CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
1.1.1 Đặc điểm sinh lý và giải phẫu về hệ thống dẫn truyền của tim: [19]
Khi cơ thể nghỉ ngơi, nhịp tim sẽ chậm lại, nhưng khi hoạt động, đặc biệt là trong các hoạt động gắng sức, nhịp tim tăng lên để cung cấp ôxy và chất dinh dưỡng cho cơ thể Sự co bóp nhịp nhàng và hiệu quả của tim được điều khiển bởi một hệ thống tự động đặc biệt, gọi là hệ thống dẫn truyền tự động của tim, bao gồm các phần chính như trong hình minh họa.
1 Sinoatrial node (S.A node): nút xoang
2 Atrioventricular node (A.V.node): nút nhĩ thất
4 Right bundle branches: bó nhánh phải
5 Left bundle branches: bó nhánh trái
Hình 1.1 Hệ thống dẫn truyền trong tim
1 Nút xoang, nằm ở nhĩ phái có vai trò làm chủ nhịp (phát xung động)
2 Nút nhĩ thất, nằm sát vách ngăn giữa buồng nhĩ và thất, có vai trò dẫn truyền xung động thần kinh được nút xoang tạo ra (bản chất là xung động điện học) từ nhĩ xuống thất
3 Bó His chung, dẫn truyền xung động từ nút nhĩ thất xuống buồng thất và chia thành hai bó nhánh cho hai buồng thất
4 Bó nhánh bên phải và bó nhánh bên trái, dẫn truyền xung động vào hai buồng thất
5 Mạng Purkinje là những nhánh nhỏ xuất phát từ bó nhánh phải và trái lan tỏa tới các vùng cơ tim của thất
Hệ thống dẫn truyền tim điều khiển hoạt động của quả tim thông qua các xung động điện học Quá trình bắt đầu từ nút xoang, nơi phát xung và khởi động quá trình khử cực Xung động được truyền đến hai buồng tâm nhĩ, kích thích co bóp để đẩy máu xuống thất Tiếp theo, xung động đi qua nút nhĩ thất, nơi tốc độ dẫn truyền chậm lại, rồi theo bó His xuống hai buồng thất Cuối cùng, xung động được lan truyền qua mạng Purkinje, kích thích cơ tâm thất co bóp, bơm máu vào hệ thống động mạch chủ và động mạch phổi để trao đổi oxy và thải khí cacbonic.
Rối loạn nhịp tim là tình trạng bất thường trong hoạt động điện học của tim, bao gồm các vấn đề liên quan đến việc tạo nhịp và dẫn truyền điện trong các buồng tim.
Loạn nhịp tim là một trong những rối loạn phổ biến nhất liên quan đến bệnh tim mạch Tình trạng này có thể gây ra cảm giác khó chịu nhẹ cho người bệnh, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của một bệnh lý nghiêm trọng hơn.
Loạn nhịp tim là tình trạng nhịp tim chậm, nhanh hoặc không đều, khi các buồng tim không co bóp đồng bộ hoặc có sự phát xung bất thường gây ra nhịp ngoại tâm thu Rối loạn nhịp tim có thể ảnh hưởng đến chức năng bơm máu của tim, dẫn đến triệu chứng như mệt mỏi hoặc ngất xỉu khi nhịp tim quá chậm hoặc quá nhanh Trong những trường hợp nghiêm trọng, loạn nhịp tim có thể gây ra rung thất hoặc ngừng tim kéo dài, đe dọa tính mạng.
Loạn nhịp tim có thể gặp như:
- Hội chứng Wolf-Parkinson-White (WPW)
- Hội chứng nút xoang bệnh lý
- Các rối loạn nhịp chậm
Loạn nhịp tim có thể điều trị nội khoa hoặc tiến hành can thiệp bằng sóng có tần số radio [7]
1.1.3 Thăm dò điện sinh lý tim và điều trị triệt đốt rối loạn nhịp
1.1.3.1 Thăm dò điện sinh lý:
Thăm dò điện sinh lý tim (EPS) là phương pháp xâm lấn đặc biệt dùng để chẩn đoán các rối loạn nhịp tim mà các phương pháp khác không thể xác định chính xác Đây được coi là tiêu chuẩn vàng cho việc đánh giá hiệu quả điều trị nội khoa và ngoại khoa EPS cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các kỹ thuật can thiệp điều trị rối loạn nhịp tim như điều trị bằng Radio frequency (RF) và cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn Kỹ thuật này ghi lại và lập bản đồ hoạt động điện học của tim, đặc biệt hữu ích trong chẩn đoán rối loạn nhịp nhanh.
Thăm dò điện sinh lý tim bao gồm:
+ Đo các khoảng dẫn truyền trong tim
+ Phân tích trình tự hoạt hóa điện học của tim (lập bản đồ điện học hay Mapping)
+ Kích thích gây cơn và chấm dứt các cơn tim nhanh
+ Đánh giá hiệu quả của thuốc chống loạn nhịp
+ Đánh giá hiệu quả của các can thiệp điều trị: triệt bỏ bằng năng lượng sóng radio hay tạo nhịp tim
* Chỉ định: Thăm dò điện sinh lý tim được chỉ định chủ yếu cho 3 nhóm bệnh: [12]
Rối loạn nhịp chậm, bao gồm hội chứng suy nút xoang và rối loạn dẫn truyền qua nút nhĩ thất hoặc dưới nút nhĩ thất, thường không được chỉ định điều trị quy định Việc chỉ định tạo nhịp tim chủ yếu dựa vào mối liên hệ giữa nhịp chậm và triệu chứng, cũng như tình trạng rối loạn nhịp chậm nặng hoặc vô tâm thu kéo dài Thăm dò điện sinh lý tim chỉ được thực hiện khi các phương pháp không xâm lấn như khám lâm sàng, điện tâm đồ thường quy, ghi điện tâm đồ liên tục (Holter) và máy ghi biến cố không đủ để chẩn đoán Phương pháp này giúp phát hiện các rối loạn dẫn truyền nghiêm trọng mà các phương pháp khác có thể bỏ sót, chẳng hạn như tình trạng rối loạn dẫn truyền nặng dưới nút nhĩ thất với khoảng HV kéo dài.
Rối loạn nhịp nhanh là một nhóm bệnh lý mà thăm dò điện sinh lý tim đóng vai trò quan trọng, đặc biệt đối với các rối loạn nhịp do cơ chế vào lại Phương pháp này giúp xác định cơ chế giải phẫu sinh lý của rối loạn nhịp, lập bản đồ điện học để theo dõi trình tự hoạt hoá, đánh giá biến đổi huyết động trong cơn tim nhanh và định hướng điều trị hiệu quả, bao gồm thủ thuật cường phế vị, sử dụng thuốc chống loạn nhịp, triệt đốt bằng năng lượng tần số radio, hoặc cấy máy phá rung tim (ICD).
Người bệnh ngất không rõ nguyên nhân có thể được chẩn đoán chính xác thông qua thăm dò điện sinh lý tim, giúp phát hiện các rối loạn nhịp chậm gây ra tình trạng ngất Do đó, những trường hợp ngất sau khi đã loại trừ các nguyên nhân không liên quan đến rối loạn nhịp tim cần được chỉ định thực hiện thủ thuật này.
+ Người bênh đang trong tình trạng nhiễm khuẩn cấp
+ Người bênh đang trong tình trạng rối loạn đông máu
Một số chống chỉ định đặc thù trong các kỹ thuật đốt điện bao gồm huyết khối trong nhĩ trái và thất trái, điều này làm cho việc thực hiện đốt điện trong các buồng tim bên trái trở nên không an toàn Ngoài ra, việc sử dụng van nhân tạo cũng là một chống chỉ định quan trọng, nhất là khi cần đưa ống thông qua van Đặc biệt, phụ nữ có thai cần phải tránh các kỹ thuật này do nguy cơ nhiễm tia X có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ và con.
1.1.3.2 Điều trị rối loạn nhịp tim bằng tần số Radio (RF): [12]
Sau khi thực hiện thăm dò điện sinh lý tim để chẩn đoán các loại rối loạn nhịp tim và cơ chế gây ra chúng, chúng ta có thể áp dụng phương pháp điều trị rối loạn nhịp tim bằng sóng có tần số Radio (RF) Đây là một phương pháp điều trị can thiệp tim mạch hiện đại và hiệu quả, đặc biệt khi các phương pháp khác như dùng thuốc hoặc phẫu thuật không mang lại kết quả tối ưu.
Điều trị nhịp nhanh nhĩ và cuồng nhĩ điển hình bằng sóng tần số Radio frequency (RF) hiệu quả ở cả những bệnh nhân có và không có bệnh lý tim thực tổn Tỷ lệ thành công trong việc điều trị rối loạn nhịp này bằng sóng RF đạt khoảng 80-90%.
Điều trị rối loạn nhịp tim bằng sóng Radio frequency (RF) là phương pháp hiệu quả cho tất cả các trường hợp rối loạn nhịp thất đã không thành công với điều trị nội khoa Tỷ lệ thành công trong điều trị rối loạn nhịp thất bằng sóng RF đạt khoảng 80-90%.
Điều trị nhịp nhanh trên thất bằng sóng tần số Radio là phương pháp hiệu quả cho tất cả bệnh nhân mắc cơn nhịp nhanh trên thất, bất kể có hay không có bệnh tim thực tổn Tỷ lệ thành công của phương pháp này đạt khoảng 90-98%.
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới về biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu
Thăm dò điện sinh lý tim (EPS) và triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng tần số radio qua ống thông tim (Radiofrequency catheter ablation) đã trở thành một trong những thành tựu nổi bật của chuyên ngành rối loạn nhịp trong hơn 30 năm qua Kỹ thuật này, bắt đầu từ những năm 1980 với tính chất thử nghiệm, đã nhanh chóng phát triển thành phương pháp điều trị phổ biến tại các trung tâm tim mạch toàn cầu chỉ sau một thập kỷ và hiện nay là lựa chọn hàng đầu cho nhiều loại rối loạn nhịp tim, đặc biệt là rối loạn nhịp nhanh.
Từ năm 1987 đến 1991, số lượng bệnh nhân điều trị bằng triệt đốt sóng tần số radio đã tăng đáng kể từ 45 lên 2000 trường hợp mỗi năm Trong ba tháng đầu năm 1993, có 1640 trường hợp được ghi nhận Các kỹ thuật triệt đốt bao gồm cắt cơn loạn nhịp nhĩ nhanh (3,2%), triệt đốt ở chỗ nối nhĩ thất (20,5%), triệt đốt đường dẫn trong cơn tim nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất (18,5%), triệt đốt đường dẫn phụ (50,5%) và điều trị nhịp nhanh thất (7,3%).
Các kỹ thuật điện sinh lý can thiệp mới đã chứng minh hiệu quả ngày càng cao trong việc đạt được mục tiêu điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân Tuy nhiên, như với mọi thủ thuật can thiệp, có thể xảy ra một số biến chứng Những biến chứng chính bao gồm tử vong, ép tim cấp, block nhĩ – thất, huyết khối tĩnh mạch sâu, thuyên tắc mạch phổi, co thắt động mạch vành, nhồi máu cơ tim, tràn khí màng phổi và phơi nhiễm tia X Đặc biệt, các biến chứng liên quan đến vị trí vào ống thông như chảy máu, khối máu tụ và giả phình mạch cũng cần được lưu ý.
Nghiên cứu của Leonard N Horowitz và các cộng sự đã khảo sát biến chứng của thăm dò điện sinh lý tim trên 1000 bệnh nhân (728 nam, 272 nữ, độ tuổi từ 18 đến 64, trung bình 58 tuổi) tại một labo với quy trình không thay đổi nhằm đánh giá rủi ro Trong số 1000 bệnh nhân, đã có 2821 ống thông tĩnh mạch được luồn, trong đó 2685 ống (95%) được đặt ở tĩnh mạch đùi, 133 ống (5%) ở tĩnh mạch nền, 3 ống vào tĩnh mạch dưới đòn và 32 ống thông đã được đặt vào động mạch đùi.
Trong nghiên cứu, 2 bệnh nhân được đặt 5 ống thông, 124 bệnh nhân nhận 4 ống, 640 bệnh nhân nhận 3 ống, 193 bệnh nhân nhận 2 ống và 41 bệnh nhân nhận 1 ống Kết quả cho thấy có 1 trường hợp biến chứng tử vong Các biến chứng mạch máu chính bao gồm: tổn thương động mạch (0,4%), viêm tắc tĩnh mạch (0,6%), thuyên tắc động mạch hệ thống (0,1%) và tắc mạch phổi (0,3%).
Nghiên cứu của John P Dimarco và các cộng sự trên 359 bệnh nhân (251 nam và 108 nữ, tuổi trung bình 54) điều trị bằng kỹ thuật thăm dò điện sinh lý đã thực hiện 1062 thăm dò Kết quả cho thấy có 20 bệnh nhân (5,6%) gặp biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu, chủ yếu là các biến cố tắc mạch Cụ thể, 3 bệnh nhân có triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu cẳng chân, 5 bệnh nhân bị thuyên tắc mạch phổi, và 1 bệnh nhân gặp cả hai biến chứng Thời gian xuất hiện các biến cố tắc mạch thường muộn.
Sau 11 đến 22 ngày can thiệp, không có bệnh nhân nào gặp phải suy giảm huyết động nghiêm trọng, và tất cả đều hồi phục sau điều trị bằng liệu pháp chống đông toàn thân Tuy nhiên, có 6 bệnh nhân gặp biến chứng nhiễm khuẩn, trong đó 2 trường hợp có nguồn nhiễm khuẩn từ đường vào ở cánh tay.
Trong Khảo sát Sóng tần số radio (RF) đa trung tâm ở 68 viện nghiên cứu từ
Theo khảo sát đa trung tâm về tần số radio châu Âu (MERFS), 15 nước châu Âu đã ghi nhận 223 ca biến chứng liên quan đến thủ thuật, chiếm 5,1% Các biến chứng chủ yếu liên quan đến tắc mạch, bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu (0,71% ở bệnh nhân rối loạn nhịp nhanh nhĩ; 1,4% ở bệnh nhân sửa đường nối nhĩ thất), tắc mạch não (0,71% ở bệnh nhân điều trị rối loạn nhịp nhanh nhĩ), thuyên tắc phổi (0,22% ở bệnh nhân sửa đường nối nhĩ thất), nhiễm khuẩn huyết (0,22% ở bệnh nhân sửa đường nối nhĩ thất) và tắc động mạch (0,63% ở bệnh nhân rối loạn nhịp nhanh nhĩ).
1.2.2 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam về biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu Ở Việt Nam, thăm dò điện sinh lý tim và triệt đốt các rối loạn nhịp tim sử dụng năng lượng sóng có tần số radio qua đường ống thông tim thường được chỉ định cho những người bệnh rối loạn nhịp tim không đáp ứng với điều trị nội khoa
Kể từ năm 2009, Viện Tim mạch quốc gia đã áp dụng kỹ thuật điều trị rung nhĩ thông qua phương pháp đốt điện qua ống thông sử dụng năng lượng sóng radio, và đã đạt được những kết quả khả quan ban đầu.
Tại Viện Tim mạch Việt Nam, nghiên cứu đã được thực hiện trên 32 bệnh nhân bị rung nhĩ kịch phát có triệu chứng, không đáp ứng tốt với điều trị nội khoa, và có thời gian rung nhĩ kéo dài ≥ 2 năm Những bệnh nhân này đã được điều trị bằng phương pháp triệt đốt rung nhĩ thông qua năng lượng sóng radio qua ống thông, kết hợp với hệ thống lập bản đồ ba chiều các buồng tim.
(25 người bệnh nam và 7 người bệnh nữ) cho kết quả tỷ lệ thành công là 84,4% và biến chứng là tràn dịch màng ngoài tim là 1 người bệnh (chiếm 3%) [3]
Tại khoa Tim mạch – can thiệp, Bệnh viện Tim mạch An Giang, Trần Quốc Dũng cùng các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu cắt ngang nhằm đánh giá biến chứng tại chỗ sau khi rút ống thông động mạch ở bệnh nhân chụp-can thiệp mạch vành qua da Nghiên cứu được tiến hành từ ngày 17/07/2013 đến 17/10/2013.
Trong nghiên cứu, 83 bệnh nhân được đưa vào phân tích, trong đó có 55 nam (66,3%) và 28 nữ (33,7%), với độ tuổi trung bình là 63,4 ± 11,3 Trong số đó, chỉ có 5 bệnh nhân (6%) gặp biến chứng tại chỗ là khối máu tụ nhỏ (< 5cm), trong khi không có trường hợp nào xảy ra biến chứng chảy máu, giả phình động mạch hay rò động tĩnh mạch Các biến chứng này không có mối liên hệ với giới tính, vị trí động mạch và kích thước ống thông (p>0,05).
Từ tháng 09/2015 đến tháng 09/2016, Đơn vị Tim mạch can thiệp, Khoa Tim mạch, Bệnh viện Quân đội 19.8 Bộ Công An đã thực hiện nghiên cứu cắt ngang về điều trị rối loạn nhịp tim bằng phương pháp triệt đốt sóng tần số radio trên 40 bệnh nhân được chẩn đoán ngoại tâm thu thất và hội chứng W.P.W Trong số 40 bệnh nhân, 80% là nam giới và 20% là nữ giới, với độ tuổi trung bình là 37,05 ± 13,74 tuổi Đặc biệt, 80% bệnh nhân nằm trong độ tuổi dưới 40 Nghiên cứu ghi nhận một ca biến chứng chính là tụ máu tại vị trí đâm kim, chiếm 2,5%, trong khi không có biến chứng huyết khối hay tắc mạch nào khác.
Vào năm 2004, Trương Quang Bình đã thực hiện một nghiên cứu đối với 1100 bệnh nhân động mạch vành tại phòng thông tim-can thiệp của Đại học Chulalongkorn, Bangkok, Thái Lan, trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2002.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN 27 2.1 Giới thiệu chung về Bệnh viện Bạch Mai và Viện Tim mạch Việt Nam:27
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.2.1.1 Thiết kế nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt ngang
2.2.1.2 Đối tượng nghiên cứu: Người bệnh đã được chỉ định thăm dò điện sinh lý và điều trị triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio tại Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ 01/03/2021 đến 30/05/2021
2.2.1.3 Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ 01/03/2021 đến 30/05/2021, tại Viện Tim mạch Quốc gia - Bệnh viện Bạch Mai
Biểu đồ 2.1 Sơ đồ nghiên cứu
Người bệnh được chỉ định thực hiện kỹ thuật thăm dò điện sinh lý và điều trị rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số Radio trong khoảng thời gian từ 01/03/2021 đến 30/05/2021, và đã tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.
Người bệnh sẽ bị loại trừ khỏi nghiên cứu nếu có các rối loạn về đông máu hoặc cầm máu, có tiền sử dị dạng hoặc bất thường mạch máu tại vị trí chọc mạch, hoặc nếu họ từ chối tham gia vào nghiên cứu.
Bệnh nhân được chỉ định thực hiện kỹ thuật thăm dò điện sinh lý và điều trị rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng tần số radio Dữ liệu của bệnh nhân sẽ được thu thập và đưa vào nghiên cứu.
Tiến hành kĩ thuật cho người bệnh
Ghi lại đặc điểm vị trí đường vào mạch máu của người bệnh sau kĩ thuật
Phân tích rút ra kết luận Theo dõi người bệnh sau kỹ thuật
2.2.1.6 Biến số và chỉ số nghiên cứu:
Nhóm biến số Các biến số Phương pháp thu thập
BMI (chỉ số khối cơ thể) Đo chiều cao, cân nặng của người bệnh, tính theo công thức
Thu thập từ hồ sơ bệnh án Đái tháo đường Suy thận Đang sử dụng thuốc chống đông hoặc thuốc chống ngưng tập tiểu cầu
Vị trí đường vào mạch máu
Khám, thu thập từ biên bản can thiệp
Tĩnh mạch dưới đòn Động mạch đùi Đặc điểm ống thông tại đường vào mạch máu
Số lượng ống thông sử dụng
Khám và thu thập thông tin từ biên bản can thiệp là bước quan trọng trong quy trình y tế Kích cỡ sheath mở đường vào mạch máu thường là 6Fr, 7Fr, 8Fr hoặc lớn hơn 8Fr Thời gian thực hiện thủ thuật, bao gồm số giờ thực hiện, cần được ghi chép cẩn thận trong biên bản can thiệp Cuối cùng, cách thức đóng mạch máu cũng phải được ghi nhận để đảm bảo tính chính xác và an toàn cho bệnh nhân.
Cơ học bằng tay hoặc bằng dụng cụ đóng mạch
Thu thập từ biên bản can thiệp
Các biến chứng đường vào mạch máu
Khám nhận định người bệnh, thu thập từ bệnh án và kết quả các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
Khối máu tụ nhỏ (≤ 5cm) Khối máu tụ lớn (> 5cm) Giả phình mạch
Nhóm biến số Các biến số Phương pháp thu thập
Rò động tĩnh mạch Tắc mạch Lóc tách động mạch Đánh giá thao tác băng ép của điều dưỡng
3 mức độ: Tốt, chưa tốt, không thực hiện
- Quan sát người điều dưỡng băng ép
- Thu thập từ biên bản chăm sóc Đánh giá quá trình theo dõi sau băng ép của điều dưỡng và tuân thủ của người bệnh
- Theo dõi sau băng ép mỗi 30 phút/lần trong 2 giờ đầu
- Thay băng, vệ sinh vị trí chọc mạch
- Người điều dưỡng dặn dò người bệnh bất động sau băng ép
- Tuân thủ của người bệnh Theo 3 mức độ: Tốt, chưa tốt, không thực hiện
- Quan sát quá trình điều dưỡng theo dõi
- Thu thập từ biên bản chăm sóc
Để đánh giá mức độ nhận thức và tuân thủ của người bệnh, cần thực hiện phỏng vấn cả người bệnh và người nhà của họ Qua đó, có thể đánh giá hiệu quả của công tác tư vấn và chăm sóc sức khỏe mà điều dưỡng cung cấp.
- Động viên, chăm sóc về tinh thần
- Tư vấn, chăm sóc về dinh dưỡng
- Tư vấn giáo dục sức khỏe, phòng bệnh
- Tư vấn theo dõi, chăm sóc sức khỏe khi về nhà Theo 3 mức độ: Tốt, chưa
Phỏng vấn bệnh nhân và người thân của họ nhằm kiểm tra nội dung tư vấn và đánh giá mức độ nhận thức của bệnh nhân sau khi được tư vấn.
2.2.1.7 Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin
- Phỏng vấn người bệnh theo bộ câu hỏi trong mẫu nghiên cứu (xem phụ lục)
- Giải thích cho người bệnh hoặc người nhà người bệnh về mục đích của phỏng vấn, hiểu được ý nghĩa của câu hỏi, ý nghĩa của nghiên cứu
- Sử dụng số liệu trong hồ sơ bệnh án, biên bản can thiệp.
Kết quả nghiên cứu
2.2.2.1 Thông tin chung của đối tượng khảo sát:
Biểu đồ 2.1 Đặc điểm giới tính của đối tượng khảo sát (n6)
Biểu đồ 2.2 thể hiện đặc điểm giới tính của đối tượng khảo sát, trong đó trong tổng số 106 người bệnh tham gia, có 41 nam giới, chiếm 39%, và 65 nữ giới, chiếm 61% Tỷ lệ nữ giới cao hơn nam giới trong nhóm khảo sát này.
Bảng 2.1 Đặc điểm về tuổi của đối tượng khảo sát
Nhóm khảo sát có độ tuổi trung bình là 50,8, với độ tuổi thấp nhất là 13 và cao nhất là 88 Trong số đó, có 66 bệnh nhân dưới 60 tuổi, chiếm 62,3%, trong khi nhóm bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên có 40 người, chiếm 37,7%.
Biểu đồ 2.2 Đặc điểm Chỉ số khối cơ thể (BMI, kg/m 2 ) của đối tượng khảo sát
Chỉ số khối cơ thể (BMI) của nhóm nghiên cứu được trình bày trong Biểu đồ 2.3, cho thấy phần lớn người bệnh có BMI trong khoảng bình thường từ 18,5 đến 22,9 Cụ thể, có 8 người bệnh thừa cân (BMI ≥23), chiếm 8% tổng số, trong khi 24 người bệnh có tình trạng gầy (BMI 5cm) 3 2,8
Trong tổng số 106 bệnh nhân tham gia khảo sát, có 14 trường hợp xảy ra biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu, chiếm 13,2% Biến chứng phổ biến nhất là khối máu tụ nhỏ (kích thước ≤ 5cm) với 8 bệnh nhân, tương đương 7,5% Khối máu tụ lớn (kích thước > 5cm) ghi nhận 3 bệnh nhân, chiếm 2,8% Ngoài ra, có 2 bệnh nhân gặp biến chứng chảy máu (1,9%) và 1 bệnh nhân bị lóc tách động mạch (0,9%) Đặc biệt, khảo sát không ghi nhận trường hợp nào có biến chứng giả phình mạch, rò động-tĩnh mạch hay các biến cố tắc mạch như huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới, thuyên tắc mạch phổi, hay tắc mạch não.
Bảng 2.8 Thao tác băng ép của điều dưỡng Phân loại Số lượng (n6) Tỷ lệ phần trăm
Thực hiện tốt, đầy đủ 94 88,7%
Thực hiện nhưng chưa tốt / đầy đủ 12 11,3%
Trong nghiên cứu, tất cả bệnh nhân đều được băng ép tại vị trí chọc mạch sau thủ thuật, với một trường hợp được đóng mạch bằng dụng cụ nhưng vẫn cần băng ép bổ sung Tỷ lệ băng ép tốt đạt 88.7% với 94 bệnh nhân, trong khi 12 bệnh nhân còn lại, chiếm 11.3%, chưa thực hiện quá trình băng ép đầy đủ và hiệu quả.
Bảng 2.9 Quá trình theo dõi sau băng ép Mức độ
Lĩnh vực Thực hiện tốt/đầy đủ n (%)
Có thực hiện nhưng chưa tốt/ chưa đầy đủ, n (%)
Theo dõi sau băng ép mỗi 30 phút/lần trong 2 giờ đầu:
- Theo dõi dấu hiệu sinh tồn
- Theo dõi vị trí chọc mạch
Thay băng, vệ sinh vị trí chọc mạch 106 (100%) 0 0
Người điều dưỡng dặn dò người bệnh bất động sau băng ép:
-Hướng dẫn người bệnh và người nhà nhận biết các dấu hiệu bất thường nếu xảy ra
- Hướng dẫn cách ăn uống và đi vệ sinh khi bất động chân
Tuân thủ của người bệnh về yêu cầu bất động chi dưới sau băng ép 82 (77,4%) 24 (22,6%) 0
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 106 bệnh nhân đã được thực hiện vị trí chọc mạch, trong đó 90.6% (96 trường hợp) nhận được tư vấn đầy đủ và kỹ càng về quy trình từ nhân viên y tế, trong khi 10 trường hợp còn lại chỉ được hướng dẫn một cách không đầy đủ Điều này cho thấy sự quan trọng của việc cung cấp thông tin đầy đủ cho bệnh nhân và người nhà trong quá trình điều trị.
82 bệnh nhân tuân thủ tốt việc bất động chi dưới sau băng ép (chiếm 77,4%), 24 bệnh nhân còn lại có thực hiện bất động nhưng còn chưa tốt (chiếm 22,6%)
Bảng 2.10 Chăm sóc, tư vấn cho bệnh nhân sau thủ thuật
Thực hiện tốt/đầy đủ n (%)
Có thực hiện nhưng chưa tốt/ chưa đầy đủ, n (%)
Không thực hiện n (%) Động viên, chăm sóc về tinh thần 106 (100%) 0 0
Tư vấn, chăm sóc về dinh dưỡng 95 (89,6%) 11 (10,4%) 0
Tư vấn giáo dục sức khỏe, phòng bệnh 96 (90.6%) 10 (9,4%) 0
Tư vấn theo dõi, chăm sóc sức khỏe khi về nhà 102 (96,2%) 4 (3,8%) 0
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 106 bệnh nhân đã được điều dưỡng can thiệp để hỗ trợ tinh thần, trong đó 95 bệnh nhân (89,6%) nhận được tư vấn dinh dưỡng sau can thiệp và 96 bệnh nhân (90,06%) nhận tư vấn về giáo dục sức khỏe, phòng bệnh Ngoài ra, 102 bệnh nhân (96,2%) đã được hướng dẫn cách theo dõi và tự chăm sóc tại nhà sau khi xuất viện.
BÀN LUẬN
Thực trạng biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu ở các người bệnh thực hiện thăm dò điện sinh lý và điều trị triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio
3.1.1 Bàn luận về đặc điểm nhân trắc học và các yếu tố liên quan quá trình thực hiện thủ thuật của người bệnh
Trong nghiên cứu khảo sát 106 bệnh nhân, có 39% là nam giới và 61% là nữ giới, với độ tuổi trung bình là 50,8 Độ tuổi thấp nhất là 13 và cao nhất là 88, cho thấy rối loạn nhịp tim có thể xảy ra ở cả người trẻ và người cao tuổi Đặc biệt, 62,3% bệnh nhân dưới 60 tuổi và 37,7% từ 60 tuổi trở lên Bệnh lý ở người cao tuổi thường do quá trình lão hóa và suy yếu các cơ quan, dẫn đến khó khăn trong các thủ thuật y tế như chọc mạch Ngoài ra, tâm lý phụ nữ thường chịu đau kém hơn nam giới, có thể ảnh hưởng đến việc tuân thủ các hướng dẫn sau thủ thuật và làm tăng nguy cơ biến chứng chảy máu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 70% bệnh nhân có chỉ số BMI từ 18,5 đến 22,9, cho thấy họ có thể trạng trung bình Chỉ 7% bệnh nhân thừa cân với BMI từ 23 trở lên, trong khi 23% bệnh nhân có thể trạng gầy Những bệnh nhân thừa cân và béo phì thường có đặc điểm mô mỡ dày, bụng chướng và lớp mô liên kết lỏng lẻo, điều này có thể làm giảm hiệu quả của quá trình băng ép do không đúng vị trí mạch máu Hơn nữa, tình trạng béo bụng và mô liên kết lỏng lẻo có thể gây khó khăn trong việc nhận biết các biến chứng xung quanh vị trí chọc mạch.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh lý kèm theo phổ biến nhất là tăng huyết áp, với 35 bệnh nhân, chiếm 33,1% Ngoài ra, có 14 bệnh nhân mắc đái tháo đường, tương đương 13,2%, và 3 bệnh nhân bị suy thận, chiếm 2,8%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 12,3% bệnh nhân có bệnh lý đang sử dụng thuốc chống đông hoặc thuốc chống ngưng tập tiểu cầu Tỷ lệ bệnh đồng mắc ở nhóm này cao hơn so với nghiên cứu của Yaminisharif và các cộng sự, khi chỉ có 7,1% bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp (THA) và 4,2% bệnh nhân mắc đái tháo đường Bệnh nhân tăng huyết áp nếu không được kiểm soát tốt có nguy cơ cao hơn về biến cố chảy máu tại vị trí chọc mạch trong quá trình băng ép Đối với bệnh nhân đái tháo đường và suy thận mạn, thành mạch bị suy yếu làm quá trình cầm máu khó khăn hơn Đặc biệt, bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc chống đông có thời gian đông máu kéo dài, làm tăng nguy cơ chảy máu khi băng ép Do đó, nhóm bệnh nhân này có nguy cơ cao hơn về các biến cố liên quan đến đường vào mạch máu Việc nắm rõ các bệnh lý nền sẽ giúp điều dưỡng chú ý hơn đến những bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao và cần băng ép lâu hơn, đồng thời theo dõi liên tục vị trí chọc mạch để phát hiện kịp thời biến chứng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 96% bệnh nhân được thực hiện thủ thuật qua tĩnh mạch đùi, trong khi các đường vào mạch máu khác như tĩnh mạch dưới đòn và động mạch đùi chiếm tỷ lệ thấp hơn Đường vào tĩnh mạch dễ dàng kiểm soát và băng ép hơn so với đường vào động mạch, dẫn đến thời gian băng ép ngắn hơn Thủ thuật thăm dò điện sinh lý và triệt đốt rối loạn nhịp chủ yếu sử dụng tĩnh mạch đùi và tĩnh mạch dưới đòn, trong khi thủ thuật chụp và can thiệp động mạch vành thường thực hiện qua động mạch quay hoặc động mạch đùi Do đó, biến cố liên quan đến đường vào mạch máu trong thủ thuật thăm dò điện sinh lý và triệt đốt rối loạn nhịp sẽ ít xảy ra hơn.
Trong số 106 bệnh nhân, có 3 người (3%) sử dụng 1 đường vào, 56 người (53%) có 2 đường vào và 47 người (44%) có 3 đường vào mạch máu khác nhau Việc có nhiều đường vào mạch máu khi thực hiện thủ thuật làm tăng nguy cơ biến cố và gây khó khăn trong việc băng ép cũng như theo dõi bệnh nhân Những bệnh nhân này thường gặp phải đau đớn, phải bất động nhiều phần cơ thể, và cần theo dõi đồng thời nhiều vị trí chọc mạch, dẫn đến thời gian hồi phục kéo dài Nếu xảy ra biến chứng, việc xác định nguyên nhân và khắc phục sẽ trở nên phức tạp hơn ở những bệnh nhân có nhiều đường vào mạch máu.
Thủ thuật thăm dò điện sinh lý và triệt đốt rối loạn nhịp chủ yếu sử dụng sheath mở đường vào mạch máu kích thước 6Fr (54,7%) và 8Fr (44,5%) Kích thước sheath lớn hơn dẫn đến nguy cơ biến chứng cao hơn, thời gian băng ép kéo dài và khó khăn hơn trong xử trí biến chứng Việc nắm rõ kích cỡ sheath sẽ giúp điều dưỡng xác định thời gian băng ép cần thiết và theo dõi cẩn thận các trường hợp sử dụng sheath lớn.
Thời gian thực hiện thủ thuật đa số bệnh nhân dao động từ 1-2 giờ, chiếm 61,3% Có 14 bệnh nhân (13,2%) cần thời gian trên 4 giờ, trong khi 18 bệnh nhân (17%) thực hiện trong khoảng 2-4 giờ Chỉ 9 bệnh nhân (8,5%) hoàn thành thủ thuật dưới 1 giờ Thời gian thực hiện thủ thuật dài có thể dẫn đến nguy cơ biến chứng máu cao hơn, do lượng máu mất nhiều hơn và khối máu tụ sau thủ thuật có thể xuất phát từ chảy máu trong quá trình thực hiện Hơn nữa, thời gian kéo dài còn khiến bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, khó chịu và khó giữ yên khi băng ép sau thủ thuật.
Sau khi kết thúc thủ thuật, hầu hết bệnh nhân (99,6%) được thực hiện băng ép vị trí đường vào mạch máu bằng phương pháp thủ công, trong khi chỉ có 0,4% trường hợp cần sử dụng dụng cụ đóng mạch Việc sử dụng dụng cụ này thường áp dụng cho bệnh nhân có sheath lớn hoặc nguy cơ chảy máu cao, khó giữ bất động sau khi băng ép Mặc dù băng ép bằng tay có thể gặp rủi ro nếu nhân viên y tế thiếu kinh nghiệm hoặc không tuân thủ quy trình, nhưng nếu thực hiện đúng kỹ thuật, phương pháp này hoàn toàn có thể kiểm soát được tình trạng chảy máu tại vị trí chọc mạch.
3.1.2 Bàn luận về biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 14 trường hợp biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu, chiếm 13,2%, trong đó khối máu tụ nhỏ (≤ 5cm) là biến chứng phổ biến nhất với 8 bệnh nhân (7,5%) Biến chứng khối máu tụ lớn (> 5cm) ghi nhận ở 3 bệnh nhân (2,8%), cùng với 2 trường hợp chảy máu (1,9%) và 1 trường hợp lóc tách động mạch (0,9%) Không có trường hợp nào ghi nhận biến chứng giả phình mạch, rò động-tĩnh mạch hay các biến cố tắc mạch Biến chứng khối máu tụ nhỏ có thể được phát hiện và xử trí sớm, thường do chảy máu trong quá trình thực hiện thủ thuật hoặc từ lỗ chọc mạch sau khi thủ thuật Các biến chứng lóc tách mạch máu chủ yếu do bác sĩ gây ra trong quá trình thực hiện, ít liên quan đến băng ép sau can thiệp Hầu hết các biến chứng nhẹ đều được xử trí bằng băng ép tại chỗ hoặc dưới hướng dẫn siêu âm, và tất cả bệnh nhân đều có kết quả theo dõi tốt trong suốt thời gian nằm viện Không có bệnh nhân nào phải chuyển phẫu thuật hay gặp biến chứng tắc mạch chi cấp Kết quả của nghiên cứu này tương đương với các nghiên cứu tại các trung tâm tim mạch can thiệp khác tại Việt Nam.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không ghi nhận trường hợp nào có biến cố huyết khối tĩnh mạch và/hoặc thuyên tắc phổi, điều này trái ngược với các báo cáo trước đó của Yaminisharif và cộng sự (2010) với tỷ lệ 0,5% bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch sâu, cũng như các ghi nhận từ P Dimarco và cộng sự về các trường hợp tương tự Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi việc tối ưu hóa điều trị chống đông và phục hồi chức năng, cùng với việc khuyến khích vận động sớm tại trung tâm của chúng tôi.
Hình 3.1: Hỉnh ảnh tụ máu đùi phải sau can thiệp
Biến chứng tụ máu có thể xảy ra tại vị trí đường vào mạch máu vùng đùi phải, đặc biệt ở bệnh nhân cao tuổi với tổ chức dưới da lỏng lẻo sau điều trị RF Sau thủ thuật, bệnh nhân cần được rút sheath và ép cầm máu tại chỗ lâu hơn so với các trường hợp thông thường Để đánh giá các biến chứng như giả phình mạch máu, phình động mạch và thông động tĩnh mạch, bệnh nhân sẽ được siêu âm mạch máu tại chỗ Băng ép cầm máu và theo dõi sát sẽ được thực hiện nếu không có biến chứng mạch máu nặng xảy ra.
Trong một nghiên cứu, 94 bệnh nhân được thực hiện quá trình băng ép tốt, chiếm 88.7%, trong khi 12 bệnh nhân (11.3%) không được băng ép đầy đủ Việc băng ép hiệu quả là yếu tố quyết định trong việc cầm máu sau thủ thuật Nguyên nhân có thể do sự chủ quan hoặc thiếu kinh nghiệm của điều dưỡng, dẫn đến quy trình băng ép không đạt yêu cầu và tăng nguy cơ biến cố chảy máu, tụ máu Thực tế tại Việt Nam cho thấy việc sử dụng thiết bị đóng mạch chuyên dụng cũng làm gia tăng nguy cơ các biến cố liên quan đến đường vào mạch máu, đặc biệt ở bệnh nhân béo phì và người già có khả năng hợp tác kém.
Sau băng ép, tất cả 106 bệnh nhân được theo dõi 30 phút/lần trong 2 giờ đầu và được thay băng, vệ sinh vị trí chọc mạch Trong đó, 90,6% bệnh nhân được tư vấn đầy đủ, trong khi 22,6% chưa tuân thủ tốt việc bất động chi dưới Việc theo dõi định kỳ giúp phát hiện sớm biến chứng, ngăn ngừa mất máu và nguy hiểm đến tính mạng Sự phối hợp giữa điều dưỡng và bệnh nhân rất quan trọng, và 9,4% bệnh nhân vẫn chưa nhận được hướng dẫn rõ ràng về quy trình sau băng ép Tỷ lệ không tuân thủ này cần được cải thiện để giảm thiểu biến cố liên quan đến đường vào mạch máu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả 106 bệnh nhân đều được điều dưỡng động viên và chăm sóc tinh thần, với 95 bệnh nhân (89,6%) nhận tư vấn dinh dưỡng sau can thiệp và 96 bệnh nhân (90,06%) được tư vấn giáo dục sức khỏe, phòng bệnh Ngoài ra, 102 bệnh nhân (96,2%) đã nhận được hướng dẫn về cách theo dõi và tự chăm sóc tại nhà sau khi xuất viện Việc động viên và tư vấn đầy đủ không chỉ giúp bệnh nhân tăng niềm tin vào quá trình điều trị mà còn nâng cao sự liên kết giữa bệnh nhân và nhân viên y tế, từ đó cải thiện sự tuân thủ điều trị và hiệu quả điều trị Đa số bệnh nhân đều đánh giá cao sự hỗ trợ từ điều dưỡng, điều này không chỉ phản ánh chuyên môn của họ mà còn góp phần quan trọng vào sự hài lòng của bệnh nhân.
Một số thuận lợi, khó khăn tồn tại và nguyên nhân
Viện Tim Mạch Quốc Gia là cơ sở hàng đầu trong chẩn đoán và điều trị bệnh tim mạch, với đội ngũ bác sĩ can thiệp dày dạn kinh nghiệm Phòng can thiệp tim mạch tại đây đảm bảo tỷ lệ biến chứng thấp nhờ vào tay nghề cao của các bác sĩ.
Xây dựng quy trình chăm sóc và theo dõi người bệnh một cách chuẩn hóa, hợp lý và đầy đủ sẽ giúp điều dưỡng dễ dàng hơn trong việc chăm sóc bệnh nhân, đồng thời nhanh chóng xử trí khi có biến chứng xảy ra.
Nhân viên y tế thường xuyên tham gia các buổi hội thảo khoa học và họp giao ban chuyên môn để cập nhật kiến thức và trao đổi kinh nghiệm Những hoạt động này giúp họ tích lũy thêm kinh nghiệm quý báu trong quá trình thực hành lâm sàng.
Biến chứng liên quan đến việc tiếp cận mạch máu trong thủ thuật thăm dò điện sinh lý và đốt điện điều trị rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng radio tại Viện Tim mạch Việt Nam chủ yếu là khối máu tụ, với quá trình xử trí diễn ra thuận lợi và không để lại hậu quả đáng kể cho bệnh nhân Tuy nhiên, có 2 trường hợp biến chứng chảy máu tại vị trí chọc mạch sau khi băng ép (chiếm 1,9%) và 1 trường hợp biến chứng lóc tách động mạch (chiếm 0,9%) Nguyên nhân của những biến chứng này có thể được lý giải bằng một số yếu tố nhất định.
Viện Tim mạch Việt Nam là cơ sở y tế hàng đầu trong lĩnh vực tim mạch, thường xuyên đối mặt với tình trạng quá tải bệnh nhân Sự ảnh hưởng của dịch COVID-19 đã khiến nhân viên y tế phải phân chia công việc để đảm bảo các yêu cầu phòng chống dịch, dẫn đến tình trạng thiếu thời gian cho công tác tư vấn, hướng dẫn và giải thích theo dõi bệnh nhân sau can thiệp.
Nhiều bệnh nhân không có người thân theo dõi và nhắc nhở về việc tuân thủ chế độ nghỉ ngơi hoàn toàn sau can thiệp, dẫn đến nguy cơ xuất hiện biến chứng chảy máu tại vị trí chọc mạch.
Nhân viên y tế tại bệnh viện chưa thực hiện theo dõi đầy đủ bệnh nhân sau khi can thiệp Việc bàn giao bệnh nhân giữa điều dưỡng phòng can thiệp và điều dưỡng tại khoa phòng còn thiếu hiệu quả.
Một số nhân viên y tế, bao gồm bác sĩ can thiệp và điều dưỡng thực hiện rút Sheath, vẫn còn thiếu kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao Điều này dẫn đến việc xảy ra nhiều sai sót y khoa trong quá trình thực hiện các thủ thuật can thiệp.
Tình trạng quá tải bệnh nhân dẫn đến việc nằm ghép giường, gây khó khăn trong việc chăm sóc và theo dõi người bệnh sau can thiệp điều trị tại bệnh phòng.
3.2.3 Đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề:
- Sắp xếp, bổ sung nhân lực, tránh tình trạng thiếu nhân lực trong việc chăm sóc, điều trị người bệnh
- Cập nhật kiến thức chuyên môn, tăng cường khả năng phán đoán, nhận biết, xử trí các biến chứng của nhân viên y tế
- Tăng cường sự trao đổi kinh nghiệm, bàn giao công việc, bàn giao người bệnh giữa các nhân viên y tế
- Đầu tư cơ sở vật chất cho bệnh viện, tránh tình trạng quá tải người bệnh, giúp việc theo dõi và chăm sóc người bệnh được hiệu quả hơn
Chuẩn hóa quy trình theo dõi và chăm sóc bệnh nhân là điều cần thiết, đặc biệt ở những điểm chưa hợp lý Việc bổ sung các tiêu chuẩn và yêu cầu cần thiết trong quá trình theo dõi và xử trí bệnh nhân sẽ giúp nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đồng thời đảm bảo an toàn cho người bệnh luôn được đặt lên hàng đầu.
Tỷ lệ biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu trong thủ thuật thăm dò điện sinh lý và đốt điện điều trị rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio tại Viện Tim mạch Việt Nam là 13,2%, với 14/106 bệnh nhân Biến chứng thường gặp nhất là khối máu tụ nhỏ (≤ 5cm) với 8 bệnh nhân, trong khi khối máu tụ lớn (>5cm) có 3 bệnh nhân, chiếm 2,8% Ngoài ra, còn ghi nhận 2 trường hợp chảy máu (1,9%) và 1 trường hợp lóc tách động mạch (0,9%) Không có trường hợp nào bị biến chứng giả phình mạch, rò động tĩnh mạch hay các biến cố tắc mạch Tỷ lệ biến chứng này cao hơn so với các nghiên cứu trước đó, như của John P Dimarco (5,6%), khảo sát MERFS (5,1%), Trần Quốc Dũng tại Bệnh viện Tim mạch An Giang (6%), và Lê Mạnh tại Bệnh viện 19.8 Bộ Công An (2,5%).
Biến chứng đường vào mạch máu chủ yếu xảy ra ở người bệnh, chiếm 62%, trong đó 67% người bệnh có biến chứng khối máu tụ lớn được rút sheath tại khoa phòng Cả hai trường hợp chảy máu đều được xử lý tại khoa phòng, trong khi một trường hợp bóc tách mạch được rút sheath tại phòng can thiệp Đội ngũ điều dưỡng thực hiện quy trình rút sheath khá tốt, với 93% thực hiện đầy đủ Tuy nhiên, vẫn còn 7% chưa thực hiện tốt quy trình này Trong số 14 người bệnh, chỉ có 36% được thực hiện quy trình tốt và đầy đủ, trong khi 64% còn lại chưa đạt yêu cầu Hầu hết điều dưỡng cũng đã hướng dẫn và giải thích tốt cho người bệnh trước, trong và sau khi rút sheath (94%), nhưng vẫn còn 6% thực hiện chưa tốt Có 43% người bệnh nhận được hướng dẫn đầy đủ, trong khi 57% còn lại chưa được hướng dẫn tốt.
Viện Tim mạch Việt Nam – Bệnh viện Bạch Mai là trung tâm hàng đầu về tim mạch, chuyên khám, chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân tim mạch tại miền Bắc và toàn quốc Đội ngũ y tế tại viện gồm những chuyên gia có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm và luôn cập nhật kiến thức mới Viện thực hiện các quy trình chăm sóc sức khỏe tim mạch theo hướng dẫn của Bộ Y tế và ứng dụng nhiều thành tựu khoa học mới trong điều trị nội khoa, can thiệp và phẫu thuật Công tác đào tạo y khoa liên tục được chú trọng thông qua các buổi sinh hoạt khoa học và hội thảo, giúp bác sĩ và điều dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn trong chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân tim mạch.
Tỷ lệ biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu trong thủ thuật thăm dò điện sinh lý và đốt điện điều trị rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio tại Viện Tim mạch Việt Nam là 13,2% Hầu hết các biến chứng đều nhẹ, chủ yếu là tụ máu nhỏ (kích thước < 5cm) tại vị trí chọc kim, và thường không cần can thiệp, người bệnh sẽ tự hồi phục sau 5-7 ngày.
Thủ thuật thăm dò điện sinh lý tim và đốt điện điều trị rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng tần số radio (RF) đang trở nên phổ biến trong lâm sàng Tuy nhiên, giống như các thủ thuật can thiệp khác, biến chứng liên quan đến đường vào mạch máu là vấn đề cần được chú trọng để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân.