 15,1 tỷ USD, tăng 4,5%

+Kim ngạch nhập khẩu cả năm đạt 16 tỷ USD, tăng 2,3% so với năm 2000

 Dân số trung bình năm 2001 của nước ta là 78685,8 nghìn người, tăng 1050,4 nghìn người so với dân số trung bình năm 2000, trong đó dân số thành thị chiếm 24,76%; dân số nông thôn chiếm 75,24%; nam chiếm 49,2%; nữ chiếm 50,8%

 Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn đặt ra bức xúc Cũng theo kết quả sơ bộ cuộc điều tra lao động và việc làm thì thất nghiệp của lao động khu vực thành thị từ đủ

15 tuổi trở lên là 6,13% và của lao động trong độ tuổi là 6,28%.

 Chính phủ vẫn tiếp tục thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân Tuy nhiên, đời sống của một bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa, vùng bị lũ lụt và lao động ở những cơ sở sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì vẫn còn nhiều khó khăn.

 Y tế và giáo dục vẫn còn có nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, xong đang được từng bước đầu tư và không ngừng phát triển.

 Trong năm 2001, lụt bão và các thiên tai khác đã xảy ra ở 52 tỉnh, thành phố, trong đó một số địa phương bị thiên tai nhiều lần đã tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống của nhân dân.

Năm Lạm phát theo CPI

Mức tăng tỷ giá USD

Tốc độ tăng tín dụng

Tốc độ tăng cung tiền

Bảng 2: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2001 so với năm 2000

Nếu như năm 2000 tình hình lạm phát ở nước ta là con số âm -0,6% (lạm phát CPI) thì năm 2001, nhờ có việc áp dụng chính sách kích thích nới lỏng tín dụng và mở rộng đầu tư nhà nước mà tốc độ tăng trưởng có phần đi lên và mức lạm phát CPI cũng được tăng lên là 0,8% Tuy nhiên thì mức lạm phát năm 2001 cũng chỉ dừng lại ở một con số.

Khu vực tiền tệ có xu hướng giảm tăng trưởng nhưng vẫn ở tốc độ khá nhanh, phản ánh tốc độ mở rộng của nền kinh tế, và sự tiền tệ hoá nền kinh tế đang diễn ra cũng như nhu cầu tín dụng mạnh mẽ Tiền theo nghĩa rộng (tiền cung ứng) tăng khoảng 28% trong năm 2001 (đã giảm hơn 10% so với năm trước), tốc độ tăng tín dụng cũng rơi vào khoảng 20% (giảm khoảng 18% so với năm trước) Riêng mức tăng tỷ giá thì cao hơn năm 2000 một cách rõ rệt (từ 1,61 USD lên 3,93 USD).

Nhờ áp dụng kế hoạch kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tín dụng và mở rộng đầu tư nhà nước bắt đầu được thực hiện từ năm 2000 nhằm giúp nền kinh tế lấy lại tăng trưởng nên lạm phát từ âm đã có sự tăng lên trong năm 2001.

Lạm phát ở mức một con số dưới 5% bởi, sản lượng thực và sản lượng tiềm năng có chênh lệch nhưng ít, mức sản lượng thực vẫn nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng.

2.1.2.4 Biện pháp kiểm soát lạm phát của Chính phủ

Tình hình lạm phát năm 2002

2.1.3.1 Bối cảnh nền kinh tế - xã hội

Tổng sản phẩm trong nước tăng 7,04% so với năm 2001, cụ thể:

 Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Tăng 4,06%

 Trồng trọt: có sự chuyển đổi lớn về cơ cấu mùa vụ và cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng kinh tế hàng hoá, diện tích gieo trồng lúa giảm Sản lượng lúa đạt 34,1 triệu tấn; tăng 1,95 triệu tấn Sản lượng cây lương thực có hạt tăng 2,1 triệu tấn

 Chăn nuôi: Theo báo cáo sơ bộ, đàn trâu tăng 6,6 nghìn con so cùng kỳ năm 2001; đàn bò tăng 164 nghìn con; đàn lợn tăng 1369 nghìn con; đàn gia cầm tăng 15,2 triệu con.

+ Lâm nghiệp: Do nguồn vốn tập trung cho trồng rừng giảm lại gặp hạn hán kéo dài ở một số vùng phía Nam nên diện tích trồng rừng tập trung cả năm chỉ bằng 99,1% năm 2001 Trong năm còn trồng được 195 triệu cây phân tán Sản lượng gỗ khai thác, tăng 31 nghìn m Tồn tại lớn nhất trong sản xuất lâm nghiệp là công tác 2 quản lý rừng chưa được tốt, lực lượng kiểm lâm còn quá mỏng dẫn đến tình trạng chặt phá rừng vẫn tái diễn và đặc biệt xảy ra cháy rừng trên phạm vi rộng.

+ Thủy sản: Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng và khai thác tăng 5,9% Do số lượng tàu đóng mới để đánh bắt xa bờ tăng lên Một số địa phương còn phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh, cá chim trắng, cá lồng, cá bè trong vùng nước ngọt Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng 8,6% so với năm 2001.

 Khu vực công nghiệp và xây dựng: Tăng 9,44%

+ Công nghiệp: Nhìn chung, sản xuất công nghiệp năm 2002 ổn định với nhịp độ tăng trưởng cao Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp tăng cao và ổn định trong năm đã quyết định tốc độ tăng cao của toàn ngành là: Thủy sản chế biến tăng 25,2%, xi măng tăng 25,8%, than sạch tăng 18,9%…Vẫn còn có những sản phẩm tăng chậm hoặc giảm sút so với cùng kỳ năm trước như: Bia chỉ tăng 4,9%, đường mật các loại chỉ tăng 1,7%, dầu thô khai thác giảm 1,2%…

+ Xây dựng: Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã triển khai 678 công trình, trong đó có 65 công trình nguồn điện và 613 công trình lưới điện Về giao thông, làm mới, nâng cấp, sửa chữa 2690 km đường bộ, 19547 m cầu; sửa chữa, nâng cấp 209 km đường sắt, 2000m cầu đường sắt, 450m cầu cảng và nạo vét 350 nghìn m luồng 3 lạch đường sông.

 Khu vực dịch vụ: Tăng 6,54%

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội năm 2002 đạt 272,8 nghìn tỷ đồng, tăng 12,8% so với năm trước Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16,53 tỷ USD, tăng 10% Kim ngạch nhập khẩu đạt 19,3 tỷ USD, tăng 19,4% Khách quốc tế đến Việt Nam đạt 2628,2 nghìn lượt người, tăng 12,8% so với năm trước.

 Dân số trung bình năm 2002 khoảng 79,7 triệu người, tăng 1,31% so với dân số trung bình năm 2001, trong đó dân số thành thị tăng 2,3% và dân số nông thôn tăng 0,98%. Dân số nam 39,2 triệu người, chiếm 49,2% và nữ 40,5 triệu người, chiếm 50,8%.

 Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 6,01% (giảm 0,27% so với năm 2001) và tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lao động trong độ tuổi khu vực nông thôn là 75,3%.

 Do kinh tế tiếp tục tăng trưởng và giá cả tương đối ổn định nên nhìn chung đời sống dân cư đã được cải thiện hơn so với trước, cả ở thành thị và nông thôn.

 Công tác xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ các gia đình khó khăn tiếp tục được duy trì; số hộ nghèo năm 2002 đã giảm 30 vạn hộ, đưa tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 14,3%.

 Tình hình y tế năm 2002 nhìn chung ổn định, các dịch bệnh lớn không xảy ra

 Năm học 2002-2003 các địa phương đã đầu tư xây dựng thêm 2239 phòng học cho các lớp mầm non và 85466 phòng học cho các lớp phổ thông Tỷ lệ phòng học tranh tre nứa lá của bậc tiểu học đã giảm từ 20,3% trong năm học 2000-2001 xuống còn 18,1% trong năm học 2002-2003; của trung học cơ sở giảm từ 10,2% xuống còn 8,8% và của trung học phổ thông cũng giảm từ 5,8% xuống 4,2%.

Năm Lạm phát theo CPI

Mức tăng tỷ giá USD

Tốc độ tăng tín dụng

Tốc độ tăng cung tiền

Bảng 3: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2002 so với năm 2001

Trước năm 2002, tốc độ lạm phát giảm và thậm chí giảm xuống âm vào năm 2000 và thấp ở mức một con số vào năm 2001 với mức lạm phát theo CPI tương ứng -0,6% và 0.8% Tuy nhiên, lạm phát cao đã xuất hiện sau năm 2002 bằng sự đảo chiều và tăng nhanh tới 4% (lạm phát CPI) (từ 0,8% lên 4%) so với năm trước Việc đó càng cho thấy hiệu quả của việc kiên trì áp dụng liên tục chính sách kích thích tín dụng và mở rộng đầu tư nhà nước Và cũng có thể nói rằng thời điểm năm 2002 chính là thời điểm đánh dấu của sự tăng cao trở lại của lạm phát Tuy nhiên, đây là chuyện bình thường và không đáng lo ngại, nhưng theo ông Alessandro Pio, chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Phát triển châu Á nói rằng Việt Nam vẫn phải thận trọng với chính sách tiền tệ Bên cạnh đó, thâm hụt cán cân thương mại có thể xảy ra do nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, 3 tháng đầu năm 2002, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,6%, trong khi đó mục tiêu do Quốc hội đề ra cho năm này là từ 7 đến 7,2%.

Khu vực tiền tệ đã và đang tăng trưởng ở mức độ nhanh, phản ánh tốc độ mở rộng của nền kinh tế, và sự tiền tệ hoá nền kinh tế đang diễn ra cũng như nhu cầu tín dụng mạnh mẽ. Tiền theo nghĩa rộng (tiền cung ứng) tăng khoảng 18% trong năm 2002, tốc độ tăng tín dụng cũng rơi vào khoảng 21%.

Khi xét tới cung tiền M2, Việt Nam đã thực thi chính sách tiền tệ mở rộng đạt mức bình quân rất cao 26,7%/năm giai đoạn 2001-2007, trong khi GDP tăng tương ứng7,5%/năm Chính điều này là yếu tố gây nên mức lạm phát cao chưa kể độ trễ và lũy tích của việc tăng cung tiền đối với nền kinh tế trong các năm kế tiếp.

Tình hình lạm phát năm 2003

2.1.4.1 Bối cảnh kinh tế - xã hội

Tổng sản phẩm trong nước cả năm 2003 tăng 7,24% so với năm 2002.

 Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Tăng 3,2%

+ Nông nghiệp: Sản lượng lúa đạt tăng 71,4 nghìn tấn Sản lượng lương thực có hạt tăng 49,3 vạn tấn so với năm trước Thời tiết diễn biến trong năm không thuận lợi cho các cây công nghiệp hàng năm, sản lượng nhìn chung thấp hơn so với năm

2002 Sản xuất các loại cây ăn quả cũng tăng so với năm trước.

+ Chăn nuôi: Nhu cầu thực phẩm tăng nhanh, nhiều chương trình hỗ trợ giống, kỹ thuật và vốn được thực hiện đã thúc đẩy chăn nuôi phát triển Đàn trâu cả nước tăng 0,7%; đàn bò tăng 8,2%; đàn lợn tăng 7,4%; đàn gia cầm tăng 9%; sản lượng thịt các loại đạt 2,3 triệu tấn, tăng 8,4%.

+ Lâm nghiệp: Diện tích rừng trồng tập trung cả năm ước tính chỉ đạt 192 nghìn ha, tăng 1% so với năm 2002 Sản lượng gỗ khai thác cả nước đạt 2500 nghìn m , 3 không tăng so với mức của năm trước Công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành quan tâm hơn nên tình trạng cháy và phá rừng trong năm đã có chiều hướng giảm đi rõ rệt.

+ Thủy sản: Tổng sản lượng thuỷ sản cả năm ước tính đạt 2794,6 nghìn tấn, tăng5,6% so với năm trước Sản lượng thuỷ sản khai thác cả năm ước tính đạt 1828,5 nghìn tấn, tăng 1,4% Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 966,1 nghìn tấn, tăng 14,4%

 Khu vực công nghiệp và xây dựng: Tăng 10,34%

+ Công nghiệp: tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp 2003 so với năm 2002 đạt mức 16%, cao nhất trong 3 năm trở lại đây Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng đối với nền kinh tế và chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất công nghiệp có mức độ tăng cao và ổn định so với năm 2002 là yếu tố quan trọng để quyết định tốc độ tăng trưởng Dầu thô khai thác là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong năm 2003.

+ Xây dựng: ngành công nghiệp và xây dựng có 415 dự án với số vốn đăng ký 1027,3 triệu USD Ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có 84 dự án với 157,5 triệu USD Các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài tập trung chủ yếu vào các tỉnh, thành phố phía Nam với 430 dự án và 1040,3 triệu USD Nhìn chung, hoạt động đầu tư xây dựng năm 2003 đã cơ bản đạt được mục tiêu đề ra và có một số tiến bộ trong các khâu chuẩn bị, quản lý và giám sát thi công.

 Khu vực dịch vụ: Tăng 6,57%

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội năm 2003 đạt 310,5 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1%(các ngành hầu như đều có tốc độ tăng trưởng tăng, trừ ngành du lịch do ảnh hưởng của dịch SARS) Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 ước tính đạt 19,9 tỷ USD, tăng 19,0% Kim ngạch nhập khẩu cả năm ước tính đạt xấp xỉ 25 tỷ USD, tăng 26,7%. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam giảm 7,2% so với năm 2002 do ảnh hưởng của dịch SARS.

 Dân số trung bình năm 2003 của cả nước ước tính khoảng 80,7 triệu người, tăng 1,18% so với dân số trung bình năm 2002, trong đó dân số nam chiếm 49,2% và nữ chiếm 50,8% Dân số thành thị tăng 2,41%; dân số nông thôn tăng 0,76%

 Lao động năm 2003 tăng chủ yếu ở một số ngành, như: nuôi trồng thuỷ sản, công nghiệp chế biến, xây dựng, du lịch, phục vụ cá nhân và công cộng.

 Tính đến giữa năm 2003, tỷ lệ thất nghiệp của khu vực thành thị đạt 5,8% Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn vẫn còn ở mức 22% và cũng là tình trạng của tất cả các vùng kinh tế trong cả nước.

 Đời sống dân cư năm 2003 nhìn chung ổn định và được cải thiện Số hộ thiếu đói giảm 11,4%; số nhân khẩu thiếu đói giảm 13,9%.

 Công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở được các địa phương trong cả nước tích cực triển khai.

 Tình hình HIV/AIDS tiếp tục gia tăng Dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) đã làm

63 trường hợp bị lây nhiễm, trong đó 5 người đã tử vong nhưng chúng ta đã có các biện pháp kịp thời và khống chế thành công từ tháng 4/2003 và đã được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận là quốc gia đầu tiên khống chế được dịch SARS.

Năm Lạm phát theo CPI

Mức tăng tỷ giá USD

Tốc độ tăng tín dụng

Tốc độ tăng cung tiền

Bảng 4: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2003 so với năm 2002

Với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 tăng thêm 0,8%, cả năm 2003 chỉ số lạm phát (mức tăng CPI) Việt Nam rơi vào khoảng 3%, đúng như chỉ tiêu Quốc hội đề ra Trong năm nay, có 4 tháng liên tục từ tháng 5 đến tháng 8, CPI giảm Các tháng còn lại, mức tăng cũng không đều, chẳng hạn tháng 2 tăng 2,2% thì tháng 9 chỉ tăng 0,1%.

Trong tháng 12, mặc dù có sự kiện SEA Games, chỉ số giá nhóm hàng thể thao, giải trí chỉ tăng nhẹ dưới 1%, còn nhóm hàng lương thực, thực phẩm lại tăng tới 2%; giá vàng tăng 5% Tính chung cả năm, nhóm hàng tăng giá cao nhất là vàng với gần 30%; dược phẩm, y tế trên 20%.

Năm nay, Quốc hội đề ra mục tiêu lạm phát dưới 5% Điều này xuất phát trên cơ sở mặt bằng lãi suất tương đối cao, trung bình trên 8%/năm; cơ bản thời kỳ giảm phát và thiểu phát 1999-2002 đã qua đi Vì vậy, khống chế một mức tăng giá tiêu dùng sẽ giúp nền kinh tế không phải đối mặt với những cú sốc, tăng trưởng ổn định.

Lạm phát đã tăng lên trong năm 2002 nhưng có giảm đi đôi chút trong năm 2003 Sau hai năm có giảm phát nhẹ, lạm phát chung trung bình khoảng 4 phần trăm trong năm 2002 và đã giảm xuống còn 3 phần trăm cho đến thời điểm tháng Bảy năm 2003 Lạm phát của các mặt hàng phi lương thực thực phẩm cho thấy một xu hướng tách biệt so với lạm phát chung, nhưng có thể dịu đi trong các tháng tới do việc giảm giá chậm hơn của tiền đồng và giá dầu trên thế giới đang giảm đi Tăng trưởng mạnh hơn đã được đi kèm với sự xấu đi đáng kể của vị thế cán cân thanh toán vãng lai đối ngoại, cho dù xuất khẩu tăng mạnh.Thõm hụt cỏn cõn vóng lai được ước đoỏn ở mức khoảng 3ẵ phần trăm của GDP trong năm 2003, so với việc đã thặng dư trong năm 2001 Thâm hụt cán cân vãng lai này được tài trợ thông qua một sự kết hợp của các luồng vốn dài hạn vào Việt nam nhiều hơn và sự đảo ngược tình hình tăng tài sản có ngoại tệ mạnh mẽ trước đây của các ngân hàng thương mại.

Tốc độ tăng trưởng ngành khai khoáng và xây dựng trong tốc độ tăng trưởng chung của GDP vẫn cao, còn tốc độ tăng trưởng ngành nông lâm thuỷ sản thì chậm lại.

Tình hình lạm phát năm 2004

2.1.5.1 Bối cảnh nền kinh tế - xã hội

Năm 2004, tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều diễn biến theo các chiều hướng khác nhau: Sự phục hồi của kinh tế thế giới, một số nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, giá cả quốc tế và trong nước tăng mạnh, dịch cúm gia cầm bùng phát trong quý

I trên phạm vi nhiều tỉnh thành phố, các bất lợi do thời tiết… tác động thuận và không thuận đến nền kinh tế nước ta Để ổn định kinh tế vĩ mô và đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2004, Chính phủ đã có sự chỉ đạo điều hành sát sao ngay từ những tháng đầu năm và các ngành, các cấp, các địa phương đã có những nỗ lực đáng kể.Nhờ đó, kinh tế tiếp tục phát triển tích cực và đạt mức tăng trưởng cao, xã hội ổn định.

Trên cơ sở số liệu thống kê 12 tháng, Tổng cục Thống kê khái quát tình hình kinh tế - xã hội năm 2004 như sau:

Tổng sản phẩm trong nước năm 2004 ước tính đạt 362,1 nghìn tỷ đồng tính theo giá năm 1994, tăng 7,7% so với năm 2003 (tương đương với tăng thêm 25,85 nghìn tỷ đồng), trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,5 %; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; khu vực dịch vụ tăng 7,5% Trong 7,7% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,8 điểm %; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 3,9 điểm % và khu vực dịch vụ đóng góp 3 điểm %.

 Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm nay tăng 3,5%, giảm nhẹ so với mức tăng 3,6% của năm 2003 Ngành nông nghiệp tăng 2,9% (thấp hơn mức tăng 3,2% của năm 2003, do ảnh hưởng của thời tiết không thuận đầu vụ đông xuân và ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm); Lâm nghiệp chỉ tăng nhẹ, ngang mức 0,8% của 2003; Thuỷ sản đạt mức tăng 8,5% so với năm 2003, vượt trội so với mức tăng 7,7% của năm trước, do sản xuất tăng và mở rộng được tiêu thụ trên thị trường nội địa.

 Khu vực công nghiệp và xây dựng đạt mức tăng trưởng 10,2%, tuy thấp hơn mức tăng 10,5% của 2003, nhưng nhìn chung không biến động nhiều so với mức tăng bình quân 10,1% của khu vực này trong ba năm 2001-2003; trong đó chỉ có ngành công nghiệp khai thác tăng mạnh, đạt 11,3% (cao hơn hẳn mức tăng 6,3% của năm 2003), các ngành công nghiệp chế biến tăng thấp hơn năm trước do giá nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu đầu vào của một số mặt hàng tăng cao đã làm chi phí tăng nhanh hơn và hạn chế mức tăng trưởng nói chung; Công nghiệp điện, khí đốt và nước cũng chỉ tăng ngang mức của năm trước Riêng ngành xây dựng, do giá thép xây dựng tăng cao và không ổn định, công tác giải phóng mặt bằng chậm… nên mức tăng trưởng năm nay chỉ đạt 9% (Năm trước là 10,6%).

 Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng năm nay đạt 7,5%, cao hơn hẳn mức tăng trưởng bình quân 6,4% của 3 năm 2001-2003 Đáng chú ý là các ngành có tỷ trọng lớn như thương nghiệp và vận tải, bưu điện, du lịch có mức tăng cao so với mức tăng của năm trước: Mức tăng trưởng của ngành thương nghiệp là 8,4% (Năm trước 6,8%); ngành vận tải, bưu điện, du lịch tăng 8,1% (Năm trước tăng 5,5%).

 Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2004 ước tính tăng 14,5% so với dự toán cả năm, trong đó các khoản thu nội địa tăng 12%, thu từ dầu thô tăng 59,8% Các khoản thu chủ yếu trong thu nội địa đều đạt tương đối cao như:

+ Thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể thu từ dầu thô) đạt 115,4% dự toán năm; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 109,8%; thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đạt 111,6%; các khoản thu về nhà đất đạt 208,1%; thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đạt 172,1%; riêng thu từ các doanh nghiệp Nhà nước mới đạt 96%

+ Thu từ dầu thô đạt tỷ lệ tăng cao so với dự toán thu cả năm, nhờ giá dầu thô tăng cao, trong khi thu cân đối ngân sách Nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu mới đạt 90% kế hoạch năm (thuế xuất, nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu chỉ đạt 81,4%)

Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2004 ước tính đạt 112% dự toán cả năm, trong đó chi thường xuyên đạt 107,9%; chi cho đầu tư phát triển đạt 113,6% (chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 114,7%); chi trả nợ và viện trợ đạt kế hoạch năm Những khoản chi lớn và quan trọng trong chi thường xuyên nhìn chung đều đạt tỷ lệ khá so với dự toán cả năm: Chi cho giáo dục và đào tạo đạt 102,5% dự toán cả năm; chi lương hưu và bảo đảm xã hội đạt 103,4%; chi quản lý hành chính, Đảng, Đoàn thể đạt 116,5%; chi sự nghiệp kinh tế đạt 127,8%; chi cho y tế đạt 108,3%; chi cho văn hoá thông tin đạt 107,1% Bội chi ngân sách ở mức dưới 5% so với GDP và bằng mức bội chi cả năm Quốc hội cho phép, trong đó được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và vay nước ngoài theo dự toán.

Bối cảnh xã hội Đời sống dân cư năm nay chịu tác động của nhiều yếu tố như giá tiêu dùng tăng, dịch cúm gia cầm bùng phát trong những tháng đầu năm và ảnh hưởng của thiên tai ở một số vùng, nhưng nhìn chung vẫn ổn định Đời sống cán bộ viên chức và người hưởng lương không có biến động lớn, do chưa được hưởng lương thay đổi từ 1/10 theo quyết định tăng lương của Chính phủ Ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp được mùa, đồng thời giá nông sản, thực phẩm tăng, công tác giải quyết việc làm, cho vay vốn sản xuất và chương trình xoá đói giảm nghèo được thực hiện tích cực hơn nên đời sống ổn định Nhiều địa phương không còn hộ đói về lương thực; tỷ lệ hộ nghèo giảm Thiếu đói trong nông dân giảm đáng kể so với năm 2003: Tính chung cả năm 2004, số hộ và số nhân khẩu thiếu đói đều giảm32,4% Thiếu đói tập trung chủ yếu ở các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải NamTrung Bộ và Tây Nguyên Để trợ giúp các hộ thiếu đói khắc phục khó khăn, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành và các địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói khoảng 4,8 nghìn tấn lương thực và 11,6 tỷ đồng.

 Khái quát lại, tình hình kinh tế - xã hội năm 2004 tiếp tục phát triển và ổn định, đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, riêng chỉ số giá tiêu dùng cả năm tăng cao hơn so với kế hoạch năm nhưng vẫn ở mức dưới hai chữ số và không gây tác động lớn cho sản xuất và đời sống dân cư Tổng sản phẩm trong nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng 8,5%, góp phần nâng tốc độ tăng trưởng của cả năm so với 2003 lên 7,7%, là tốc độ tăng tương đối cao, so với những năm gần đây Tốc độ tăng xuất khẩu nhanh hơn nhập khẩu, đã thu hẹp được chênh lệch xuất nhập khẩu, giảm được nhập siêu. Thu ngân sách đạt vượt dự toán cả năm và đã đảm bảo được những khoản chi theo dự toán và bội chi ngân sách ở mức thấp so với GDP Tình hình xã hội ổn định; văn hoá, y tế, giáo dục tiếp tục phát triển Kết quả đạt được về phát triển kinh tế xã hội trong 2004 cũng tạo thêm cơ sở cho thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 và kế hoạch 5 năm 2001-2005

Năm Lạm phát theo CPI

Mức tăng tỷ giá USD

Tốc độ tăng tín dụng

Tốc độ tăng cung tiền

Bảng 5: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2004 so với năm 2003

Ngay từ những tháng đầu năm 2004, khi xu hướng lạm phát mạnh bắt đầu có dấu hiệu manh nha, đã có rất nhiều khẳng định lạm phát cả năm tuy vượt qua con số 5% mà Quốc hội đề ra nhưng sẽ không bao giờ vượt quá con số 7,5% Thế rồi mỗi tháng trôi qua, liên tục các dự báo đều thất bại, và cuối năm 2004 thì lạm phát gần bằng hai con số (9,5%).Nhất là giai đoạn 7 tháng đầu năm 2004: so với cuối năm năm 2003, chỉ số CPI của cả nước tăng 7,7%, trung bình mỗi tháng tăng 1,1%, chủ yếu do giá lương thực – thực phẩm tăng tới 13,7%, (trong đó, giá lương thực tăng 11,2% và giá thực phẩm tăng 15,4%),trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm hàng tiêu dùng còn lại trong cùng kỳ hầu như chỉ tăng nhẹ ở mức 1 chữ số, không cao quá mức 5% Riêng giá hàng hóa dịch vụ nhóm dược phẩm y tế tăng 7,7% do phải nhập khẩu tới 60% nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh; trong khi chỉ số giá nhóm giáo dục lại giảm nhẹ 2,7% Nếu so với cùng kỳ năm 2003 thì chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam trong tháng 7/2004 đã tăng 9,1%/năm – mức tăng cao nhất trong hơn 5 năm qua (lần cuối gần đây nhất CPI của Việt Nam cũng đã tăng

9,1%/năm là vào tháng 1/1999), chủ yếu do giá lương thực – thực phẩm tăng mạnh với mức 15,5% trong cùng kỳ.

Tình hình lạm phát năm 2005

2.1.6.1 Bối cảnh nền kinh tế - xã hội

Năm 2005, nền kinh tế diễn ra trong điều kiện khó khăn cả trong nước và trên thế giới Do có sự chỉ đạo điều hành sát sao của Chính phủ ngay từ những tháng đầu năm và sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các địa phương và toàn dân nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cả năm 2005, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001-2005, kinh tế nước ta tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao và phát triển tích cực, xã hội ổn định Trên cơ sở cập nhật tình hình quý IV, Tổng cục Thống kê tổng hợp sơ bộ tình hình kinh tế - xã hội năm

Tính chung năm 2005, tổng sản phẩm trong nước tăng 8,4% so với năm 2004, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,6% và khu vực dịch vụ tăng 8,5% Trong 8,4% tăng trưởng chung, đóng góp của các khu vực theo thứ tự đóng góp: công nghiệp và xây dựng 4,2 điểm phần trăm; dịch vụ 3,4 điểm phần trăm và nông lâm nghiệp thuỷ sản 0,8 điểm phần trăm.

 Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: đạt mức tăng thấp hơn so với dự kiến từ tháng 9, chủ yếu do sản lượng lúa mùa ở các tỉnh miền Bắc giảm (ảnh hưởng trực tiếp của bão số 7, bão số 8) và thiệt hại do cúm gia cầm không những giảm tốc độ khôi phục tổng đàn mà còn giảm cầu tiêu dùng thịt gia cầm và các sản phẩm chế biến từ gia cầm do tâm lý người dân e ngại không muốn tiêu dùng gia cầm khi không rõ nguồn gốc Tuy nhiên, trong khu vực này thuỷ sản tăng mạnh, do cầu trong nước tăng (bù vào thịt gia cầm và sản phẩm chế biến từ gia cầm) và xuất khẩu tăng so với năm trước, nhất là những tháng cuối năm. Lâm nghiệp tăng nhẹ, chủ yếu do tăng sản lượng gỗ khai thác.

 Khu vực công nghiệp và xây dựng: đạt mức tăng trưởng 10,6%, trong đó giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp chế biến tăng 13,1% (9 tháng tăng 12,5%, cao hơn mức tăng 11% đã ước tính vào cuối tháng 9 và công nghiệp chế biến quý IV tăng 14,7%); giá trị tăng thêm của công nghiệp khai thác năm nay chỉ tăng 0,9%, chủ yếu do dầu thô khai thác trong suốt cả 4 quý đều thấp hơn sản lượng cùng quý tương ứng của năm 2004 và sản lượng dầu thô khai thác cả năm cũng chỉ đạt mức 92,3% sản lượng năm 2004 Công nghiệp điện, ga, nước tăng 12,2%; xây dựng tăng 10,8%.

 Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng 8,5%, cao hơn hẳn mức tăng trưởng 7,3% của năm 2004 Trong khu vực này, các ngành có tỷ trọng lớn và thuộc lĩnh vực dịch vụ kinh doanh như thương nghiệp; khách sạn, nhà hàng; vận tải, bưu điện, du lịch; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đều có mức tăng cao hơn so với mức tăng của từng ngành trong năm trước: Thương nghiệp năm nay tăng 8,3% (năm 2004 tăng 7,8%); Khách sạn nhà hàng tăng 17%

(2004 tăng 8,1%); Vận tải, bưu điện, du lịch tăng 9,6% (2004 tăng 8,1%)…

Dân số trung bình năm 2005 của cả nước ước tính khoảng 83,12 triệu người, tăng 1,33% so với năm 2004, trong đó dân số nam 40,86 triệu người, chiếm 49,2%; dân số nữ 42,26 triệu người, chiếm 50,8% Dân số khu vực thành thị là 22,23 triệu người, chiếm 26,8% và dân số nông thôn 60,89 triệu người, chiếm 73,2% Đời sống dân cư năm nay nhìn chung ổn định; nhiều ngành và địa phương đã có những biện pháp tích cực góp phần cải thiện đời sống người lao động như tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động; thực hiện trợ cấp, phát thưởng kịp thời…Bên cạnh đó, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu cũng đã tác động tích cực và cải thiện đáng kể đời sống cán bộ, viên chức và người hưởng lương ở nông thôn, đời sống của đại đa số nông dân ổn định và từng bước được cải thiện do sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển; giá nông sản, thực phẩm tăng; đồng thời nhiều địa phương thực hiện hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương tiếp tục giảm, nhiều tỉnh đã không còn hộ đói Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm và tình trạng hạn hán kéo dài cũng như ảnh hưởng của mưa, bão, lũ ở một số địa phương nên đời sống một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn, thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra ở một số địa phương và tập trung chủ yếu tại các tỉnh Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên Để hỗ trợ các đối tượng thiếu đói khắc phục khó khăn, trong năm 2005 các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân đã trợ giúp trên 22 nghìn tấn lương thực và 13,3 tỷ đồng.

 Khái quát lại, kinh tế - xã hội năm 2005 tiếp tục phát triển và ổn định Các chỉ tiêu chủ yếu của nền kinh tế và các lĩnh vực then chốt đạt kết quả cao hơn so với năm trước.Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,4% là tốc độ tăng tương đối cao so với tốc độ tăng những năm gần đây, do sự gia tăng khả quan của các ngành sản xuất, dịch vụ Mặt khác trong năm 2005 do sản xuất phát triển đã tạo điều kiện tăng tiêu dùng của dân cư, tăng chi ngân sách Nhà nước, tăng đầu tư và tăng xuất khẩu nhanh hơn nhập khẩu Giá tiêu dùng tuy tăng cao nhưng giữ ở mức xấp xỉ tốc độ tăng trưởng kinh tế Tình hình xã hội ổn định;văn hoá, y tế, giáo dục tiếp tục phát triển.

Mức tăng trưởng trong năm 2005 đã góp phần tích cực vào hoàn thành mục tiêu tăng trưởng bình quân 7,5%/năm đã được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005, tạo tiền đề vững chắc cho cả nước bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010 Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung và cơ cấu trong nội bộ từng ngành kinh tế, cơ cấu xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nước ta không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay ở trên thị trường trong nước vẫn là những thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta trong những năm tới, nhất là trong năm 2006 khi thực hiện AFTA và ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, cũng như chuẩn bị tham gia WTO

Năm Lạm phát theo CPI

Mức tăng tỷ giá USD

Tốc độ tăng tín dụng

Tốc độ tăng cung tiền

Bảng 6: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2005 so với năm 2004

Lạm phát năm 2005 tiếp tục tăng cao, ở thức 8,4% so với 9,5% năm 2004.

Tăng giá cao nhất trong cả năm 2005 là nhóm mặt hàng lương thực - thực phẩm Tính chung trong cả 12 tháng đầu năm 2005, nhóm lương thực thực phẩm tăng 10,8%, thấp hơn so với mức tăng kỷ lục 15,6% của cả năm 2004, trong đỏ riêng nhóm hàng thực phẩm đã tăng tới 12% và nhóm mặt hàng lương thực tăng 7,8%

Mức tăng lớn đứng hàng thứ hai trong năm 2005 là nhóm mặt hàng nhà ở và vật liệu xây dựng Trong năm 2005 nhóm này đã tăng 9,8% Nhóm phương tiện đi lại và bưu điện tăng 9,1% Nguyên nhân chủ yếu là do giá bán lẻ xăng dầu trong nước tăng cao Cũng trong 11 tháng đầu năm 2005, giá bán lẻ các mặt hàng xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng tới 3 đợt, với tổng mức tăng bình quân từ 45,6% đến 55% Đến ngày 22-11-

2005 giá bán lẻ xăng dầu được điều chỉnh giảm 500đ/lít, nhưng không tác động giảm cước phí giao thông vận tải và đi lại

Thứ tư là nhóm đồ dùng và dịch vụ khác trong năm 2005 tăng 6,0% Tiếp đến là nhóm mặt hàng giáo dục, may mặc, mũ nón, giày dép tăng 5,0%; dược phẩm y tế tăng 4,9%;thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 4,8% Riêng nhóm văn hoá thể thao giải trí có mức tăng thấp nhất là 2,7% Vàng và đô la Mỹ không tính trong chỉ số tăng giá tiêu dùng CPF nhưng riêng giá vàng tăng tới 1,3%.

Nguyên nhân lạm phát năm 2004-2005

Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư) Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn này lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho sống kinh tế của Chính phủ; làm suy vong nền kinh tế quốc gia Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo tháng Vậy nguyên nhân của tình trạng làm phát này bắt nguồn từ đâu? Nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam, chủ yếu là yếu tố tiền tệ Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát Nói một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do ba nguyên nhân cơ bản sau:

 Thứ nhất, do cầu kéo: Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú Do đó hầu như không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới tăng giá một hay một số mặt hàng nào đó Song trong năm 2004, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm xảy ra trên diện rộng và kéo dài đã làm giàu mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng lên làm cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến.

 Thứ hai, do chi phí đẩy: Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu tiến thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu phối thép, nguyên liệu nhựa, phân đạm Ure, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế, làm cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần Đây là nguyên nhân để nhận thủy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua

 Thứ ba, do đầu tư công quá mức Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công. Nhưng nhà nước chỉ nên tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chen lấn khu vực tư nhân Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35 - 40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao Mức chi tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái cho một số đối tượng.

 Thứ tư, sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực thị trường) Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái trong việc phân bố vốn Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước Đối với một số doanh nghiệp tư nhân lớn, chúng ta thấy rằng, không ít trong số họ chủ yếu tập trung vào các hoạt động kinh doanh (nói đúng hơn là đầu cơ) các loại tái sản (bất động sản, chứng khoán) hay tìm kiếm tài nguyên quốc gia chứ không phải lập trung vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế Đều đang quan tâm là hầu hết các doanh nghiệp này không chỉ có các ngân hàng hay tổ chức tài chính riêng của mình mà còn có quan hệ chặt chẽ với không ít các tổ chức tài chính ngân hàng lớn hay những mối quan hệ khác Điều này làm cho các khoản cho vay theo quan hệ trở nên phổ biến hơn và một phần không nhỏ nguồn vốn được đưa vào các hành động kinh doanh có tính đầu cơ gây rủi ro hơn là tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế Dĩ nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng chính giải quyết việc làm và là động lực tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua đã, đang và sẽ bị chèn lấn và khó tiếp cận vốn hơn nên có thể phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho qua ngày

 Thứ năm, việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn cho làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam Khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu Điều này làm cho một lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút Sự lãng phí tham nhũng trong đầu tư công cũng như sự phân bổ vốn thiên lệch như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều người giàu lên bất thường có nhu cầu chi tiêu các hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với việc định giá cao đồng tiền làm cho tình trạng nhập siêu ngày càng căng thẳng hơn.

 Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá như trên đã dẫn đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn với lạm phát luôn ở mức cao.

Giải pháp của Chính phủ năm 2004-2005

Các giải pháp tiền tệ tài chính: Khống chế tổng phương tiện thanh toán phù hợp với yêu cầu của tăng trưởng kinh tế mức tăng tối đa trong khoảng 21%; dư nợ tín dụng tăng khoảng 21-26%, huy động vốn tăng 40-45%, trong đó vốn trong nước tăng 19-20%; tiếp tục điều chỉnh lãi suất và tỷ giá phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới Để thực hiện mục tiêu trên Ngân hàng Nhà nước phải phối hợp chặt chẽ với bộ kế hoạch và đầu tư Bộ tài chính và các Bộ, các ngành có liên quan tập trung thực hiện kiên quyết một số giải pháp sau đây:

 Ngân hàng Nhà nước điều hành chặt chẽ phương tiện thanh toán đã dự kiến: thu hồi nợ đến hạn và quá hạn, khống chế hạn mức tín dụng kiểm soát định mức dự trữ bắt buộc theo pháp lệnh Ngân hàng, loại bỏ tín phiếu kho bạc trong cơ cấu dự trữ bắt buộc và tăng tương ứng phần tiền gửi trên tài khoản của ngân hàng Nhà nước.

 Ngân hàng Nhà nước cần sơ kết kinh nghiệm điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để có những sửa đổi bổ sung cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng với các tổ chức kinh tế Việc mua ngoại tệ của ngân hàng Nhà nước chỉ thực hiện khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ tăng cường kiểm tra kiểm soát và từng bước thực hiện nhanh hơn chủ trương “Trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam” Các biện pháp về ngân sách nhà nước: Phấn đấu tăng thu, thực hiện triệt để tiết kiệm chi nhằm giảm bội chi ngân sách nhà nước, tăng dự trữ tài chính bảo đảm cân đối ngân sách nhà nước vững chắc, lành mạnh là biện pháp cơ bản để góp phần kiềm chế lạm phát. Các ngành, các cấp phải có việc chỉ đạo thu, chi ngân sách là nhiệm vụ trọng tâm của mình Đi đôi với việc nghiên cứu chính sách thuế Bộ tài chính, Tổng cục hải quan và uỷ ban nhân dân các cấp cần tăng cường công tác quản lý thu và chống thất thu thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật Phối hợp với các ngành các cấp quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, đấu tranh chống buôn lậu và kinh doanh trái pháp luật, khai man doanh số và chây ỳ trong việc nộp thuế Tổ chức thanh tra và kiểm tra việc thu thuế, cải tiến thủ tục nộp thuế, tránh phiền hà cho người nộp thuế

Các biện pháp về điều hành cung cầu thị trường: Thực hiện các biện pháp để hàng hoá lưu thông thông suốt trong cả nước nhằm ngăn chặn các hiện tượng đầu cơ, tích trữ khan hiếm giả tạo, kích giá tăng lên thiệt hại cho sản xuất và đời sống Bộ thương mại chủ trì cùng các bộ ngành liên quan sớm có đề án quản lý thị trường, tiêu thụ hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Bộ Kế Hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các cơ quan quản lý ngành hàng phối hợp với cơ quan chức năng chịu trách nhiệm theo dõi diễn biến cung cầu những mặt hàng thuộc Bộ, cơ quan của mình quản lý Phát hiện và xử lý kịp thời những mất cân đối phát sinh trong quá trình điều hành Bộ thương mại có trách nhiệm điều hoà hàng hóa trong cả nước, nhất là những mặt hàng quan trọng để giải quyết những mất cân đối cục bộ ở từng khu vực Để chặn đứng tình trạng giá cả tăng cao thường diễn ra vào những tháng đầu năm, các Bộ ngành cần nghiêm chỉnh chấp hành những yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ Bộ lao động thương binh xã hội chủ trì phối hợp với các Bộ ngành có liên quan tổ chức tiền lương, năng suất lao động chi phí sản xuất, lưu thông và việc hình thành giá ở một số đơn vị sản xuất, kinh doanh các loại hàng hoá đại diện cho các ngành kinh tế quốc dân để đề xuất chính sách và biện pháp giải quyết tiền lương gắn với năng suất lao động đối với khu vực sản xuất kinh doanh.

Về chỉ đạo điều hành: Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ thương mại, Ban vật giá Chính phủ, Tổng cục hải quan, Tổng cục thống kê tổ chức giao ban định kỳ hàng tháng để nắm chắc diễn biến tình hình vận động của hàng hoá, thị trường, tiền tệ, tình hình cân đối hàng tiền qua đó phát hiện những khâu yếu phát sinh trong công tác điều hành và đề xuất với Chính phủ các biện pháp xử lý kịp thời Tổ tư vấn giá cả do Trưởng ban Vật giá Chính phủ làm tổ trưởng cần nắm bắt thông tin về diễn biến giá cả trong nước, ngoài nước chính xác kịp thời, phát hiện những vấn đề vướng mắc trong điều hành hàng hoá và thông báo tình hình đến các bộ ngành liên quan để xử lý.

Về chính sách tiền tệ: mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng nội tệ trên cơ sở kiểm soát lạm phát Chúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó vì tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế Trách nhiệm này thuộc về ngân hàng Nhà nước, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình ngân hàng Nhà nước sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng.

Về chính sách tài khóa: đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ, trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô như sau:

 Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát, cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.

 Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khi đạt được hai mục tiêu cùng một lúc.

2.2 TỔNG KẾT TÌNH HÌNH LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 2000-2005

Năm 2000, là thời kỳ giảm phát nhẹ đầu tiên với tỷ lệ lạm phát được tính là -0,5% mặc dù tiền tệ và tín dụng tăng rất nhanh (30-40%/năm) và Việt Nam phá giá mạnh (khoảng 36%) trong giai đoạn 1997-2003 Lãi suất cũng dần được tự do hóa từ giữa những năm

1990 với lãi suất cơ bản được áp dụng thay cho trần lãi suất cho vay vào tháng 8 năm

2000 Và từ năm 2002, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam được phép đặt lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm theo các điều kiện thị trường Sau giai đoạn ổn định ở mức thấp này, lạm phát bắt đầu tăng trở lại với tỷ lệ 9,5% trong năm 2004 cao hơn rất nhiều so với mục tiêu 6% mà Chính phủ đặt ra Tiền tệ/ tín dụng và lạm phát có mối tương quan rõ ràng hơn từ năm 2003 Khi tiền tệ/tín dụng tăng thì lạm phát cũng tăng theo Khi các tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của khủng hoảng châu Á giảm đi, cầu bắt đầu tăng lên Cầu tăng lên cùng với sự tăng lên của tiền lương danh nghĩa ở cả khu vực nhà nước và khu vực FDI trong năm 2003 đã khiến giá cả tăng lên Đóng góp thêm vào sự tăng giá này là các cú sốc cung do dịch cúm gà và thời tiết xấu gây ra Chính phủ nghiêng về quan điểm coi các cú sốc cung này là các nguyên nhân gây lạm phát Những cú sốc cung này chủ yếu ảnh hưởng đến giá lương thực thực phẩm với giá lương thực thực phẩm tăng 15,5% so với tỷ lệ lạm phát chung là 9,5% và lạm phát phi lương thực thực phẩm là 5,2% trong năm 2004 Lo lắng về nguy cơ lạm phát trở lại, ngân hàng Nhà nước lại bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ khiến cho lãi suất tăng lên chút ít và giữ cố định tỷ giá từ năm 2004 Bộ Tài chính và ngân hàng Nhà nước cũng tiếp tục can thiệp vào lãi suất bằng những biện pháp gián tiếp thay vì sử dụng chính sách tiền tệ.

Nhìn chung, tình hình lạm phát tại nước ta từ năm 2000 đến năm 2005 có xu hướng gia tăng và tăng mạnh lên mức 2 con số Diễn biến lạm phát liên tục biến động, bên cạnh đó lạm phát hàng năm luôn cao hơn lạm phát mục tiêu, đồng thời mức gia tăng lạm phát cũng liên tục cao hơn mức tăng trưởng GDP.

ĐÁNH GIÁ - GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ

Ngày đăng: 12/06/2022, 18:55

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1: Lạm phát cầu kéo - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Hình 1 Lạm phát cầu kéo (Trang 7)
Hình 2: Lạm phát chi phí đẩy - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Hình 2 Lạm phát chi phí đẩy (Trang 8)
Hình 3: Tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng giai đoạn 1996-2009 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Hình 3 Tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng giai đoạn 1996-2009 (Trang 15)
Hình 5: Mối quan hệ giữa sản lượng thực, sản lượng tiềm năng và chỉ số CPI - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Hình 5 Mối quan hệ giữa sản lượng thực, sản lượng tiềm năng và chỉ số CPI (Trang 16)
Bảng 2: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2001 so với năm 2000 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Bảng 2 Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2001 so với năm 2000 (Trang 20)
Bảng 3: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2002 so với năm 2001 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Bảng 3 Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2002 so với năm 2001 (Trang 23)
Bảng 4: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2003 so với năm 2002 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Bảng 4 Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2003 so với năm 2002 (Trang 26)
Bảng 5: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2004 so với năm 2003 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Bảng 5 Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2004 so với năm 2003 (Trang 30)
Bảng 6: Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2005 so với năm 2004 - PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 2005 VÀ CÁC BIỆN PHÁP MÀ CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG để KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
Bảng 6 Bảng so sánh các chỉ tiêu lạm phát năm 2005 so với năm 2004 (Trang 33)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN