Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giảm nghèo ở nông thôn Hiện nay, cả nước có khoảng 342 triệu gia cầm, 28 triệu con lợn và gần 8 triệu trâu bò (Tổng cục Thống kê, 2015) Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đi kèm với tình hình dịch bệnh phức tạp, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi, đặc biệt là các bệnh như Newcastle, Gumboro, viêm phế quản truyền nhiễm và tụ huyết trùng.
Bệnh Newcastle là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với ngành chăn nuôi gia cầm toàn cầu, do tính chất truyền nhiễm và khả năng lây lan nhanh chóng của nó Nguyên nhân gây bệnh là virus Paramyxovirus serotype 1, ảnh hưởng đến hệ hô hấp, tiêu hóa và thần kinh, thường đi kèm với các bệnh khác và có tỷ lệ tử vong cao Tương tự, bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm ở gà (IB) cũng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây lan nhanh với tỷ lệ mắc bệnh từ 50-100% trong đàn Bệnh này do virus Coronavirus gây ra, với các triệu chứng hô hấp như ho, hắt hơi, khó thở và có thể dẫn đến viêm thận cấp hoặc mãn tính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng và chất lượng trứng ở gà đẻ.
Một trong những biện pháp quan trọng để kiểm soát dịch bệnh trong chăn nuôi là thực hiện an toàn sinh học và sử dụng vắc xin phòng bệnh Hiện nay, vắc xin trong nước chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, trong khi vắc xin nội địa chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu của người chăn nuôi Vắc xin nhập khẩu thường có giá cao hơn nhiều so với vắc xin sản xuất trong nước, tạo ra sự phụ thuộc đáng lo ngại vào nguồn cung nước ngoài Vắc xin sản xuất trong nước chủ yếu là vắc xin đơn giá, có ưu điểm tạo miễn dịch nhanh và hiệu giá bảo hộ cao, nhưng việc sử dụng loại vắc xin này đòi hỏi nhiều công lao động, gây stress cho vật nuôi và tổng chi phí cho vắc xin cao hơn.
Chăn nuôi công nghiệp đang đối mặt với thách thức giảm hiệu quả kinh tế do sự không ổn định trong đàn gia cầm lớn và sản lượng cao Để cải thiện tình hình này và đáp ứng nhu cầu thị trường, việc chủ động phát triển vắc xin để kiểm soát dịch bệnh là rất quan trọng Chúng tôi tiến hành nghiên cứu sản xuất và thử nghiệm vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB nhằm phòng ngừa bệnh Newcastle và bệnh viêm phế quản truyền nhiễm ở gia cầm.
M ục tiêu của đề tài
Sản xuất vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB quy mô phòng thí nghiệm, đánh giá chất lượng các lô vắc xin sản xuất.
P hạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu sản xuất vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB trong điều kiện phòng thí nghiệm của Công ty Cổ phần Thuốc thú y Trung Ương 5;
- Kiểm tra chất lượng ba lô vắc xin sản xuất thử nghiệm;
- Thử nghiệm vắc xin trên các lô gà thí nghiệm được bố trí tại Khu Động vật thí nghiệm của Công ty Cổ phần Thuốc thú y Trung Ương 5.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn đã xác định các chỉ tiêu quan trọng cho giống sản xuất vắc xin, lựa chọn chất bất hoạt và chất bổ trợ phù hợp Đồng thời, nghiên cứu cũng đã xây dựng quy trình sản xuất và kiểm nghiệm vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB cho gia cầm.
Cung cấp cho ngành chăn nuôi gia cầm một loại vắc xin vô hoạt an toàn, hiệu quả trong việc phòng ngừa bệnh Newcastle và bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm, giúp người chăn nuôi tiết kiệm thời gian và chi phí.
+ Chủ động trong việc cung cấp vắc xin phòng chống dịch bệnh cho chăn nuôi gia cầm
PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
G iới thiệu chung về bệnh Newcastle
Lịch sử bệnh Newcastle trên thế giới
Bệnh Newcastle, lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1898, đã xuất hiện ở Hàn Quốc vào năm 1924 và Trung Âu vào năm 1912 Đến năm 1926, các vụ dịch đầu tiên của bệnh này ở gia cầm được ghi nhận tại Java, Indonesia và Newcastle-upon-Tyne, Anh Tên gọi "bệnh Newcastle" được đặt bởi Doyle.T.M vào năm 1935 Năm 1942, Burnet F.M đã mô tả hiện tượng virus Newcastle gây ngưng kết hồng cầu ở gà, người, chuột bạch và chuột lang, nhưng không ảnh hưởng đến hồng cầu ngựa Trong các năm 1941, 1946 và 1951, nhiều ổ dịch do virus Newcastle bùng phát ở Mỹ đã gây thiệt hại lên tới 52 triệu USD (OIE, 2005).
Cho đến thời điểm hiện tại, có ít nhất 4 đại dịch Newcastle đã được ghi nhận trên toàn thế giới vào các thời điểm 1926, 1960, 1970 và đầu những năm
Vào năm 1980, nền kinh tế chịu thiệt hại nghiêm trọng do các đợt dịch bệnh Đợt dịch đầu tiên diễn ra vào năm 1926, ảnh hưởng gần như đồng loạt đến các quốc gia như Indonesia, Anh và Hàn Quốc, sau đó lan rộng đến Philippines, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia và Kenya Đến năm 1951, dịch bệnh đã xuất hiện tại Hawai và Canada, tiếp tục bùng phát ở nhiều khu vực khác nhau của Châu Phi, Sicily, châu Âu và Hoa Kỳ vào năm 1952 Đầu những năm 1960, các đợt dịch thứ hai và thứ ba được ghi nhận tại Hawaii, Canada, Mexico, cũng như ở Trung và Nam Mỹ.
Dịch bệnh lây lan chủ yếu qua việc vận chuyển vẹt nuôi và bồ câu, ảnh hưởng đến nhiều quốc gia ở châu Âu và Iran từ năm 1964 Bệnh đã lan rộng qua châu Á và Trung Đông, với các đợt bùng phát mạnh mẽ vào các năm 1977, 1979 và 1980 Tại hội nghị gia cầm thế giới năm 1977 ở Atlanta, Mỹ, các nhà khoa học đã xác định rằng tất cả các chủng virus được phân lập ở California, Trung Đông và châu Âu đều thuộc cùng một type huyết thanh.
Tại Covasna, Romania, nhiều ổ dịch đã bùng phát, trong khi ở đảo Crete, Hy Lạp, dịch bệnh cũng đã gây thiệt hại nặng nề cho gia cầm, đặc biệt là gà Broiler Tại Harju, miền Bắc Estonia, dịch Newcastle đã xuất hiện, dẫn đến tổn thất lớn cho đàn gà thương phẩm.
2008) Ở châu Âu, chương trình tiêm phòng đã khống chế được các ổ dịch từ nhưng năm 1970 nhưng nhưng năm 1994, có tới 239 vụ xảy ra Năm 1996-1997
Tại Anh, đã xảy ra 11 vụ dịch, trong đó có 4 vụ lớn liên quan đến gà thương phẩm Broiler và 7 vụ ở gà tây Tại Australia, vào năm 1998, hai vụ dịch lớn đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho đất nước và tình trạng dịch bệnh này tiếp tục kéo dài đến cuối năm 2000.
Bệnh Newcastle đang diễn biến phức tạp và gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi gia cầm, với dịch vẫn bùng phát ở gà đã tiêm chủng tại Ai Cập do sự xuất hiện của chủng virus có kiểu gene mới Tại miền Đông Trung Quốc, hơn 75% chủng virus được phân lập từ gà đã tiêm phòng là các biến thể mang E347K ở gene F, cho thấy vắc xin LaSota không bảo vệ được trước chủng virus này Ở Thượng Hải, biến thể genotype VIII gây chết đến 86,4% gà bệnh, và cả vắc xin LaSota lẫn Clone 30 đều không có hiệu quả bảo vệ Năm 2015, dịch Newcastle bùng phát tại huyện Gutu, Zimbabwe, khiến ít nhất 500.000 gà chết, trong khi tại Philippines, dịch cũng gây chết cho khoảng 41.000 chim, gà ở các tỉnh Pampanga, Tarlac và Nueva Ecija, và sau đó lan rộng, làm chết 11.700 gà ở Norte và Locos, La Union.
Lịch sử bệnh Newcastle tại Việt Nam
Bệnh Newcastle, được phát hiện lần đầu bởi Phạm Văn Huyến vào năm 1933 và được gọi là bệnh dịch tả gà Đông Dương, đã xuất hiện rộng rãi tại Việt Nam, với các ca bệnh đầu tiên ghi nhận tại Nha Trang năm 1949 và Sài Gòn từ 1955-1957 Dịch bệnh này đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho chăn nuôi gà công nghiệp, điển hình là tại nông trường Thành Tô năm 1973, nơi 100.000 gà chết chỉ trong 10 ngày, và xí nghiệp gà Cầu Diễn năm 1974, với 2/3 tổng đàn 300.000 con bị chết trong 2 tháng Ngoài ra, bệnh Newcastle cũng là nguyên nhân chính gây thiệt hại cho các hộ chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ, kể cả những đàn đã được tiêm vắc xin (Trương Quang, 2005).
Bệnh Newcastle có thể ảnh hưởng đến gà ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp hơn ở gà nhỏ Theo nghiên cứu của Phan Văn Lục (1994), đã ghi nhận 4 vụ dịch xảy ra trên gà nhỏ và 1 vụ ở gà trưởng thành Tỷ lệ nhiễm bệnh Newcastle cao nhất được quan sát ở đàn gà từ 17 đến 30 ngày tuổi.
Virus gây bệnh Newcastle
Theo nghiên cứu của Nguyễn Bá Huệ và cộng sự (1980), bốn chủng virus Newcastle cường độc đã được phân lập từ gà tại các xí nghiệp Cầu Diễn, Thành Tô, An Khánh và Đông Anh, bao gồm các chủng CD, HP, AK và ĐA Tất cả các virus này đều có độc lực cao, với liều gây chết 50% gà thí nghiệm (LD50) dao động trong khoảng 10^-7,2 đến 10^-7,7 Virus Newcastle chủng N91 đã được sử dụng làm chủng cường độc tham chiếu trong việc kiểm nghiệm vắc xin từ những năm 1990, với các chỉ số MDT = 57 giờ, ICPI = 1,77, IVPI = 2,67 và LD50 = 10^-6,5 (Nguyễn Thị Phương Duyên và cộng sự, 1988).
Hà (2000), xác định chủng CT2 có độc lực cao như VN91 trên chim cút
2.1.3.2 Phân loại a Phân loại theo độc lực
Theo Oie (2008), theo độc lực virus được chia làm 3 nhóm:
Nhóm Velogen là một nhóm độc lực mạnh, có khả năng gây chết phôi lên đến 100%, đặc biệt ở những đàn không được tiêm vắc xin Tỷ lệ chết có thể đạt 100% trong những trường hợp này Bệnh tích thường thấy là các điểm xuất huyết trên phôi, và nhóm này thường gây bệnh trong tự nhiên Các chủng thuộc nhóm Velogen chỉ được sử dụng để chế tạo vắc xin vô hoạt.
Nhóm Mesogen có độc lực trung bình, gây tử vong khoảng 10% ở gà không được tiêm phòng và có khả năng gây chết phôi sau 60 giờ nuôi cấy với một số điểm xuất huyết Nhóm này bao gồm ba chủng: M (Mukteswar), K (Komarov) và H (Herofov), được sử dụng để chế tạo vắc xin cho gà lớn, được gọi là vắc xin Newcastle hệ I.
Nhóm Lentogen là một nhóm virus có độc lực yếu, không gây bệnh tự nhiên và không làm chết phôi Nhóm này thường gây bệnh nhẹ và ít khi gây chết cho gà, bao gồm các chủng như B1, LaSota, F, V4 Do đó, các chủng này thường được sử dụng để chế tạo vắc xin phòng bệnh cho gà con dưới 2 tháng tuổi, còn được gọi là vắc xin hệ II.
Dựa trên những triệu chứng lâm sàng cơ bản được phát hiện trên gà nhiễm bệnh, các chủng virus Newcastle được phân thành 5 nhóm (Oie, 2008), bao gồm:
- Nhóm Viscerotropic velogenic: Nhóm có độc lực cao gây bệnh tích chủ yếu là xuất huyết đường tiêu hoá
- Nhóm Neurotropic velogenic: Nhóm có độc lực cao, gây tỷ lệ chết với các triệu chứng hô hấp và thần kinh
- Nhóm Mesogenic: Nhóm có độc lực vừa gây các triệu chứng về hô hấp, đôi khi có triệu chứng thần kinh nhưng gây tỷ lệ chết thấp
- Nhóm Lentogenic: Nhóm có độc lực thấp gây các triệu chứng đường hô hấp không điển hình
- Nhóm Asymtomatic enteric: Nhóm có độc lực thấp gây các triệu chứng đường tiêu hoá không điển hình c Phân loại theo đặc tính di truyền
Từ 2003-2012, tồn tại hai hệ thống phân loại Hệ thống phân loại thứ nhất do Aldous chia các virus NDV thành 6 dòng (lineage 1 đến 6), trong các dòng 3,
Các phân dòng sublineage 4 và 5 bao gồm 16 sublineage (Aldous & cs., 2003) Hệ thống phân loại thứ hai dựa trên lịch sử phát sinh loài được chia thành hai lớp (class I và II) Từ tổ tiên chim hoang dã, chúng đã tách thành hai thủy tổ, hiện tại tồn tại thành hai lớp: class I có 9 genotype và class II có 10 genotype (Czegledi).
Dựa vào trình tự gene, đề xuất hợp nhất hai hệ thống phân loại thành hệ thống phân loại theo genotype (Diel & cs., 2012) Khoảng cách tiến hóa trung bình 10% được xác định là ngưỡng để tách biệt genotype mới Hiện tại, class I bao gồm 1 genotype với 10 sub-genotype, trong khi class II vẫn đang được nghiên cứu.
Virus NDV thuộc lớp I có genome dài nhất với 15,198 nucleotide, chủ yếu xuất phát từ chim hoang Lớp I bao gồm 10 kiểu gen (1-10) và được phát hiện rộng rãi ở chim hoang trên toàn cầu, thường được phân lập từ các chợ gia cầm sống, bồ câu, thủy cầm và chim hoang không có triệu chứng Chúng thường không gây độc lực trên gà, ngoại trừ một chủng đặc biệt (NDV LoNDV) từ thủy cầm và chim đua, đã gây ra dịch bệnh nghiêm trọng ở Úc từ năm 1998 đến 2000.
Class II, nhóm thứ nhất, có genome ngắn nhất với 15,186 nucleotide, bị mất 12 nucleotide ở gene P, gây bệnh cho gà có nguồn gốc từ các tổ tiên genotypes I-IV và H33 tại Anh Trong khi đó, Class II, nhóm thứ hai, đã thêm 6 nucleotide vào vùng 5’ của gene.
NP so với nhóm 1 bao gồm các genotype từ V đến XVIII Nhóm thứ nhất xuất hiện sớm, khoảng những năm 1930-1960, với các genotype I, II, III, IV và IX gây dịch Sau năm 1960, các chủng virus thuộc genotype V, VI, VII, VIII và X đến XVIII đã xuất hiện (Czegledi & cs., 2006) Hầu hết các chủng virus gây ra bốn đại dịch từ những năm 1920 đến nay đều thuộc class II.
Genotype I chủ yếu xuất hiện ở các loài chim, bao gồm chim di trú và chim ven biển Loại gen này đã được phân lập tại các chợ gia cầm sống và có mức độ độc lực thấp đến trung bình (Kim & cs.).
Một số chủng virus Newcastle Disease Virus (NDV) thuộc genotype I, như NDV QV4 (1966) ở Úc và Ulster (1967) ở Ireland, được sử dụng làm vắc xin sống Genotype II bao gồm các virus có độc lực thấp như LaSota, B1 và VG/GA, trong khi một số chủng có độc lực cao như Chicken/Texas (GB)/1948 vẫn còn lưu hành ở Ấn Độ Genotype III đã xuất hiện trước năm 2007.
1960 tại Nhật Bản, ở Đài Loan vào năm 1969, 1985 và ở Zimbabwe năm 1990 Virus genotype IV chủ yếu là các chủng phân lập được ở châu Âu trước năm
1970 đã dần biến mất từ 1960-1996, nhưng vẫn tồn tại dai dẳng ở Ấn Độ
(Maminiaina & cs., 2010) NDV Genotype IX chỉ ở Trung Quốc, gần đây lưu hành ở chim hoang và gây bệnh cả gà và vịt (Tsai & cs., 2004)
Genotype V xuất hiện vào những năm 1970, gây đại dịch ND tại Bắc Mỹ
Từ năm 1971 đến 2002, nhiều loại virus đã được phát hiện và lây lan ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, bao gồm Mexico, Tây Âu (1970-1974), Đông Âu và Canada (1995-2000) Tại Trung Quốc, một đợt bùng phát do Genotype V đã gây ra dịch địa phương, trong khi Genotype VI gây dịch ở châu Âu vào những năm 1960 và sau đó lan sang châu Á Genotype VII xuất hiện ở vùng Viễn Đông của Nga sau năm 1970, với subgenotype VIIa chủ yếu lưu hành ở khu vực này và lan rộng ra châu Á, châu Âu; subgenotype VIIb có mặt tại Viễn Đông và Nam Phi Hiện nay, genotype IX đã lưu hành toàn cầu và được chia thành 8 sub-genotype (VIIa đến j), gây dịch ở Serbia, Trung Quốc, Kazakhstan, Nam Phi và nhiều nước châu Á, Tây Phi Các virus thuộc genotype VIII cũng đã lưu hành từ sau năm 1960 tại Nam Phi, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
NDV Genotype X xuất hiện ở Đài Loan vào năm 1969 và 1981 Genotype
Genotype XI, có nguồn gốc từ genotype IV, đã xuất hiện tại Madagascar vào năm 1960, trong khi genotype XII gần đây được phát hiện đồng thời ở Trung Quốc và Colombia Genotype XIII xuất hiện ở Ấn Độ vào những năm 1980 và đã lan rộng sang các quốc gia Nam Á qua các loài chim hoang dã và chim di trú đến các "ốc đảo" ở Indonesia (Jakhesara & cs., 2016) Ngoài ra, genotype XVI lưu hành tại Bắc Mỹ, trong khi các genotype XIV, XVII và XVIII chủ yếu được ghi nhận ở châu Phi (Bùi Ngọc Anh., 2013).
Virus Newcastle độc lực cao có sự phân bố rộng rãi ở nhiều genotype và subgenotype, chủ yếu do khả năng lưu hành của chúng trong quần thể gà khỏe mạnh, thủy cầm, chim hoang và chim di trú, cũng như các loài động vật khác ngoài gà nuôi.
Virus Newcastle là một loại virus ARN có cấu trúc xoắn và đa hình thái, bao gồm hình tròn, hình trụ và hình sợi Virus này được bao bọc bởi một lớp lipid bên ngoài và kích thước của virion dao động trong khoảng nhất định.
150 - 400nm Virus có cấu trúc nucleocapsid dạng xoắn ốc, đường kính 17 - 18nm Vỏ bọc được phủ các gai (glycoprotein HN- F) dài 8 - 12 nm (Alexander,
Truyền nhiễm học của bệnh
Virus gây bệnh cho các loài như gà, gà tây, bồ câu và chim sẻ, trong khi vịt, ngan, ngỗng cũng có thể bị nhiễm nhưng triệu chứng nhẹ hơn Tất cả các lứa tuổi gà đều có nguy cơ mắc bệnh, nhưng gà từ 2-5 tháng tuổi là nhóm dễ bị ảnh hưởng nhất.
Trong phòng thí nghiệm, gà giò thường được sử dụng để gây bệnh bằng cách tiêm virus, dẫn đến triệu chứng và bệnh tích tương tự như gà mắc bệnh tự nhiên Ngoài ra, chim bồ câu cũng có thể bị gây bệnh bằng cách tiêm virus vào bắp thịt, với triệu chứng tê liệt xuất hiện sau 6-8 ngày và tử vong sau 15-16 ngày Bên cạnh đó, chuột bạch cũng được dùng để gây bệnh qua việc tiêm vào óc hoặc phúc mạc, với thời gian tử vong từ 3 đến 6 ngày.
2.1.4.2 Đường xâm nhập và cách thức lây lan
Virus Newcastle xâm nhập vào cơ thể gia cầm qua đường tiêu hóa từ thức ăn, nước uống và phân, hoặc qua đường hô hấp khi gia cầm hít thở Virus này thâm nhập qua niêm mạc hầu họng, vào máu, gây nhiễm trùng huyết và ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trong cơ thể, dẫn đến viêm và hoại tử (Nguyễn Bá Hiên, 2013).
Virus gây tổn thương nội mô mạch máu, dẫn đến xuất huyết và thẩm xuất dịch vào các xoang trong cơ thể Đồng thời, virus cũng gây rối loạn tuần hoàn và ảnh hưởng đến trung khu hô hấp của hệ thần kinh trung ương, gây ra tình trạng khó thở nghiêm trọng.
Mức độ lây lan của virus phụ thuộc vào độc lực, liều lượng nhiễm và sức đề kháng của gia cầm Virus có thể được truyền qua việc vận chuyển sản phẩm gia cầm như thịt, xác chết, chất thải và thức ăn thừa, cũng như qua tiếp xúc giữa gia cầm nuôi và chim hoang dã.
2.1.4.3 Chất chứa và bài xuất virus
Trong cơ thể gà bệnh, hầu hết các cơ quan phủ tạng đều chứa virus Thường
Virus có thể được phát hiện ở thận, lách, túi Fabricius, đường hô hấp, tụy và não 44 giờ sau khi nhiễm Nó được bài xuất qua phân, nước mắt và nước mũi Thời gian bài xuất virus bắt đầu từ 20-24 giờ trước khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng và kéo dài suốt thời kỳ bệnh cho đến khi bệnh nhân hồi phục (Nguyễn Bá Hiên, 2013).
Triệu chứng, bệnh tích bệnh Newcastle
Thời gian nung bệnh thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày, nhưng có thể chỉ 2 ngày hoặc kéo dài hơn một tuần Bệnh tiến triển qua ba thể chính: thể quá cấp tính, thể cấp tính và thể mạn tính Thể quá cấp tính thường xuất hiện ở đầu ổ dịch với diễn biến nhanh, khiến vật nuôi ủ rũ và có thể chết chỉ sau vài giờ Thể cấp tính là thể bệnh phổ biến với các triệu chứng rõ ràng như sốt cao, khó thở, hắt hơi, trướng diều, mào yếm tím bầm, tiêu chảy phân trắng xanh và giảm sản lượng trứng Cuối cùng, thể mạn tính thường xuất hiện ở giai đoạn cuối của ổ dịch, với biểu hiện rối loạn thần kinh trung ương.
Thể quá cấp tính: Bệnh tích thường không rõ ràng, đôi khi chỉ thấy những xuất huyết ở ngoại tâm mạc, màng ngực và niêm mạc đường hô hấp
Trong thể cấp tính, xác chết thường gầy, với mào yếm tím bầm Xoang mũi và miệng chứa nhiều dịch nhớt màu đục, trong khi niêm mạc miệng, hầu, họng và khí quản có dấu hiệu xuất huyết, viêm và phủ màng giả fibrin Một số trường hợp còn cho thấy tổ chức liên kết vùng đầu, cổ, hầu bị phù thũng, thấm nhiễm dịch thẩm xuất màu vàng dễ đông như gelatin (Nguyễn Bá Hiên, 2013).
Phương pháp chẩn đoán bệnh Newcastle
- Chẩn đoán lâm sàng: Có thể chẩn đoán bệnh Newcastle dựa vào các đặc điểm dịch tễ học và triệu chứng, bệnh tích như đã nêu;
- Chẩn đoán bằng sinh học phân tử: RT-PCR, realtime-RT-PCR;
- Chẩn đoán bằng phương pháp phân lập và giám định virus: Dùng phôi gà, dùng gà khỏe mạnh, dùng môi trường tế bào;
Chẩn đoán huyết thanh học sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như HI, HA, phản ứng kết tủa khuyếch tán trên thạch, ELISA và phản ứng trung hòa Trong số đó, phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI) là phương pháp phổ biến nhất để phát hiện kháng thể có trong huyết thanh.
Vắc xin phòng bệnh Newcastle
Ở nước ta, hầu hết các vắc xin phòng Newcastle ở Việt Nam tập trung vào chủng LaSota, LaSota chịu nhiệt, LaSota V4 chịu nhiệt (Nguyễn Thu Hồng,
1990), Newcastle hệ I có thể có nguồn gốc từ chủng Mukteswar (Trần Đình Từ,
Vắc xin có hiệu quả phòng bệnh khác nhau tùy thuộc vào phương pháp sử dụng như nhỏ mũi, khí dung hay tiêm, và không bị ảnh hưởng bởi vùng địa lý (Nguyễn Thu Hồng & cs., 1998) Bên cạnh đó, việc bổ sung Vitamin hoặc thuốc trợ lực có thể nâng cao hiệu quả của vắc xin.
Vắc xin nội địa phòng bệnh Newcastle, sử dụng các chủng LaSota và Newcastle hệ I, đã được triển khai rộng rãi trên toàn quốc Gần đây, vắc xin ngoại nhập cũng đang trở nên phổ biến trong chăn nuôi công nghiệp, gia trại và trang trại.
Virus Newcastle là một loại virus đơn huyết thanh học, và mặc dù đã có nhiều loại vắc xin được sử dụng, dịch bệnh vẫn tiếp tục xảy ra Các nghiên cứu ứng dụng đã được thực hiện để tối ưu hóa việc sử dụng vắc xin dựa trên các đối tượng gà và mô hình chăn nuôi (Mai Hoàng Việt, 1999) Với tính chất chăn nuôi nhỏ lẻ, công tác phòng bệnh cần sự tham gia tích cực của cộng đồng (Trần Văn Hà, 2004) Một số loại vắc xin phòng bệnh Newcastle hiện có trên thị trường.
Vắc xin chịu nhiệt là loại vắc xin được sản xuất từ chủng virus tự nhiên, được cải tiến để tăng cường khả năng chịu nhiệt thông qua quá trình chọn lọc nhân tạo trong phòng thí nghiệm Điều này giúp vắc xin có khả năng kháng lại nhiệt độ cao, khắc phục nhược điểm của nhiều loại vắc xin phòng bệnh Newcastle, vốn giảm hiệu quả sau 1 đến 2 giờ ở nhiệt độ phòng Vắc xin chịu nhiệt có thể duy trì hiệu quả sử dụng ở nhiệt độ thường (15-30 độ C), mang lại lợi ích lớn trong việc bảo vệ sức khỏe vật nuôi.
28 o C) trong 30 ngày (Trần Đình Từ, 2005)
Vắc xin vô hoạt, hay còn gọi là vắc xin chết, là loại vắc xin được chế tạo bằng cách bất hoạt virus thông qua hóa chất, bức xạ hoặc nhiệt độ Sau khi virus được bất hoạt, chúng có thể được kết hợp với các chất bổ trợ để tăng cường hiệu quả Các chủng virus sử dụng trong vắc xin vô hoạt có thể là những chủng có độc lực yếu hoặc những chủng độc lực cao, tuy nhiên cần phải đảm bảo rằng virus độc lực cao được sử dụng không còn khả năng gây bệnh.
“thoát” ra khỏi cơ sở sản xuất, cũng như nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ ở mọi khâu sản xuất
Vắc xin tái tổ hợp phòng bệnh Newcastle, được nghiên cứu từ đầu thập kỷ 90, sử dụng baculovirus hoặc fowlpox virus mang gene HN (hemagglutinin-neuraminidase) của virus, cho phép bảo vệ gà khỏi virus cường độc mà không bị ảnh hưởng bởi kháng thể thụ động (Nagy & cs., 1991) Mặc dù vắc xin DNA chứa gene F hoặc HN chưa đạt được miễn dịch bảo hộ hoàn hảo, nhưng chúng là một giải pháp tiềm năng để khắc phục rào cản miễn dịch thụ động (Loke & cs., 2005) Vắc xin DNA có thể nâng cao đáp ứng miễn dịch của gà khi kết hợp với vắc xin vô hoạt Hiện nay, các vắc xin thế hệ mới đang được hoàn thiện về cấu trúc, mức biểu hiện protein kháng nguyên, và các yếu tố điều khiển miễn dịch nhằm đảm bảo hiệu quả bảo vệ thực tế khi thử thách với virus cường độc.
Vắc xin đã được sử dụng để phòng bệnh trong hơn 50 năm, và sự phát triển của công nghệ tái tổ hợp gen đã tạo ra bước tiến quan trọng trong nghiên cứu vắc xin cho ngành thú y.
Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hồng (1993) cho thấy gà uống vắc xin LaSota có khả năng tạo miễn dịch qua tiếp xúc, với liều 10 -3 EID50 từ 3–4 ml/con lúc 1 tuần tuổi, đến 2,5 tháng tuổi có 63% gà được bảo hộ, trong khi nếu uống lúc 2 tuần tuổi thì 100% gà được bảo hộ Nguyễn Tiến Dũng (1993) đã phát hiện biến chủng LaSota có tính chịu nhiệt cao, gây miễn dịch tốt và có thể bảo quản ở nhiệt độ 37°C Vắc xin LaSota chịu nhiệt V4 vượt trội hơn LaSota về thời gian bảo quản, có thể giữ được trong 1 tháng ở nhiệt độ thường Theo Trần Đình Từ (1996), vắc xin HR-NDV (chủng V4) có hiệu lực miễn dịch ít nhất tương đương với vắc xin LaSota ở gà nuôi chăn thả.
Theo lịch sử sử dụng vắc xin Phan Văn Lục (1994), cần tiêm 2 lần vắc xin LaSota vào ngày 7 và 21-28, cùng với 2 lần tiêm Newcastle Hệ I vào 50-58 ngày và 133-140 ngày Việc kiểm tra hiệu giá HI của đàn gà là cần thiết; nếu nhỏ hơn 2log2, gà không được bảo hộ và cần tiêm vắc xin lặp lại Nếu hiệu giá HI nằm trong khoảng 2-3log2, cần kiểm tra lại sau 1 tháng Nếu hiệu giá HI không thay đổi hoặc giảm, vắc xin cũng cần tiêm lại Đàn gà được xem là bảo hộ khi hiệu giá HI đạt từ 3log2 trở lên và tỷ lệ chuyển dương đạt 90% Theo tác giả Trương Quang (2005), những đàn gà nuôi trên ba tháng tuổi nên được cho uống vắc xin LaSota 3 lần.
7, 21 và 35 ngày tuổi sẽ an toàn bệnh Newcastle
Bất chấp những cố gắng của toàn dân và cộng đồng, đa dạng vắc xin, dịch
Virus Newcastle vẫn tồn tại và xuất hiện lẻ tẻ, với kháng thể thụ động được cho là nguyên nhân làm giảm hiệu quả của vắc xin, đặc biệt ở gà nuôi thả vườn (Trần Ngọc Bích & cs., 2016) Sự biến đổi và đa dạng kháng nguyên cũng có thể là nguyên nhân khác Theo báo cáo gần đây của Viện Thú Y, virus Newcastle tại Việt Nam chủ yếu thuộc genotype VII, bên cạnh 3 genotype khác là II, III và VIII Mặc dù vậy, các genotype này vẫn có phản ứng miễn dịch chéo với huyết thanh từ virus chủng LaSota ở các mức độ khác nhau (4-7log2HI), và có thể tồn tại một tỷ lệ nhỏ của hiện tượng trốn thoát miễn dịch (Bùi Ngọc Anh, 2013).
G iới thiệu chung về bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm
Lịch sử bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm trên thế giới
Bệnh được phát hiện lần đầu tiên ở bang Dakota, Mỹ vào năm 1930 và sau Thế chiến II, bệnh đã lan rộng ra châu Âu, với trường hợp đầu tiên tại Anh vào năm 1948 được xác định là chủng Massachusetts Từ đó, bệnh đã truyền sang châu Á và châu Phi Jungherr và cộng sự đã phân lập được chủng Massachusetts vào năm 1941 và chủng Connecticut vào năm 1951; cả hai chủng này gây ra các triệu chứng tương tự nhưng không có sự bảo vệ hay trung hòa chéo Nghiên cứu của Winterfield & Hitchner (1962) chỉ ra rằng một số chủng virus IB có thể gây ra hội chứng viêm thận, dẫn đến việc phân lập chủng Nephropathogenic dòng Gray và Holte.
Virus IB lần đầu tiên được phân lập tại Malaysia vào năm 1967 Gần đây, nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã được thực hiện ở các quốc gia khác nhau, cho thấy ngoài serotype Mass, còn có serotype 4/91 được phát hiện ở Trung Quốc và Đài Loan (Yu & cs., 2001) Serotype 4/91 cũng đã được phân lập gần đây tại Nhật Bản (Shimazaki & cs., 2008).
Tỷ lệ gà mắc bệnh IB tại Iran và Jordan lần lượt là 84% và 58,8% (Seyfi & cs., 2004; Roussan & cs., 2009), trong khi tại Brazil, Argentina, và Honduras, các chủng phổ biến như Massachusetts và Connecticut không bảo vệ được cho chủng lưu hành (Wit & cs., 2011) Điều này gây lo ngại cho ngành chăn nuôi gia cầm, bởi tất cả gà trong đàn đều có thể nhiễm bệnh, nhưng tỷ lệ chết khác nhau tùy thuộc vào độc lực của serotype, lứa tuổi, tình trạng miễn dịch và các yếu tố stress Khi có bệnh kế phát, tỷ lệ chết có thể lên tới 20-30% hoặc cao hơn ở những đàn gà dưới 6 tuần tuổi Đặc biệt, những đàn gà đẻ bị nhiễm IBV có thể giảm sản lượng trứng từ 10-50% và chất lượng trứng cũng bị ảnh hưởng Chủng IBV có ái lực mạnh trên thận (chủng Nephropathogenic) gây bệnh trên gà thịt, với tỷ lệ chết có thể đạt tới 25%.
Lịch sử bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm tại Việt Nam
Năm 1999, Bùi Trần Anh Đào tiến hành khảo sát sự lây nhiễm virus gây bệnh IB trên đàn gà thịt ở thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất chương trình tiêm vắc xin phòng ngừa bệnh này.
Năm 1996, Trần Thanh Vân đã nghiên cứu bệnh IB trên đàn gà bố mẹ giống thịt Hubbard High – Yield tại trại Ando và Bắc Sơn, phát hiện hai biến chủng virus IB 4/91 (serotype 793B) và CR88 (serotype Mass) Nghiên cứu cho thấy bệnh này gây ảnh hưởng đến sự giảm đẻ của hai biến chủng virus trên.
Nghiên cứu của Võ Thị Trà An và cộng sự (2012) về việc phân lập và định serotype virus Viêm phế quản truyền nhiễm từ gà thịt tại Việt Nam đã xác định được hai serotype chính, bao gồm serotype 793B (dòng 4/91) và serotype Mass (dòng H120).
Virus gây bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm
IBV là một ARN virus, virion có kích thước từ 70 - 120nm, vỏ lipit nên dễ bị tiêu diệt bởi các chất làm tan mỡ (Nguyễn Bá Hiên, 2013)
Virus IB có cấu trúc bao gồm các protein đặc hiệu như protein gai S (Spike), protein vỏ E (Envelope), protein màng M (Membrain) và protein nhân N (Nucleocapsid), mỗi protein đảm nhiệm vai trò khác nhau trong sự gắn kết, sao chép và gây bệnh Trong đó, protein M là protein màng đa dạng nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc lắp ráp coronavirus qua tương tác với ribonucleocapsid và glycoprotein Protein N liên kết với ARN gen để tạo thành phức hợp ribonucleprotein xoắn ốc (RNP), hỗ trợ sao chép và nhân bản bộ gen virus Phần S1 của glycoprotein có vai trò quyết định trong sự gắn kết và xâm nhập của virus vào tế bào thông qua các thụ thể, đồng thời ảnh hưởng đến sự đa dạng của virus và khả năng bảo vệ miễn dịch.
Virus IB có thể nuôi cấy trên phôi gà, trên môi trường tế bào và trên môi trường nuôi cấy tổ chức khí quản
Virus IB phát triển mạnh mẽ trên phôi gà 9-10 ngày tuổi khi nhiễm vào xoang niệu nang, với mật độ virus cao nhất trong nước trứng sau 1-2 ngày Ở các lần nhiễm đầu tiên, virus thường không gây chết phôi hoặc chỉ gây chết rất ít, với các biểu hiện bệnh không điển hình Tuy nhiên, tỷ lệ chết phôi tăng dần theo số lần tiếp đời, và đến lần thứ 10, virus có thể gây chết 100% phôi Nếu tiếp tục nuôi cấy trong môi trường này, virus sẽ có những biến đổi kháng nguyên sâu sắc, có tiềm năng được sử dụng để chế tạo vắc xin.
Virus IB gây ra các triệu chứng như phôi chậm phát triển, còi cọc và cuộn tròn, với hai chân ép lên đầu Ngoài ra, virus này còn dẫn đến suy nhược cơ bắp, lắng đọng urat trong thận, và làm giảm lượng nước trứng, khiến thai và màng thai dính sát vào nhau.
Vào năm 1973, Gillette đã thành công trong việc cấy chuyển virus IB vào môi trường tế bào CEK Để virus tạo ra bệnh lý tế bào điển hình (CPE), cần phải cấy chuyển nhiều lần trên môi trường CEK, mặc dù các plaque có thể được phát hiện ngay từ lần cấy chuyển đầu tiên thông qua phương pháp nhuộm màu Hiệu giá virus trên môi trường tế bào CEK khác nhau giữa các chủng, và kích cỡ cũng như hình thái của các plaque thay đổi tùy thuộc vào chủng và nhiệt độ nuôi cấy; cụ thể, nuôi cấy ở 40°C thường cho kích thước plaque lớn hơn so với ở 37°C.
Khi nuôi cấy virus IBV trên môi trường tế bào CEK và CK, hiệu giá virus đạt tối đa trong khoảng thời gian 14 – 36 giờ, với đỉnh điểm ở 36 giờ sau khi nhiễm Các chủng virus IB đã được cấy chuyển trên phôi gà và nhiều lần trên môi trường tế bào CK có khả năng nhân lên trong môi trường tế bào xơ phôi gà, nhưng hiệu giá thấp hơn vài log10 so với tế bào CK Sự có mặt của trypsin trong môi trường nuôi cấy tế bào giúp hình thành các plaque rõ ràng hơn Virus phát triển nhanh chóng trong môi trường tế bào CK và tách khỏi bề mặt nuôi cấy dưới dạng các quả cầu phát huỳnh quang Một số chủng virus IB, chẳng hạn như chủng Beaudette, có khả năng phát triển trên tế bào thận khỉ đơn dòng Vero và được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu cơ bản về virus IB.
Vào năm 1979, Darbyshire đã báo cáo về việc gây nhiễm virus Viêm phế quản truyền nhiễm vào tổ chức khí quản và một số mô khác của gà Nghiên cứu sử dụng tổ chức khí quản của phôi gà 20 ngày tuổi, được nuôi cấy trong các chai lăn và sau đó nhiễm virus IB Những biến đổi trong môi trường tổ chức có thể quan sát rõ ràng dưới kính hiển vi sau 3-4 ngày Việc nuôi cấy virus trong tổ chức khí quản không chỉ giúp phân lập virus mà còn xác định hiệu giá và loại virus một cách chính xác hơn.
Virus IB có sức đề kháng yếu, nên các dung dịch sát trùng thông thường như axit phenic 1% và formon 1% có thể tiêu diệt virus này nhanh chóng Tuy nhiên, những môi trường nhiễm virus có khả năng lưu giữ bệnh lâu dài.
Truyền nhiễm học của bệnh
Gà ở mọi lứa tuổi và giống đều dễ bị nhiễm virus IB, nhưng mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào độ tuổi của gà Gà con dưới 6 tuần tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao nhất, dẫn đến tỷ lệ chết cao hơn.
Gà lớn có sức đề kháng cao hơn, nên bệnh thường nhẹ và ít chết, nhưng thời gian mắc bệnh kéo dài, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế chăn nuôi Tình trạng bệnh còn phụ thuộc vào điều kiện chăn nuôi và sức khỏe của gà Bệnh lây lan nhanh trong môi trường nuôi nhốt có mật độ cao và vệ sinh kém Nếu gà mắc các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp khác như mycoplasmosis hay đậu, bệnh sẽ nặng hơn và tỷ lệ chết cao.
Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp, khi gà bệnh hắt hơi phóng virus ra không khí, gà khỏe mạnh hít phải sẽ bị nhiễm bệnh Virus có thể bám vào thức ăn, nước uống và dụng cụ chăm sóc, từ đó xâm nhập vào cơ thể gà qua đường tiêu hóa Ngoài ra, bệnh cũng có thể truyền qua trứng, với mầm bệnh vẫn có thể phân lập được ở trứng của gà đẻ sau khi khỏi bệnh khoảng 1,5 tháng.
Khi virus xâm nhập vào cơ thể, chúng ký sinh và sinh sản trong các tế bào biểu mô hô hấp, dẫn đến thoái hóa và chết tế bào Virus phá hoại thành huyết quản, gây tăng tiết dịch thẩm xuất và thâm nhiễm tế bào lympho vào các xoang hô hấp, làm gà khó thở Khi triệu chứng bệnh rõ ràng, có thể phát hiện virus trong nguyên sinh chất và nhân tế bào thượng bì niêm mạc mũi, phế quản, phế nang, túi hơi, cũng như trong một số phủ tạng như gan và lá lách Ở thể mạn tính, bệnh còn ảnh hưởng đến cơ quan sinh dục, gây biến đổi tổ chức của cơ quan này Trong thể thận, virus gây viêm thận cấp hoặc mạn tính.
Triệu chứng, bệnh tích bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm
Trong tự nhiên, thời gian nung bệnh từ 2 – 3 ngày, khi gây bệnh thí nghiệm thời gian nung bệnh ngắn hơn
Bệnh ở gà con thường rất nghiêm trọng, với dấu hiệu đầu tiên là hiện tượng cảm mạo xuất hiện đồng loạt trong đàn Gà bệnh có biểu hiện mệt mỏi, kém ăn, sổ mũi, chảy nước mắt và hay hắt hơi Chúng thường tách đàn, tụ tập thành nhóm và rúc đầu vào cánh trong trạng thái run rẩy Ở giai đoạn sau, bệnh viêm lan sâu vào đường hô hấp dưới, khiến dịch thẩm xuất tích tụ nhiều, làm gà khó thở hơn Bệnh có thể kéo dài đến 2 tuần, và gà có thể chết do ngạt thở (Cumming, 1969) Ở gà trên 6 tháng tuổi, triệu chứng cảm cúm thường không rõ ràng, chỉ có viêm nhẹ ở phần sau đường hô hấp, nên hiện tượng khó thở không điển hình Gà đẻ bị bệnh thường có sản lượng trứng giảm, một số con ngừng đẻ hoàn toàn, trứng thường bị biến dạng, giòn và dễ vỡ (Eck, 2013) Trong một số trường hợp nặng ở gà lớn, có thể xuất hiện hiện tượng phù đầu.
Mycoplasma và một số loại virus khác, bệnh sẽ diễn biến phức tạp và nặng hơn 2.2.5.2 Bệnh tích
Bệnh tích ở gà con chủ yếu tập trung ở hệ thống hô hấp, với các triệu chứng như sung huyết và phù nề niêm mạc mũi, khí quản, tạo thành lớp niêm dịch nhớt Ở gà trên 1 tháng tuổi và gà lớn, bệnh tích xuất hiện chủ yếu ở phần sau đường hô hấp, với niêm mạc phế quản và phế nang cũng bị sung huyết, chứa dịch thẩm xuất có fibrin, có thể gây tắc nghẽn khí quản và phế quản Đối với gà đẻ mắc bệnh, buồng trứng teo lại, ống dẫn trứng ngắn, không phát triển, dẫn đến tình trạng trứng non bị vỡ trong xoang bụng.
Phương pháp chẩn đoán bệnh
- Chẩn đoán phân biệt: Cần phân biệt với một số bệnh đường hô hấp ở gà như: bệnh IBD, bệnh mycoplasmosis, bệnh Newcastle thể mạn tính…
Chẩn đoán huyết thanh học, bao gồm các xét nghiệm như phản ứng trung hòa virus (VNT) và phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI), đã được sử dụng để phát hiện và phân loại các dòng virus IB, cũng như đánh giá mức độ miễn dịch của đàn gà sau tiêm chủng (Ignjatovic & cs., 2002; King & cs., 1991) Xét nghiệm ELISA cũng dễ dàng áp dụng để theo dõi đáp ứng kháng thể sau khi chủng ngừa hoặc tiếp xúc với mầm bệnh Tuy nhiên, do các serotyp khác nhau của virus IB không phản ứng chéo với các kháng huyết thanh thông thường, nên xét nghiệm huyết thanh học không đủ để phân lập các chủng và biến thể mới của virus IB.
Chẩn đoán virus học đối với virus IB yêu cầu phân lập virus, được coi là tiêu chuẩn vàng Việc lấy mẫu trong giai đoạn đầu của bệnh và áp dụng đúng kỹ thuật lấy mẫu là rất quan trọng để đảm bảo thành công trong phân lập IBV Khi lấy mẫu dịch tiết, cần sử dụng miếng gạc và đặt chúng vào dung dịch đệm PBS trước khi vận chuyển đến phòng thí nghiệm Đối với mẫu bệnh phẩm từ mô như khí quản, thận, hoặc ống dẫn trứng, các mẫu này phải được lấy vô trùng ngay sau khi gà chết, sau đó cho vào túi mẫu niêm phong kín và vận chuyển đến phòng thí nghiệm với điều kiện bảo quản lạnh.
Mẫu bệnh phẩm chứa virus được chế thành huyễn dịch và nuôi cấy trên phôi gà hoặc môi trường tổ chức khí quản Sau 48-72 giờ gây nhiễm trên phôi gà, dịch ối được thu thập, làm lạnh qua đêm và kiểm tra sự hiện diện của virus IB thông qua các phản ứng huyết thanh học hoặc xét nghiệm RT-PCR.
Có thể quan sát những bệnh tích điển hình của phôi như uốn cong và lùn, phôi dính chặt vào màng.
Vắc xin phòng bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm
Hiện nay trên thị trường có cả hai loại vắc xin nhược độc và vô hoạt dùng phòng bệnh Viêm phế quyển truyền nhiễm
Vắc xin nhược độc là loại vắc xin được sử dụng cho gà broiler ngay từ 1 ngày tuổi và lần đầu tiên để phòng ngừa bệnh IB cho đàn gà giống và gà đẻ Các chủng virus được sử dụng để chế tạo vắc xin này đã được cấy truyền nhiều lần qua phôi gà Vắc xin có thể được sử dụng bằng cách nhỏ vào mắt, mũi hoặc khí quản, và đối với số lượng gà lớn, có thể áp dụng phương pháp phun sương hoặc cho uống.
Vắc xin vô hoạt được sử dụng cho gà giống và gà đẻ trước chu kỳ đẻ trứng, nhằm đảm bảo chúng đã được miễn dịch cơ sở với vắc xin nhược độc Gà con có thể được chủng vắc xin này từ 10 đến 18 tuần tuổi, tùy thuộc vào chương trình sử dụng vắc xin Virus cường độc trong vắc xin được vô hoạt bằng formalin, beta propiolactone hoặc các hóa chất phù hợp khác, trong khi dầu khoáng thường được sử dụng làm chất bổ trợ cho vắc xin vô hoạt.
Tình hình nghiên cứu sản xuất vắc xin
Trên thế giới
Trên toàn cầu, sự phát triển của các sản phẩm vắc xin đa giá cho gia cầm đang đạt được những tiến bộ vượt bậc nhờ vào nền tảng công nghệ nghiên cứu và sản xuất hiện đại Nhiều tập đoàn lớn như Merial (Pháp), Intervet (Hà Lan), Ceva (Pháp), Zoetis (Mỹ), Bayer (Đức), Virbac (Pháp), Boehringer (Mỹ) và Medion (Indonesia) đã sản xuất và phân phối các loại vắc xin này tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Các sản phẩm vắc xin đa giá phòng bệnh cho gia cầm có thể được nghiên cứu và sản xuất dưới dạng đông khô với các chủng nhược độc hoặc dạng vô hoạt Những vắc xin này sử dụng chất bổ trợ nhằm định hướng đáp ứng miễn dịch, tăng cường độ ổn định và kéo dài thời gian bảo hộ cho gia cầm.
Vắc xin nhược độc ND-IB là một loại vắc xin phổ biến, giúp phòng ngừa hai bệnh Newcastle và viêm phế quản truyền nhiễm Vắc xin này được sản xuất từ hai chủng virus nhược độc, bao gồm Newcastle B1 và IBV H120 hoặc Massachusetts, với chất nền đông khô là sữa gầy hoặc đường.
Vắc xin vô hoạt là sản phẩm quan trọng trong việc phòng bệnh cho gia cầm nuôi dài ngày và gia cầm sinh sản, với nhiều dạng bào chế và công nghệ sản xuất khác nhau Các công ty toàn cầu đã phát triển nhiều loại vắc xin đa giá, điển hình như CEVAC® ND IB EDS K của công ty Veva (Pháp) giúp phòng bệnh ND, IB và Hội chứng giảm đẻ, cùng với CEVAC® ND IB IBD K phòng bệnh ND, IB và Gumboro Ngoài ra, vắc xin Nobilis IB + G + ND (Intervet), Pro-Vac 3 (Zoetis) và Medivac ND-IB-IBD Emulsion (Medion) cũng là những sản phẩm tiêu biểu trong danh mục vắc xin vô hoạt phòng bệnh cho gia cầm.
Newcastle, IB và Gumoro.Vắc xin vô hoạt phòn 4 bệnh ND, IB, Gumboro, bệnh do Reovirus gây ra như: Pro-Vac 4 (Zoetis), Nobilis Reo + IB + G + ND(Intervet),
Vắc xin đa giá nhập ngoại đã được nhập khẩu và phân phối tại Việt Nam từ sớm nhờ vào tính đa dạng, tiện lợi, an toàn và hiệu quả Loại vắc xin này được đánh giá cao cho quy mô chăn nuôi tập trung, giúp giảm chi phí vắc xin và nhân công cho việc triển khai chủng ngừa tại các cơ sở sản xuất và cung ứng con giống.
Tại Việt Nam
Việc đầu tư vào nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin đa giá, đặc biệt là cho gia cầm, đang gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nền tảng công nghệ Chi phí cho việc nghiên cứu và xây dựng dây chuyền công nghệ đạt tiêu chuẩn sản xuất vắc xin công nghệ cao rất lớn, trong khi cần phải cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu đã có mặt trên thị trường từ sớm và được người tiêu dùng chấp nhận.
Tại Việt Nam, vắc xin đa giá cho gia cầm đã trở nên phổ biến, nhưng hầu hết đều là sản phẩm nhập khẩu, chủ yếu từ các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia và Malaysia.
Vắc xin đa giá cho gia cầm đang thu hút sự quan tâm lớn từ các cơ sở khoa học và doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu phát triển Tuy nhiên, hiện tại, các nghiên cứu này chủ yếu chỉ ở quy mô nhỏ và chưa được áp dụng rộng rãi trong sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu Công trình nghiên cứu của Nguyễn Hồng Minh (2012) về vắc xin nhược độc đa giá kết hợp phòng ngừa ba bệnh Newcastle, Gumboro và Viêm phế quản truyền nhiễm được đánh giá có ý nghĩa thực tiễn và khả thi cao cho việc triển khai trong sản xuất và thương mại hóa.
N hững yêu cầu cơ bản để sản xuất vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB
Yêu cầu Chủng giống sản xuất
Chất lượng vắc xin phụ thuộc vào sự phù hợp của chủng, với nguồn chủng được chọn dựa trên sự tương đồng kháng nguyên với các chủng thực địa Nghiên cứu này thiết lập quy trình công nghệ sản xuất vắc xin nhị giá sử dụng hai loại virus ND chủng LaSota và virus IB chủng H120.
- Virus Newcastle được biết đến là virus thuộc Avian paramyxovirus 1, trong đó, virus có thể được phân loại dựa trên độc lực của virus gây ra cho gà
Dựa vào trình tự gen của virus Newcastle, có 9 genotype được xác định thông qua phân tích cây phả hệ Các chủng nhược độc như Ulster, LaSota, B1 thuộc genotype I và II Mặc dù có sự khác biệt về genotype, tất cả các chủng virus Newcastle hiện tại đều thuộc 1 serotype duy nhất, cho phép kháng thể đặc hiệu trung hòa virus Newcastle khác Kháng thể này được sinh ra từ sự kích thích của 2 loại protein cấu trúc chính HN và F trên vỏ virus, do đó, cả các chủng virus độc lực cao và thấp đều kích thích cơ thể sản sinh kháng thể trung hòa.
Nghiên cứu về vắc xin nhược độc Newcastle (chủng LaSota) cho thấy vắc xin này kích thích cơ thể sản sinh đồng thời miễn dịch cục bộ (IgA) tại tế bào và miễn dịch dịch thể (IgA/IgM/IgG) trong huyết thanh Ngược lại, vắc xin vô hoạt sử dụng chủng nhược độc tự nhiên chỉ kích thích tạo miễn dịch dịch thể trong huyết thanh (IgM/IgG) (Al-Garib & cs., 2003).
Theo khuyến cáo của OIE, để chế tạo vắc xin nhược độc cho gia cầm, nên sử dụng các chủng nhược độc như LaSota, Ulster, Hitcher B1 hoặc các chủng độc lực vừa như Mustekwar Đối với sản xuất vắc xin vô hoạt, việc lựa chọn chủng có khả năng tạo ra lượng kháng nguyên lớn trên phôi trứng là điều quan trọng nhất Cả chủng độc lực cao và chủng độc lực thấp đều có thể được sử dụng làm vắc xin vô hoạt, nhưng không nhất thiết phải chọn các chủng độc lực cao khi nguy cơ trong sản xuất cao hơn so với chủng độc lực thấp.
Theo Quyết định 93/152/EEC của Hội đồng chung Châu Âu, tất cả các chủng virus Newcastle được sử dụng làm vắc xin tại các nước thành viên phải có chỉ số độc lực ICPI dưới 0.7 Các chủng virus phổ biến được sử dụng làm vắc xin bao gồm Hitchner B1, LaSota, F và Ulster.
Chủng LaSota được sử dụng để sản xuất vắc xin vô hoạt, đảm bảo kích thích cơ thể sản sinh kháng thể trung hòa tất cả các chủng virus Newcastle cường độc Virus Newcastle chủng LaSota có khả năng nhân lên dễ dàng trên trứng gà có phôi, cho hiệu giá virus cao (11-12Log2 HA, > 10 9 EID50), giúp giảm giá thành sản phẩm và mở rộng khả năng tiếp cận cho người dân Tuy nhiên, cần xác định hàm lượng kháng nguyên trong mỗi liều vắc xin để đảm bảo tạo kháng thể bảo hộ và thời gian bảo vệ gia cầm khỏi virus Newcastle.
Virus IB có hơn 100 chủng thuộc các serotype khác nhau đang lưu hành, gây khó khăn trong việc phòng bệnh bằng vắc xin Chủng Massachusetts của virus IB được sử dụng phổ biến và có hiệu quả tốt Trong nghiên cứu này, virus IB - H120 được chọn làm chủng giống vắc xin do khả năng nhân lên dễ dàng trong trứng gà có phôi, cho phép thu được lượng lớn kháng nguyên và đạt hiệu giá virus cao.
Yêu cầu kháng nguyên
Vắc xin nhị giá có tính cạnh tranh miễn dịch giữa các kháng nguyên, nhưng việc sử dụng từng loại kháng nguyên với liều lượng và tỉ lệ phù hợp sẽ nâng cao hiệu quả đáp ứng miễn dịch Cần xác định nghiệm thức cụ thể khi kết hợp hai kháng nguyên ND và IB trong cùng một vắc xin Đầu tiên, hiệu quả của từng kháng nguyên riêng lẻ phải được đánh giá, sau đó tiến hành phối trộn và kiểm tra các tổ hợp khác nhau để xác định tính phù hợp của chúng Cuối cùng, hai kháng nguyên sẽ được phối trộn để tìm ra công thức tối ưu cho vắc xin nhị giá.
Yêu cầu chất bất hoạt
Việc lựa chọn chất bất hoạt phù hợp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng vắc xin Hiện nay, nhiều loại chất bất hoạt được sử dụng để bất hoạt virus, bao gồm Formalin (Sherif, 2005), BEI và beta-probiobacton (Razmarai & cs., 2012).
Yêu cầu chất bổ trợ
Chất bổ trợ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng đáp ứng miễn dịch của vắc xin cho gia cầm Chúng không chỉ đảm bảo an toàn và kéo dài thời gian miễn dịch mà còn thuận tiện cho quy trình sản xuất và sử dụng Hiện nay, vắc xin vô hoạt sử dụng hai loại chất bổ trợ chính là keo phèn và nhũ dầu (dầu khoáng).
2.4.4.1 Chất bổ trợ keo phèn
Keo phèn, một dạng gel kết tủa hydroxit của nhôm, là hợp chất lưỡng tính, không độc hại và không gây kích ứng cho cơ thể Khi sử dụng trong vắc xin, keo phèn có khả năng hấp phụ và tập trung các yếu tố kháng nguyên lên bề mặt, giúp giải phóng từ từ các yếu tố này để kích thích các cơ quan miễn dịch Nhờ vào đặc tính khó hấp thu và tồn tại lâu dài tại vị trí tiêm, keo phèn giúp kéo dài thời gian sản sinh đáp ứng miễn dịch đối với các yếu tố kháng nguyên, vượt trội hơn so với vắc xin không có chất bổ trợ (Lindblad, 2004).
Trong thú y, chất bổ trợ AlK(SO4)2.12H2O (gọi là keo phèn) được sử dụng trong sản xuất vắc xin vi khuẩn vô hoạt
2.4.4.2 Chất bổ trợ nhũ dầu
Trong sản xuất vắc xin, nhũ dầu có thể là dầu khoáng, dầu thực vật hoặc các hợp chất hữu cơ tổng hợp, kết hợp với chất hoạt động bề mặt đặc biệt để tạo ra các hạt vi thể nhũ dầu Tùy thuộc vào loại nhũ dầu, cơ chế tác dụng của vắc xin sẽ khác nhau.
Vắc xin dạng W/O (water in oil) là loại vắc xin nhũ dầu phổ biến và hiệu quả nhất hiện nay Trong vắc xin W/O, các yếu tố kháng nguyên được bảo vệ bởi các hạt vi nhũ Khi tiêm vào cơ thể, dưới tác động của dịch mô bào, các hạt vi nhũ sẽ từ từ tách ra, giải phóng yếu tố kháng nguyên để kích thích hệ thống miễn dịch, từ đó tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh mẽ.
Dạng O/W (dầu trong nước) là một loại nhũ dầu trong đó các phần tử huyễn dịch chứa yếu tố kháng nguyên liên kết, tập trung xung quanh phân tử dầu Trong cấu trúc này, phân tử dầu nằm ở vị trí trung tâm, với các yếu tố kháng nguyên bao quanh nó.
Dạng W/O/W (Water-in-Oil-in-Water) là một loại nhũ kép, trong đó các phân tử dầu tạo ra liên kết kép nhằm bao bọc các yếu tố kháng nguyên Đồng thời, cấu trúc này cũng giữ cho kháng nguyên được bao quanh bởi hạt vi nhũ, tạo nên sự ổn định và hiệu quả trong việc bảo vệ và vận chuyển các thành phần quan trọng.
Vắc xin vô hoạt nhũ dầu có ưu điểm là thời gian sinh đáp ứng miễn dịch kéo dài hơn so với vắc xin keo phèn nhờ vào tốc độ phóng thích kháng nguyên chậm Tuy nhiên, quy trình phối chế vắc xin này khá phức tạp, đòi hỏi trang thiết bị chuyên dụng và chi phí sản xuất cao, dẫn đến giá thành của vắc xin cũng tăng lên.
Nghiên cứu này tập trung vào việc sản xuất vắc xin vô hoạt với thành phần kháng nguyên từ hai loại virus, trong đó dầu khoáng Montanide được sử dụng làm chất bổ trợ để phối trộn vắc xin.
PHẦN 3 VẬT LIỆUVÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU