1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm

88 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Tác giả Trần Thị Nhuận
Người hướng dẫn PGS.TS. Bùi Trần Anh Đào, TS. Trịnh Quang Đại
Trường học Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Chuyên ngành Thú y
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 1,48 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (15)
  • 1.2. M ục tiêu của đề tài (16)
  • 1.3. P hạm vi nghiên cứu (16)
  • 1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài (16)
  • 2.1. G iới thiệu chung về bệnh Newcastle (17)
    • 2.1.1. Lịch sử bệnh Newcastle trên thế giới (17)
    • 2.1.2. Lịch sử bệnh Newcastle tại Việt Nam (18)
    • 2.1.3. Virus gây bệnh Newcastle (19)
    • 2.1.4. Truyền nhiễm học của bệnh (24)
    • 2.1.5. Triệu chứng, bệnh tích bệnh Newcastle (24)
    • 2.1.6. Phương pháp chẩn đoán bệnh Newcastle (25)
    • 2.1.7. Vắc xin phòng bệnh Newcastle (25)
  • 2.2. G iới thiệu chung về bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm (28)
    • 2.2.1. Lịch sử bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm trên thế giới (28)
    • 2.2.2. Lịch sử bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm tại Việt Nam (29)
    • 2.2.3. Virus gây bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm (29)
    • 2.2.4. Truyền nhiễm học của bệnh (31)
    • 2.2.5. Triệu chứng, bệnh tích bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm (32)
    • 2.2.6. Phương pháp chẩn đoán bệnh (32)
    • 2.2.7. Vắc xin phòng bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm (33)
  • 2.3. Tình hình nghiên cứu sản xuất vắc xin (34)
    • 2.3.1. Trên thế giới (34)
    • 2.3.2. Tại Việt Nam (35)
  • 2.4. N hững yêu cầu cơ bản để sản xuất vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB (35)
    • 2.4.1. Yêu cầu Chủng giống sản xuất (35)
    • 2.4.2. Yêu cầu kháng nguyên (37)
    • 2.4.3. Yêu cầu chất bất hoạt (37)
    • 2.4.4. Yêu cầu chất bổ trợ (37)
  • 3.1. Địa điểm nghiên cứu (40)
  • 3.2. Thời gian nghiên cứu (40)
  • 3.3. Đối tượng/vật liệu nghiên cứu (40)
    • 3.3.1. Đối tượng nghiên cứu (40)
    • 3.3.2. Vật liệu nghiên cứu (40)
  • 3.4. Nội dung nghiên cứu (41)
    • 3.4.1. Đánh giá đặc tính sinh học của chủng giống để sản xuất vắc xin (41)
    • 3.4.2. Xác định liều cơ bản của vắc xin đơn giá (41)
    • 3.4.3. Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất vắc xin vô hoạt ND-IB (42)
    • 3.4.4. Sản xuất thử nghiệm (43)
    • 3.4.5. Kiểm nghiệm vắc xin (43)
    • 3.4.6. Thử nghiệm vắc xin (43)
  • 3.5. P hương pháp nghiên cứu (44)
    • 3.5.1. Phương pháp xác định hiệu giá virus ND ( LaSota ) bằng phản ứng HA (Haemagglutination) (44)
    • 3.5.2. Phương pháp xác định hiệu giá virus ND ( LaSota ) trên trứng gà có phôi (EID 50 ) (45)
    • 3.5.3. Phương pháp xác định chỉ số độc lực virus Newcastle trên não gà con 01 ngày tuổi (ICPI - Intracerebral Pathogenicity Index) (45)
    • 3.5.4. Phương pháp xác định chỉ s ố độ c l ự c virus Newcastle khi tiêm t ĩ nh m ạ ch gà 6 tu ầ n tu ổ i (IVPI - Intravenous Pathogenicity Index) (0)
    • 3.5.5. Phương pháp xác định hiệu giá virus IB-H120 trên trứng gà có phôi (46)
    • 3.5.6. Phương pháp sản xuất kháng nguyên ND (LaSota) trên phôi trứng gà (47)
    • 3.5.7. Phương pháp sản xuất kháng nguyên IB (H120) trên phôi trứng gà (48)
    • 3.5.8. Phương pháp bất hoạt virus ND, IB và kiểm tra sau bất hoạt (48)
    • 3.5.9. Phương pháp phối trộn kháng nguyên với chất bổ trợ (49)
    • 3.5.10. Phương pháp kiểm tra chất lượng vắc xin (49)
    • 3.5.11. Phương pháp xác định hiệu giá kháng thể kháng virus ND trong huyết (52)
    • 3.5.12. Phương pháp xác định hiệu giá kháng thể kháng virus IB trong huyết (54)
    • 3.5.13. Phương pháp xử lý số liệu (54)
  • 4.1. Kết quả Khảo sát đặc tính sinh học của chủng giống để sản xuất vắc xin (55)
    • 4.1.1. Kết quả Khảo sát đặc tính sinh học của giống Virus ND (chủng LaSota) (55)
    • 4.1.2. Kết quả khảo sát đặc tính sinh học của giống virus IB-H120 (58)
  • 4.2. Kết quả xác định liều cơ bản vắc xin đơn giá (62)
    • 4.2.1. Kết quả sản xuất kháng nguyên ND (LaSota) và IB-H120 (62)
    • 4.2.2. Kết quả lựa chọn chất bất hoạt virus (63)
    • 4.2.3. Kết quả xác định hàm lượng mỗi kháng nguyên có trong 1 liều vắc xin đơn (0)
  • 4.3. Kết quả Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất vắc xin vô hoạt ND -IB (71)
    • 4.3.1. Kết quả phối trộn 9 nghiệm thức vắc xin vô hoạt (71)
    • 4.3.2. Kết quả đánh giá 9 nghiệm thức vắc xin trên động vật thí nghiệm (72)
    • 4.3.3. K ế t qu ả nghiên c ứ u Quy trình s ả n xu ấ t v ắ c xin vô ho ạ t ND-IB v ớ i ch ấ t (72)
  • 4.4. Kết quả kiểm nghiệm vắc xin vô hoạt ND -IB (74)
    • 4.4.1. Kết quả kiểm tra cảm quan, chỉ tiêu vật lý (74)
    • 4.4.2. Kết quả kiểm tra vô trùng vắc xin vô hoạt ND -IB (75)
    • 4.4.3. Kết quả kiểm tra an toàn (75)
    • 4.4.4. Kết quả kiểm tra hiệu lực (76)
  • 4.5. Kết quả thử nghiệm vắc xin vô hoạt ND - IB tại Công ty Cổ phần Thuốc thú y Trung Ương 5 (77)
  • 5.1. K ết luận (80)
    • 5.1.1. Đặc tính sinh học của chủng giống sản xuất vắc xin (80)
    • 5.1.2. Xác định liều cơ bản vắc xin đơn giá (80)
    • 5.1.3. Nghiên cứu quy trình sản xuất vắc xin vô hoạt ND -IB (80)
    • 5.1.4. Sản xuất thử nghiệm (80)
    • 5.1.5. Kiểm nghiệm vắc xin (80)
    • 5.1.6. Th ử nghi ệ m v ắ c xin (81)
  • 5.2. Đề ngh ị (81)
  • Tài liệu tham khảo (82)
  • Phụ lục (86)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Chăn nuôi đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giảm nghèo ở nông thôn Hiện nay, cả nước có khoảng 342 triệu gia cầm, 28 triệu con lợn và gần 8 triệu trâu bò (Tổng cục Thống kê, 2015) Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đi kèm với tình hình dịch bệnh phức tạp, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi, đặc biệt là các bệnh như Newcastle, Gumboro, viêm phế quản truyền nhiễm và tụ huyết trùng.

Bệnh Newcastle là một trong những bệnh nguy hiểm nhất đối với gia cầm, gây tổn thất lớn trên toàn thế giới do virus Paramyxovirus serotype 1 Bệnh lây lan nhanh chóng và thường kết hợp với các bệnh khác, dẫn đến tỷ lệ chết cao Bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm ở gà (IB) cũng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, có tốc độ lây lan và tỷ lệ mắc bệnh cao, ảnh hưởng đến 50 - 100% tổng đàn Nguyên nhân do virus Coronavirus, với triệu chứng điển hình như ho, hắt hơi và khó thở, gây viêm thận cấp hoặc mãn tính Bệnh này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe gà mà còn làm giảm sản lượng và chất lượng trứng ở đàn gà đẻ.

Một trong những biện pháp kiểm soát dịch bệnh hiệu quả là thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi và sử dụng vắc xin phòng bệnh Tuy nhiên, hiện nay, vắc xin trong nước chủ yếu nhập khẩu, trong khi vắc xin nội địa chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu của người chăn nuôi Vắc xin nhập khẩu thường có giá cao hơn nhiều lần so với vắc xin sản xuất trong nước, dẫn đến sự phụ thuộc vào nguồn cung ngoại là một vấn đề đáng lo ngại Hiện tại, vắc xin nội địa chủ yếu là vắc xin đơn giá, có ưu điểm tạo miễn dịch nhanh, hiệu giá bảo hộ cao và thời gian bảo vệ dài hơn vắc xin vô hoạt Tuy nhiên, việc sử dụng vắc xin đơn giá lại đòi hỏi nhiều công lao động, gây stress cho vật nuôi và tổng chi phí cho vắc xin cao hơn.

Chăn nuôi công nghiệp hiện đang đối mặt với thách thức giảm hiệu quả kinh tế do sự ổn định đàn gia cầm lớn và sản lượng cao Để đáp ứng nhu cầu thị trường và chủ động trong việc kiểm soát dịch bệnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sản xuất và thử nghiệm vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB nhằm phòng ngừa bệnh Newcastle và bệnh viêm phế quản truyền nhiễm ở gia cầm.

M ục tiêu của đề tài

Sản xuất vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB quy mô phòng thí nghiệm, đánh giá chất lượng các lô vắc xin sản xuất.

P hạm vi nghiên cứu

- Nghiên cứu sản xuất vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB trong điều kiện phòng thí nghiệm của Công ty Cổ phần Thuốc thú y Trung Ương 5;

- Kiểm tra chất lượng ba lô vắc xin sản xuất thử nghiệm;

- Thử nghiệm vắc xin trên các lô gà thí nghiệm được bố trí tại Khu Động vật thí nghiệm của Công ty Cổ phần Thuốc thú y Trung Ương 5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Luận văn đã xác định các chỉ tiêu quan trọng cho việc sản xuất vắc xin, bao gồm việc chọn lựa giống, chất bất hoạt và chất bổ trợ phù hợp Đồng thời, nghiên cứu cũng đã xây dựng quy trình sản xuất và kiểm nghiệm vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB cho gia cầm.

Cung cấp một loại vắc xin vô hoạt an toàn và hiệu quả cho ngành chăn nuôi gia cầm, giúp phòng ngừa hai bệnh Newcastle và bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm, đồng thời tiết kiệm thời gian và chi phí cho người chăn nuôi.

+ Chủ động trong việc cung cấp vắc xin phòng chống dịch bệnh cho chăn nuôi gia cầm

PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

G iới thiệu chung về bệnh Newcastle

Lịch sử bệnh Newcastle trên thế giới

Bệnh Newcastle, lần đầu được ghi nhận vào năm 1898, đã xuất hiện tại Hàn Quốc vào năm 1924 và Trung Âu vào năm 1912 Các vụ dịch đầu tiên ở gia cầm được xác định vào năm 1926 tại Java, Indonesia và Newcastle-upon-Tyne, Anh, nơi bệnh được đặt tên Năm 1935, Doyle.T.M chính thức đặt tên "bệnh Newcastle" Đến năm 1942, Burnet F.M đã mô tả virus Newcastle có khả năng gây ngưng kết hồng cầu ở gà, người, chuột bạch và chuột lang, nhưng không ảnh hưởng đến ngựa Từ năm 1941 đến 1951, nhiều ổ dịch virus Newcastle bùng phát tại Mỹ, gây thiệt hại lên tới 52 triệu USD (OIE, 2005).

Cho đến thời điểm hiện tại, có ít nhất 4 đại dịch Newcastle đã được ghi nhận trên toàn thế giới vào các thời điểm 1926, 1960, 1970 và đầu những năm

Vào năm 1980, một đợt dịch nghiêm trọng đã gây thiệt hại kinh tế lớn Đợt dịch đầu tiên xuất hiện vào năm 1926, gần như đồng thời tại các quốc gia như Indonesia, Anh và Hàn Quốc, sau đó lan rộng sang Philippines, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia và Kenya Đến năm 1951, dịch bệnh đã xuất hiện ở Hawai và Canada, tiếp theo là nhiều khu vực khác ở Châu Phi, bao gồm Palestine, Syria và Congo, cùng với Sicily, châu Âu và Hoa Kỳ vào năm 1952 Vào đầu những năm 1960, các đợt dịch thứ hai và thứ ba đã được ghi nhận ở Hawaii, Canada, Mexico, cũng như Trung và Nam Mỹ.

Dịch bệnh lây lan chủ yếu qua việc vận chuyển vẹt nuôi và bồ câu ở Việt Nam và hầu hết châu Âu (Alexander, 1988) Vào năm 1964, bệnh đã xuất hiện tại Iran với thể cấp tính và nhanh chóng lan rộng sang châu Á, từ Tây Âu qua Trung Đông Các đợt bùng phát mạnh mẽ tiếp tục diễn ra vào các năm 1977, 1979 và 1980 Tại hội nghị gia cầm thế giới tổ chức ở Atlanta (Mỹ) năm 1977, các nhà khoa học đã xác nhận rằng tất cả các chủng virus được phân lập ở California, Trung Đông và châu Âu đều thuộc cùng một serotype (OIE, 2005).

Tại Covasna, Romania, đã xuất hiện nhiều ổ dịch, trong khi ở đảo Crete, Hy Lạp, dịch bệnh cũng đang diễn ra và gây thiệt hại nặng nề cho nhiều loại gia cầm, đặc biệt là gà Broiler Ngoài ra, dịch Newcastle đã bùng phát tại Harju, miền Bắc Estonia, dẫn đến tổn thất lớn về số lượng gà thương phẩm.

2008) Ở châu Âu, chương trình tiêm phòng đã khống chế được các ổ dịch từ nhưng năm 1970 nhưng nhưng năm 1994, có tới 239 vụ xảy ra Năm 1996-1997

Tại Anh, đã xảy ra 11 vụ dịch, trong đó có 4 vụ dịch lớn liên quan đến gà thương phẩm Broiler và 7 vụ ở gà tây Ở Australia, vào năm 1998, hai vụ dịch lớn đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho đất nước và bệnh này tiếp tục kéo dài cho đến cuối năm 2000.

Bệnh Newcastle đang diễn biến phức tạp và gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi gia cầm Dịch bệnh này vẫn bùng phát ở gà đã được tiêm chủng tại Ai Cập, có thể liên quan đến sự xuất hiện của chủng virus mới Tại miền Đông Trung Quốc, hơn 75% chủng virus phân lập từ gà tiêm phòng là các biến thể mang E347K ở gene F, và vắc xin LaSota không bảo vệ được trước chủng virus này Ở Thượng Hải, biến thể genotype VIII gây chết đến 86,4% gà bệnh, trong khi vắc xin LaSota và Clone 30 cũng không có khả năng bảo hộ Năm 2015, dịch Newcastle bùng phát tại huyện Gutu ở Zimbabwe, khiến ít nhất 500.000 gà chết Cùng thời gian đó, dịch bệnh xảy ra tại Philippines, gây chết cho khoảng 41.000 chim, gà ở các tỉnh Pampanga, Tarlac và Nueva Ecija, và một tháng sau, dịch lan rộng, làm chết 11.700 gà ở Norte và Locos, La Union.

Lịch sử bệnh Newcastle tại Việt Nam

Bệnh Newcastle, được Phạm Văn Huyến phát hiện vào năm 1933, đã gây ra thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi gà ở Việt Nam Từ năm 1949 đến 1957, dịch bệnh này đã lan rộng khắp các tỉnh, đặc biệt là ở Nha Trang và Sài Gòn Năm 1973, tại nông trường Thành Tô, bệnh đã làm chết 100.000 gà chỉ trong 10 ngày, và năm 1974, 2/3 tổng đàn 300.000 con tại xí nghiệp gà Cầu Diễn bị ảnh hưởng Đối với chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ và thả vườn, Newcastle vẫn là mối đe dọa chính, ngay cả với những đàn đã được tiêm vắc xin.

Bệnh Newcastle có thể ảnh hưởng đến gà ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp hơn ở gà nhỏ Theo Phan Văn Lục (1994), đã ghi nhận 4 vụ dịch xảy ra ở gà nhỏ và 1 vụ ở gà trưởng thành Tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất được quan sát ở những đàn gà từ 17 đến 30 ngày tuổi.

Virus gây bệnh Newcastle

Theo nghiên cứu của Nguyễn Bá Huệ và cộng sự (1980), bốn chủng virus Newcastle cường độc đã được phân lập từ gà tại các xí nghiệp Cầu Diễn, Thành Tô, An Khánh và Đông Anh, bao gồm các chủng CD, HP, AK và ĐA Tất cả các chủng này đều có độc lực cao, với liều gây chết 50% gà thí nghiệm (LD50) dao động trong khoảng 10^-7,2 đến 10^-7,7 Chủng virus Newcastle N91 đã được sử dụng làm chủng cường độc tham chiếu trong việc kiểm nghiệm vắc xin từ những năm 1990, với các chỉ số MDT là 57 giờ, ICPI là 1,77, IVPI là 2,67 và LD50 là 10^-6,5 (Nguyễn Thị Phương Duyên và cộng sự, 1988).

Hà (2000), xác định chủng CT2 có độc lực cao như VN91 trên chim cút

2.1.3.2 Phân loại a Phân loại theo độc lực

Theo Oie (2008), theo độc lực virus được chia làm 3 nhóm:

Nhóm Velogen là một nhóm độc lực mạnh, có khả năng gây chết phôi lên tới 100%, đặc biệt ở những đàn không được tiêm vắc xin Tỷ lệ chết có thể đạt 100% do bệnh tích rõ rệt với các điểm xuất huyết trên phôi Nhóm này thường gây bệnh trong tự nhiên và các chủng thuộc nhóm Velogen chỉ được sử dụng để chế tạo vắc xin vô hoạt.

Nhóm Mesogen có độc lực trung bình, gây tử vong khoảng 10% ở gà không được tiêm phòng và có thể dẫn đến chết phôi sau 60 giờ nuôi cấy với một số điểm xuất huyết Nhóm này bao gồm ba chủng: M (Mukteswar), K (Komarov) và H (Herofov), được sử dụng để chế tạo vắc xin cho gà lớn, được gọi là vắc xin Newcastle hệ I.

Nhóm Lentogen là một nhóm vi rút có độc lực yếu, không gây bệnh tự nhiên và không làm chết phôi, thường chỉ gây bệnh nhẹ cho gà và hiếm khi gây tử vong Các chủng như B1, LaSota, F, V4 thường được sử dụng để chế tạo vắc xin phòng bệnh cho gà con dưới 2 tháng tuổi, được gọi là vắc xin hệ II Phân loại của nhóm này cũng dựa trên triệu chứng lâm sàng.

Dựa trên những triệu chứng lâm sàng cơ bản được phát hiện trên gà nhiễm bệnh, các chủng virus Newcastle được phân thành 5 nhóm (Oie, 2008), bao gồm:

- Nhóm Viscerotropic velogenic: Nhóm có độc lực cao gây bệnh tích chủ yếu là xuất huyết đường tiêu hoá

- Nhóm Neurotropic velogenic: Nhóm có độc lực cao, gây tỷ lệ chết với các triệu chứng hô hấp và thần kinh

- Nhóm Mesogenic: Nhóm có độc lực vừa gây các triệu chứng về hô hấp, đôi khi có triệu chứng thần kinh nhưng gây tỷ lệ chết thấp

- Nhóm Lentogenic: Nhóm có độc lực thấp gây các triệu chứng đường hô hấp không điển hình

- Nhóm Asymtomatic enteric: Nhóm có độc lực thấp gây các triệu chứng đường tiêu hoá không điển hình c Phân loại theo đặc tính di truyền

Từ 2003-2012, tồn tại hai hệ thống phân loại Hệ thống phân loại thứ nhất do Aldous chia các virus NDV thành 6 dòng (lineage 1 đến 6), trong các dòng 3,

Theo nghiên cứu của Aldous và cộng sự (2003), các phân dòng sublineage 4 và 5 bao gồm 16 sublineage Hệ thống phân loại thứ hai dựa trên lịch sử phát sinh loài được chia thành hai lớp (class I và II) Từ tổ tiên chim hoang dã, chúng tách thành hai thủy tổ, trong đó class I bao gồm 9 genotype và class II bao gồm 10 genotype (Czegledi).

Căn cứ vào trình tự gene, đề xuất hợp nhất hai hệ thống phân loại thành hệ thống phân loại theo genotype (Diel & cs., 2012) Khoảng cách tiến hóa trung bình 10% được xác định là ngưỡng để tách biệt genotype mới Hiện tại, class I bao gồm 1 genotype với 10 sub-genotype, trong khi class II vẫn đang được nghiên cứu.

Virus NDV thuộc lớp I có genome dài 15,198 nucleotide, là loại dài nhất và có nguồn gốc từ chim hoang Lớp I bao gồm 10 kiểu gen (1-10) và thường được tìm thấy ở chim hoang trên toàn thế giới, thường được phân lập từ các chợ gia cầm sống, bồ câu, thủy cầm và chim hoang không có triệu chứng Những virus này thường không gây độc lực cho gà, ngoại trừ một chủng NDV LoNDV từ thủy cầm và chim đua, có khả năng lây nhiễm cho gà và gây ra dịch bệnh nghiêm trọng ở Úc từ năm 1998 đến 2000.

Class II, nhóm thứ nhất, có genome ngắn nhất với 15,186 nucleotide, mất 12 nucleotide ở gene P, gây bệnh cho gà và có nguồn gốc từ các tổ tiên genotypes I-IV và H33 ở Anh Trong khi đó, Class II, nhóm thứ hai, bổ sung thêm 6 nucleotide vào vùng 5’ của gene.

NP so với nhóm 1 bao gồm các genotype từ V đến XVIII Nhóm thứ nhất, với các genotype I, II, III, IV và IX, đã xuất hiện sớm vào những năm 1930-1960, trong khi sau năm 1960, các chủng virus thuộc các genotype V, VI, VII, VIII và X đến XVIII đã xuất hiện (Czegledi & cs., 2006) Hầu hết các chủng virus gây ra bốn đại dịch từ những năm 1920 đến nay đều thuộc class II.

Genotype I chủ yếu tồn tại ở các loài chim, bao gồm chim di trú và chim ven biển Loại gen này đã được phân lập tại các chợ gia cầm sống và có mức độ độc lực từ thấp đến trung bình (Kim & cs.).

Một số chủng virus Newcastle Disease Virus (NDV) thuộc genotype I, như NDV QV4 (1966) ở Úc và Ulster (1967) ở Ireland, được sử dụng làm vắc xin sống Genotype II bao gồm các virus có độc lực thấp, như LaSota, B1 và VG/GA, cũng như một số chủng có độc lực cao hướng thần kinh, chẳng hạn như chủng Chicken/Texas (GB)/1948, vẫn còn lưu hành ở Ấn Độ Genotype III đã lưu hành trước năm 2007.

1960 tại Nhật Bản, ở Đài Loan vào năm 1969, 1985 và ở Zimbabwe năm 1990 Virus genotype IV chủ yếu là các chủng phân lập được ở châu Âu trước năm

1970 đã dần biến mất từ 1960-1996, nhưng vẫn tồn tại dai dẳng ở Ấn Độ

(Maminiaina & cs., 2010) NDV Genotype IX chỉ ở Trung Quốc, gần đây lưu hành ở chim hoang và gây bệnh cả gà và vịt (Tsai & cs., 2004)

Genotype V xuất hiện vào những năm 1970, gây đại dịch ND tại Bắc Mỹ

Từ năm 1971 đến 2002, nhiều đợt bùng phát virus đã diễn ra ở Mexico, Tây Âu (1970-1974), Đông Âu và Canada (1995-2000) Tại Trung Quốc, Genotype V đã gây ra dịch địa phương, trong khi Genotype VI xuất hiện ở châu Âu vào những năm 1960 và sau đó lan sang châu Á Genotype VII, xuất hiện ở vùng Viễn Đông của Nga sau năm 1970, bao gồm subgenotype VIIa chủ yếu lưu hành tại khu vực này và lan rộng sang các nước châu Á, châu Âu; trong khi subgenotype VIIb có mặt ở Viễn Đông và Nam Phi Hiện nay, genotype IX đã trở thành phổ biến toàn cầu, được chia thành 8 sub-genotype (VIIa, b, c, d, e, f, g, h, i và j) gây dịch ở Serbia, Trung Quốc, Kazakhstan, Nam Phi và nhiều quốc gia châu Á, Tây Phi Các virus thuộc genotype VIII, sau năm 1960, cũng đã lưu hành ở Nam Phi, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.

NDV Genotype X xuất hiện ở Đài Loan vào năm 1969 và 1981 Genotype

Genotype XI, có nguồn gốc từ genotype IV, đã xuất hiện ở Madagascar vào năm 1960, trong khi genotype XII gần đây đã được ghi nhận đồng thời ở Trung Quốc và Colombia Genotype XIII xuất hiện tại Ấn Độ vào những năm 1980 và lan truyền sang các quốc gia Nam Á qua chim hoang và chim di trú đến các “ốc đảo” Indonesia Genotype XVI được phát hiện ở Bắc Mỹ, trong khi các genotype XIV, XVII và XVIII chủ yếu lưu hành ở châu Phi.

Sự phân bố rộng rãi của các genotype và subgenotype virus Newcastle độc lực cao chủ yếu xảy ra ở quần thể gà khỏe mạnh, thủy cầm, chim hoang, chim di trú và các loài động vật khác, thay vì chỉ ở gà nuôi.

Virus Newcastle là một loại virus ARN có cấu trúc xoắn và đa dạng hình thái, bao gồm hình tròn, hình trụ và hình sợi Virus này được bao bọc bởi một lớp lipid bên ngoài và kích thước của virion dao động trong khoảng nhất định.

150 - 400nm Virus có cấu trúc nucleocapsid dạng xoắn ốc, đường kính 17 - 18nm Vỏ bọc được phủ các gai (glycoprotein HN- F) dài 8 - 12 nm (Alexander,

Truyền nhiễm học của bệnh

Virus gây bệnh ảnh hưởng đến nhiều loài gia cầm như gà, gà tây, bồ câu và chim sẻ, trong khi vịt, ngan, ngỗng cũng có thể nhiễm nhưng triệu chứng thường nhẹ hơn Gà ở mọi lứa tuổi đều có nguy cơ mắc bệnh, tuy nhiên, độ tuổi từ 2-5 tháng là thời điểm dễ bị nhiễm nhất.

Trong nghiên cứu bệnh lý, gà giò thường được sử dụng để gây bệnh thông qua việc tiêm virus, dẫn đến các triệu chứng và tổn thương tương tự như gà mắc bệnh tự nhiên Bồ câu cũng có thể được tiêm virus vào bắp thịt, với triệu chứng tê liệt xuất hiện sau 6-8 ngày và tử vong sau 15-16 ngày Ngoài ra, chuột bạch cũng là một đối tượng thử nghiệm hiệu quả, khi virus được tiêm vào não hoặc phúc mạc, chuột sẽ chết sau 3-6 ngày.

2.1.4.2 Đường xâm nhập và cách thức lây lan

Virus Newcastle có thể xâm nhập vào cơ thể gia cầm qua đường tiêu hóa từ thức ăn, nước uống hoặc phân, cũng như qua đường hô hấp khi gia cầm hít thở Virus này thâm nhập qua niêm mạc hầu họng, sau đó vào máu, gây nhiễm trùng huyết và lan đến hầu hết các cơ quan trong cơ thể, dẫn đến viêm và hoại tử (Nguyễn Bá Hiên, 2013).

Virus gây tổn thương nội mô mạch máu, dẫn đến xuất huyết và thẩm xuất dịch vào các xoang cơ thể Đồng thời, virus cũng gây rối loạn tuần hoàn và ảnh hưởng đến trung khu hô hấp trong hệ thần kinh trung ương, gây ra tình trạng khó thở nghiêm trọng.

Mức độ lây truyền virus ở gia cầm phụ thuộc vào độc lực của virus, liều lượng nhiễm và sức đề kháng của chúng Virus có thể lây lan qua việc vận chuyển sản phẩm gia cầm như thịt, xác chết, chất thải và thức ăn thừa, cũng như qua tiếp xúc giữa gia cầm nuôi và chim hoang dã.

2.1.4.3 Chất chứa và bài xuất virus

Trong cơ thể gà bệnh, hầu hết các cơ quan phủ tạng đều chứa virus Thường

Sau 44 giờ nhiễm, virus có thể được phát hiện ở thận, lách, túi Fabricius, đường hô hấp, tụy và não Virus được bài xuất qua phân, nước mắt và nước mũi, bắt đầu từ 20-24 giờ trước khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng và kéo dài suốt thời gian bệnh cho đến khi khỏi bệnh (Nguyễn Bá Hiên, 2013).

Triệu chứng, bệnh tích bệnh Newcastle

Thời gian nung bệnh thường dao động từ 3 đến 5 ngày, nhưng có thể chỉ kéo dài 2 ngày hoặc hơn một tuần Bệnh tiến triển qua ba thể chính: thể quá cấp tính, thể cấp tính và thể mạn tính Thể quá cấp tính thường xuất hiện ở đầu ổ dịch, với sự tiến triển nhanh chóng, khiến con vật ủ rũ và chết chỉ sau vài giờ Thể cấp tính là thể bệnh phổ biến, với các triệu chứng rõ ràng như sốt cao, khó thở, hắt hơi, trướng diều, mào yếm tím bầm, tiêu chảy phân trắng xanh và giảm sản lượng trứng Cuối cùng, thể mạn tính thường xuất hiện ở giai đoạn cuối của ổ dịch, với biểu hiện rối loạn thần kinh trung ương.

Thể quá cấp tính: Bệnh tích thường không rõ ràng, đôi khi chỉ thấy những xuất huyết ở ngoại tâm mạc, màng ngực và niêm mạc đường hô hấp

Trong thể cấp tính, xác chết có đặc điểm gầy, mào yếm tím bầm, và xoang mũi cùng miệng chứa nhiều dịch nhớt màu đục Niêm mạc miệng, hầu, họng và khí quản xuất hiện tình trạng xuất huyết, viêm và phủ màng giả fibrin Ngoài ra, một số trường hợp còn ghi nhận tổ chức liên kết vùng đầu, cổ, hầu bị phù thũng và thấm nhiễm dịch thẩm xuất có màu vàng, dễ đông như gelatin (Nguyễn Bá Hiên, 2013).

Phương pháp chẩn đoán bệnh Newcastle

- Chẩn đoán lâm sàng: Có thể chẩn đoán bệnh Newcastle dựa vào các đặc điểm dịch tễ học và triệu chứng, bệnh tích như đã nêu;

- Chẩn đoán bằng sinh học phân tử: RT-PCR, realtime-RT-PCR;

- Chẩn đoán bằng phương pháp phân lập và giám định virus: Dùng phôi gà, dùng gà khỏe mạnh, dùng môi trường tế bào;

Chẩn đoán huyết thanh học sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI), phản ứng kết tủa khuyếch tán trên thạch, ELISA, phản ứng trung hòa và HA Trong số đó, phản ứng HI là phương pháp phổ biến nhất để phát hiện kháng thể trong huyết thanh.

Vắc xin phòng bệnh Newcastle

Ở nước ta, hầu hết các vắc xin phòng Newcastle ở Việt Nam tập trung vào chủng LaSota, LaSota chịu nhiệt, LaSota V4 chịu nhiệt (Nguyễn Thu Hồng,

1990), Newcastle hệ I có thể có nguồn gốc từ chủng Mukteswar (Trần Đình Từ,

Vắc xin có hiệu quả phòng bệnh khác nhau tùy thuộc vào phương pháp sử dụng như nhỏ mũi, khí dung hoặc tiêm, mà không bị ảnh hưởng bởi vùng địa lý (Nguyễn Thu Hồng & cs., 1998) Việc bổ sung Vitamin hoặc thuốc trợ lực có thể nâng cao hiệu quả của vắc xin, tùy theo đơn vị sản xuất và sử dụng ở các vùng miền khác nhau (2005).

Vắc xin nội địa phòng bệnh Newcastle, sử dụng các chủng LaSota và Newcastle hệ I, đã được triển khai rộng rãi trên toàn quốc Gần đây, vắc xin ngoại nhập cũng ngày càng phổ biến trong chăn nuôi công nghiệp, gia trại và trang trại.

Virus Newcastle là một loại virus đơn huyết thanh học, và mặc dù nhiều loại vắc xin đã được sử dụng, dịch bệnh vẫn tiếp tục xảy ra Nghiên cứu ứng dụng đã được thực hiện để tối ưu hóa việc sử dụng vắc xin cho các đối tượng gà và mô hình chăn nuôi (Mai Hoàng Việt, 1999) Với đặc điểm chăn nuôi nhỏ lẻ, công tác phòng bệnh cần sự tham gia tích cực từ cộng đồng (Trần Văn Hà, 2004) Một số loại vắc xin phòng bệnh Newcastle đang được áp dụng hiện nay.

Vắc xin chịu nhiệt là loại vắc xin được sản xuất từ virus tự nhiên, được cải tiến để tăng cường khả năng chịu nhiệt thông qua quá trình chọn lọc nhân tạo trong phòng thí nghiệm Điều này giúp vắc xin có khả năng kháng lại nhiệt độ cao, khắc phục hạn chế của nhiều loại vắc xin phòng bệnh Newcastle, vốn thường giảm hiệu quả sau 1 đến 2 giờ ở nhiệt độ phòng Với khả năng chịu đựng tốt hơn ở nhiệt độ thường (15-25 độ C), vắc xin chịu nhiệt mang lại hiệu quả sử dụng cao hơn trong điều kiện bảo quản và vận chuyển.

28 o C) trong 30 ngày (Trần Đình Từ, 2005)

Vắc xin vô hoạt, hay còn gọi là vắc xin chết, là loại vắc xin được sản xuất từ virus đã bị bất hoạt thông qua hóa chất, bức xạ hoặc nhiệt độ Sau khi virus bị bất hoạt, chúng có thể được kết hợp với các chất bổ trợ để tăng cường hiệu quả Các chủng virus được sử dụng để chế tạo vắc xin vô hoạt có thể là những chủng có độc lực yếu hoặc chủng độc lực cao, nhưng cần đảm bảo rằng virus không còn khả năng gây bệnh khi sử dụng các chủng cường độc.

“thoát” ra khỏi cơ sở sản xuất, cũng như nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ ở mọi khâu sản xuất

Vắc xin tái tổ hợp phòng bệnh Newcastle, được nghiên cứu từ đầu thập kỷ 90, sử dụng baculovirus hoặc fowlpox virus mang gene HN (hemagglutinin-neuraminidase), giúp bảo vệ gà khỏi virus cường độc mà không bị ảnh hưởng bởi kháng thể thụ động (Nagy & cs., 1991) Một thách thức lớn trong việc phòng bệnh bằng vắc xin là rào cản miễn dịch thụ động; tuy vắc xin DNA mang gene F hoặc gene HN chưa cung cấp miễn dịch hoàn hảo, nhưng chúng là giải pháp tiềm năng (Loke & cs., 2005) Vắc xin DNA có thể nâng cao đáp ứng miễn dịch của gà khi kết hợp với vắc xin vô hoạt Hiện nay, các vắc xin thế hệ mới đang được hoàn thiện về cấu trúc, mức biểu hiện protein kháng nguyên và các yếu tố điều khiển miễn dịch nhằm đảm bảo mức bảo vệ thực tế khi gặp virus cường độc.

Vắc xin đã được áp dụng trong việc phòng ngừa bệnh tật trong suốt hơn 50 năm qua Sự phát triển của công nghệ tái tổ hợp gen đã tạo ra bước đột phá quan trọng trong nghiên cứu và phát triển vắc xin cho ngành thú y.

Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hồng (1993) cho thấy gà uống vắc xin LaSota có khả năng tạo miễn dịch qua tiếp xúc, với liều 10 -3 EID50 từ 3–4 ml/con khi gà 1 tuần tuổi, đạt 63% bảo hộ đến 2,5 tháng tuổi, và 100% nếu uống lúc 2 tuần tuổi Nguyễn Tiến Dũng (1993) đã phát hiện biến chủng LaSota chịu nhiệt cao, tạo miễn dịch tốt và bảo quản ở 37°C Vắc xin LaSota chịu nhiệt V4 có ưu điểm về thời gian bảo quản, duy trì hiệu lực trong 1 tháng ở nhiệt độ thường Theo Trần Đình Từ (1996), vắc xin HR-NDV (chủng V4) có hiệu lực miễn dịch tương đương vắc xin LaSota ở gà nuôi chăn thả.

Theo lịch sử sử dụng vắc xin Phan Văn Lục (1994), cần tiêm 2 lần vắc xin LaSota vào ngày 7 và 21-28, cùng với 2 lần tiêm Newcastle Hệ I vào 50-58 ngày và 133-140 ngày tuổi Kiểm tra hiệu giá HI của đàn gà: nếu nhỏ hơn 2log2, gà không được bảo hộ và cần tiêm vắc xin lặp lại; nếu trong khoảng 2-3log2, cần kiểm tra lại sau 1 tháng Nếu hiệu giá HI không thay đổi hoặc giảm, cũng cần tiêm lại Đàn gà chỉ được bảo hộ khi hiệu giá HI đạt từ 3log2 trở lên và tỷ lệ chuyển dương đạt 90% Theo Trương Quang (2005), đàn gà trên ba tháng tuổi nên được cho uống vắc xin LaSota 3 lần.

7, 21 và 35 ngày tuổi sẽ an toàn bệnh Newcastle

Bất chấp những cố gắng của toàn dân và cộng đồng, đa dạng vắc xin, dịch

Vấn đề kháng thể thụ động được coi là nguyên nhân làm giảm hiệu quả phòng bệnh của vắc xin Newcastle, đặc biệt ở gà nuôi thả vườn (Trần Ngọc Bích & cs., 2016) Biến chủng và đa dạng kháng nguyên cũng góp phần vào tình hình này Theo báo cáo gần đây của Viện Thú Y, virus Newcastle tại Việt Nam chủ yếu thuộc genotype VII, bên cạnh ba genotype khác là II, III và VIII Mặc dù vậy, các genotype này vẫn có khả năng phản ứng miễn dịch chéo với huyết thanh từ virus chủng LaSota ở các mức độ khác nhau (4-7log2HI), cho thấy khả năng trốn thoát miễn dịch có thể tồn tại ở tỷ lệ nhỏ (Bùi Ngọc Anh, 2013).

G iới thiệu chung về bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm

Lịch sử bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm trên thế giới

Bệnh được phát hiện lần đầu tiên ở bang Dakota, Mỹ vào năm 1930 và sau Thế chiến thứ 2, đã lan rộng ra châu Âu, với trường hợp đầu tiên ở Anh vào năm 1948 được xác định là chủng Massachusetts Từ đó, bệnh đã truyền sang châu Á và châu Phi Jungherr và cộng sự đã báo cáo về việc phân lập chủng Massachusetts vào năm 1941 và chủng Connecticut vào năm 1951, mặc dù cả hai chủng này gây ra các ca bệnh tương tự nhưng không có sự bảo vệ hay trung hòa chéo Nghiên cứu của Winterfield & Hitchner vào năm 1962 cho thấy một số chủng virus IB có thể gây ra hội chứng viêm thận, dẫn đến việc phân lập chủng Nephropathogenic dòng Gray và Holte.

Virus IB lần đầu tiên được phân lập tại Malaysia vào năm 1967 Gần đây, nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã được thực hiện ở các quốc gia khác nhau, cho thấy ngoài serotype Mass, còn có các serotype khác như 4/91, đã được phát hiện ở Trung Quốc và Đài Loan (Yu & cs., 2001) Serotype 4/91 cũng đã được phân lập gần đây ở Nhật Bản (Shimazaki & cs., 2008).

Tỷ lệ gà mắc bệnh IB tại Iran và Jordan lần lượt là 84% và 58,8% (Seyfi & cs., 2004; Roussan & cs., 2009), trong khi các chủng như Massachusetts và Connecticut ở Brazil, Argentina, Honduras không bảo vệ được cho chủng lưu hành (Wit & cs., 2011) Tất cả gà trong đàn đều có thể nhiễm bệnh, nhưng tỷ lệ chết khác nhau tùy thuộc vào độc lực của serotype, lứa tuổi, tình trạng miễn dịch và các yếu tố stress Khi mắc bệnh kế phát, tỷ lệ chết có thể lên tới 20 - 30% ở gà dưới 6 tuần tuổi Đối với gà đẻ, nhiễm IBV làm giảm chất lượng và sản lượng trứng từ 10 - 50% Chủng IBV Nephropathogenic có ái lực mạnh trên thận, gây tỷ lệ chết lên đến 25% ở gà thịt.

Lịch sử bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm tại Việt Nam

Năm 1999, Bùi Trần Anh Đào đã tiến hành khảo sát sự lây nhiễm virus gây bệnh IB trên đàn gà thịt tại thành phố Hồ Chí Minh và từ đó đã đề xuất một chương trình tiêm vắc xin phòng bệnh hiệu quả.

Năm 1996, Trần Thanh Vân đã nghiên cứu bệnh IB trên đàn gà bố mẹ giống thịt Hubbard High – Yield tại trại Ando và Bắc Sơn, phát hiện sự hiện diện của hai biến chủng virus IB 4/91 (serotype 793B) và CR88 (serotype Mass) Báo cáo cho thấy bệnh này gây ảnh hưởng đến sự giảm đẻ của hai biến chủng virus trên.

Nghiên cứu của Võ Thị Trà An và cộng sự (2012) đã phân lập và xác định serotype virus Viêm phế quản truyền nhiễm từ gà thịt tại Việt Nam, với hai serotype được phát hiện là serotype 793B (dòng 4/91) và serotype Mass (dòng H120).

Virus gây bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm

IBV là một ARN virus, virion có kích thước từ 70 - 120nm, vỏ lipit nên dễ bị tiêu diệt bởi các chất làm tan mỡ (Nguyễn Bá Hiên, 2013)

Virus IB có cấu trúc bao gồm các protein đặc hiệu như Protein gai S (Spike), Protein vỏ E (Envelope), Protein màng M (Membrain) và Protein nhân N (Nucleocapsid), mỗi loại đảm nhiệm vai trò khác nhau trong sự gắn kết, sao chép và gây bệnh Trong đó, protein M là protein màng đa dạng nhất, có vai trò quan trọng trong lắp ráp coronavirus thông qua tương tác với ribonucleocapsid và glycoprotein Protein N liên kết với ARN gen để tạo thành phức hợp ribonucleprotein xoắn ốc (RNP), hỗ trợ quá trình sao chép và nhân bản bộ gen virus Phần S1 của glycoprotein rất quan trọng trong việc gắn kết và xâm nhập virus vào tế bào qua các thụ thể, đồng thời là yếu tố quyết định sự đa dạng của virus và khả năng bảo vệ miễn dịch.

Virus IB có thể nuôi cấy trên phôi gà, trên môi trường tế bào và trên môi trường nuôi cấy tổ chức khí quản

Virus IB phát triển mạnh mẽ trên phôi gà 9-10 ngày tuổi khi được gây nhiễm vào xoang niệu nang, với mật độ virus cao nhất xuất hiện trong nước trứng sau 1-2 ngày Trong những lần gây nhiễm đầu tiên, virus thường không gây chết phôi hoặc chỉ gây chết rất ít, với các bệnh tích không điển hình Tuy nhiên, tỷ lệ chết phôi gia tăng theo số lần tiếp đời, và đến lần thứ 10, virus có khả năng làm chết 100% phôi Nếu tiếp tục nuôi cấy nhiều đời trong môi trường này, virus sẽ có những biến đổi đáng kể về mặt kháng nguyên, từ đó có thể được sử dụng để chế tạo vắc xin.

Virus IB gây ra các bệnh tích nghiêm trọng ở phôi, bao gồm sự phát triển chậm, còi cọc, và hiện tượng cuộn tròn với hai chân ép lên đầu Ngoài ra, virus này còn dẫn đến tình trạng suy nhược cơ bắp, lắng đọng urat trong thận, và làm giảm lượng nước trứng, khiến thai và màng thai dính sát với nhau.

Vào năm 1973, Gillette đã thành công trong việc cấy chuyển virus IB vào môi trường tế bào CEK Để virus tạo ra bệnh lý tế bào điển hình (CPE), cần thực hiện cấy chuyển nhiều lần trên môi trường CEK, mặc dù các plaque có thể được phát hiện ngay từ lần cấy chuyển đầu tiên thông qua nhuộm màu Hiệu giá virus trên môi trường CEK khác nhau giữa các chủng, và kích cỡ, hình thái của các plaque cũng biến đổi tùy thuộc vào chủng và nhiệt độ nuôi cấy; cụ thể, nuôi cấy ở 40°C thường cho ra các plaque lớn hơn so với ở 37°C.

Khi nuôi cấy virus IBV trên môi trường tế bào CEK và CK, virus đạt hiệu giá tối đa trong khoảng thời gian 14 – 36 giờ, với đỉnh điểm ở 36 giờ sau khi nhiễm Các chủng virus IB đã được cấy chuyển trên phôi gà và môi trường tế bào CK có khả năng nhân lên trong môi trường tế bào xơ phôi gà, nhưng hiệu giá thấp hơn vài log10 so với tế bào CK Sự hiện diện của trypsin trong môi trường nuôi cấy tế bào làm tăng cường sự hình thành các plaque Virus phát triển nhanh chóng trong môi trường tế bào CK và tách khỏi bề mặt nuôi cấy dưới dạng các quả cầu phát huỳnh quang Một số chủng virus IB, như chủng Beaudette, có khả năng phát triển trên tế bào thận khỉ đơn dòng Vero và được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu cơ bản về virus IB.

Năm 1979, Darbyshire đã báo cáo kết quả gây nhiễm virus Viêm phế quản truyền nhiễm vào tổ chức khí quản và một số mô khác của gà Tác giả sử dụng tổ chức khí quản của phôi gà 20 ngày tuổi, nuôi cấy trong các chai lăn, và sau khi gây nhiễm virus IB, các biến đổi trên môi trường tổ chức có thể quan sát dễ dàng bằng kính hiển vi sau 3-4 ngày Việc nuôi cấy virus vào tổ chức khí quản đã giúp phân lập virus, chuẩn độ xác định hiệu giá và xác định loại virus một cách chính xác hơn.

Virus IB có sức đề kháng yếu, nên các dung dịch sát trùng thông thường như axit phenic 1% và formon 1% có thể tiêu diệt virus này nhanh chóng Tuy nhiên, những môi trường bị nhiễm virus có khả năng giữ lại mầm bệnh trong thời gian dài.

Truyền nhiễm học của bệnh

Gà ở mọi lứa tuổi và giống đều dễ nhiễm virus IB, nhưng mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào độ tuổi Gà con dưới 6 tuần tuổi rất nhạy cảm với bệnh, dẫn đến tỷ lệ chết cao hơn so với những lứa tuổi lớn hơn.

Gà lớn có sức đề kháng cao hơn, dẫn đến biểu hiện bệnh nhẹ và tỷ lệ chết thấp, nhưng thời gian bệnh kéo dài làm giảm hiệu quả kinh tế chăn nuôi Tình trạng bệnh cũng phụ thuộc vào điều kiện chăn nuôi và sức khỏe tổng thể của gà Bệnh lây lan nhanh chóng trong môi trường nuôi nhốt có mật độ cao và vệ sinh kém Nếu đàn gà mắc các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp như mycoplasmosis hay đậu, bệnh thường nặng hơn và tỷ lệ chết cao.

Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp khi gà bệnh hắt hơi, phát tán virus ra không khí, khiến gà lành hít phải và mắc bệnh Virus còn tồn tại trong không khí, bám vào thức ăn, nước uống và dụng cụ chăm sóc, xâm nhập vào cơ thể gà qua đường tiêu hóa Ngoài ra, bệnh còn có thể truyền qua trứng, với mầm bệnh vẫn được phát hiện trong trứng của gà đẻ sau khi đã hồi phục khoảng 1,5 tháng.

Khi virus xâm nhập vào cơ thể, chúng ký sinh và sinh sản trong các tế bào biểu mô hô hấp, dẫn đến sự thoái hóa và chết của các tế bào này Virus làm tổn thương thành huyết quản, gây tăng tiết dịch và thâm nhiễm tế bào lympho, khiến gà khó thở Khi triệu chứng bệnh rõ ràng, virus có thể được phát hiện trong nguyên sinh chất và nhân tế bào thượng bì niêm mạc mũi, phế quản, phế nang, và một số phủ tạng như gan, lá lách Trong thể mạn tính, bệnh ảnh hưởng đến cơ quan sinh dục, gây biến đổi tổ chức của cơ quan này Ở thể thận, virus gây viêm thận cấp hoặc mạn tính.

Triệu chứng, bệnh tích bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm

Trong tự nhiên, thời gian nung bệnh từ 2 – 3 ngày, khi gây bệnh thí nghiệm thời gian nung bệnh ngắn hơn

Bệnh ở gà con thường nặng, với dấu hiệu cảm mạo xuất hiện đồng loạt trong đàn, khiến gà mệt mỏi, kém ăn, sổ mũi, chảy nước mắt và hay hắt hơi Gà con có xu hướng tách đàn, tập trung thành đám và rúc đầu vào cánh trong trạng thái run rẩy Giai đoạn sau, bệnh viêm lan sâu vào đường hô hấp dưới, gây tích tụ dịch thẩm xuất và làm gà khó thở, kéo dài đến 2 tuần và có thể dẫn đến chết do ngạt thở (Cumming, 1969) Ở gà trên 6 tháng tuổi, triệu chứng cảm cúm thường không rõ ràng, chỉ có viêm nhẹ ở phần sau đường hô hấp, do đó hiện tượng khó thở không điển hình Gà đẻ bị bệnh thường giảm sản lượng trứng, một số ngừng đẻ hẳn, trứng có thể bị biến dạng, giòn và dễ vỡ (Eck., 2013) Trong một số trường hợp nặng ở gà lớn, có hiện tượng phù đầu, và bệnh có thể kế phát các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp.

Mycoplasma và một số loại virus khác, bệnh sẽ diễn biến phức tạp và nặng hơn 2.2.5.2 Bệnh tích

Bệnh tích ở gà con chủ yếu tập trung ở hệ thống hô hấp, với gà trên 1 tháng tuổi và gà lớn có bệnh tích ở phần sau đường hô hấp Niêm mạc mũi và khí quản bị sung huyết, phù nề, phủ một lớp niêm dịch nhớt và bọt Niêm mạc phế quản và lòng phế nang cũng bị sung huyết, chứa dịch thẩm xuất có fibrin, có thể gây tắc nghẽn khí quản và phế quản Ở gà đẻ bị bệnh, buồng trứng teo lại, ống dẫn trứng ngắn và không phát triển, dẫn đến trứng non bị vỡ trong xoang bụng.

Phương pháp chẩn đoán bệnh

- Chẩn đoán phân biệt: Cần phân biệt với một số bệnh đường hô hấp ở gà như: bệnh IBD, bệnh mycoplasmosis, bệnh Newcastle thể mạn tính…

Chẩn đoán huyết thanh học đã từng sử dụng các xét nghiệm như phản ứng trung hòa virus (VNT) và phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI) để phát hiện và phân loại các dòng virus IB, cũng như đánh giá mức độ miễn dịch của đàn gà sau tiêm chủng (Ignjatovic & cs., 2002; King & cs., 1991) Xét nghiệm ELISA cũng là một công cụ hữu ích để theo dõi đáp ứng kháng thể sau khi chủng ngừa hoặc tiếp xúc với mầm bệnh Tuy nhiên, do các serotyp khác nhau của virus IB không phản ứng chéo với các kháng huyết thanh thông thường, nên xét nghiệm huyết thanh học không đủ để phân lập các chủng và biến thể mới của virus IB.

Chẩn đoán virus học là rất quan trọng, trong đó việc phân lập virus được coi là tiêu chuẩn vàng cho chẩn đoán virus IB Để đạt được thành công trong việc phân lập IBV, việc lấy mẫu trong giai đoạn đầu của bệnh và áp dụng các kỹ thuật lấy mẫu chính xác là rất cần thiết Khi lấy mẫu dịch tiết bằng miếng gạc, cần đặt miếng gạc trong dung dịch đệm PBS trước khi vận chuyển đến phòng thí nghiệm Đối với mẫu bệnh phẩm là mô như khí quản, thận, hoặc ống dẫn trứng, cần lấy mẫu vô trùng ngay sau khi gà chết, sau đó cho vào túi mẫu niêm phong kín và vận chuyển đến phòng thí nghiệm với điều kiện bảo quản lạnh.

Mẫu bệnh phẩm được chế thành huyễn dịch chứa virus và được nuôi cấy trên phôi gà hoặc môi trường tổ chức khí quản Sau 48 - 72 giờ gây nhiễm trên phôi gà, dịch ối thu được sẽ được làm lạnh qua đêm và kiểm tra sự hiện diện của virus IB bằng các phản ứng huyết thanh học hoặc xét nghiệm RT-PCR.

Có thể quan sát những bệnh tích điển hình của phôi như uốn cong và lùn, phôi dính chặt vào màng.

Vắc xin phòng bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm

Hiện nay trên thị trường có cả hai loại vắc xin nhược độc và vô hoạt dùng phòng bệnh Viêm phế quyển truyền nhiễm

Vắc xin nhược độc được sử dụng cho gà broiler ngay từ 1 ngày tuổi và là lựa chọn đầu tiên để phòng ngừa bệnh IB cho đàn gà giống và gà đẻ Các chủng virus trong vắc xin được cấy truyền nhiều lần qua phôi gà, đảm bảo hiệu quả phòng bệnh Vắc xin có thể được áp dụng bằng cách nhỏ mắt, nhỏ mũi hoặc nhỏ vào khí quản Đối với số lượng gà lớn, phương pháp phun sương hoặc cho uống là lựa chọn thích hợp để tiêm phòng.

Vắc xin vô hoạt được sử dụng cho gà giống và gà đẻ trước chu kỳ đẻ trứng, những con gà này đã được miễn dịch cơ sở với vắc xin nhược độc Gà con có thể được tiêm vắc xin này từ 10 đến 18 tuần tuổi, tùy thuộc vào chương trình sử dụng vắc xin Virus cường độc được vô hoạt bằng formalin, beta propiolactone hoặc các hóa chất phù hợp khác, trong khi dầu khoáng thường được sử dụng làm chất bổ trợ trong vắc xin vô hoạt.

Tình hình nghiên cứu sản xuất vắc xin

Trên thế giới

Trên toàn cầu, sự phát triển của các sản phẩm vắc xin đa giá cho gia cầm đã đạt được những tiến bộ đáng kể nhờ nền tảng công nghệ nghiên cứu và sản xuất hiện đại Nhiều tập đoàn lớn như Merial, Intervet, Ceva, Zoetis, Bayer, Virbac, Boehringer và Medion đang sản xuất và phân phối các loại vắc xin này tại nhiều quốc gia, đáp ứng nhu cầu phòng bệnh cho gia cầm hiệu quả.

Các sản phẩm vắc xin đa giá phòng bệnh cho gia cầm có thể được nghiên cứu và sản xuất dưới dạng đông khô với các chủng nhược độc hoặc dạng vô hoạt Những vắc xin này sử dụng chất bổ trợ nhằm định hướng đáp ứng miễn dịch, tăng cường độ ổn định và kéo dài thời gian bảo hộ cho gia cầm.

Vắc xin nhược độc ND-IB là một loại vắc xin phổ biến, giúp phòng ngừa hai bệnh Newcastle và viêm phế quản truyền nhiễm Vắc xin này được sản xuất từ hai chủng virus nhược độc Newcastle B1 và IBV H120 hoặc Massachusetts, với chất nền đông khô là sữa gầy hoặc đường.

Vắc xin vô hoạt là sản phẩm quan trọng trong việc phòng bệnh cho gia cầm nuôi dài ngày và gia cầm sinh sản Nhiều công ty trên thế giới đã phát triển các loại vắc xin vô hoạt đa giá, như CEVAC® ND IB EDS K của công ty Veva (Pháp) giúp phòng bệnh ND, IB và Hội chứng giảm đẻ, hay CEVAC® ND IB IBD K phòng bệnh ND, IB và Gumboro Ngoài ra, các sản phẩm nổi bật khác bao gồm vắc xin Nobilis IB + G + ND (Intervet), vắc xin Pro-Vac 3 (Zoetis) và Medivac ND-IB-IBD Emulsion (Medion), đều đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe gia cầm.

Newcastle, IB và Gumoro.Vắc xin vô hoạt phòn 4 bệnh ND, IB, Gumboro, bệnh do Reovirus gây ra như: Pro-Vac 4 (Zoetis), Nobilis Reo + IB + G + ND(Intervet),

Vắc xin đa giá nhập ngoại đã được các đơn vị trong nước sớm nhập khẩu và phân phối tại Việt Nam nhờ vào sự đa dạng, tiện lợi, an toàn và hiệu quả Loại vắc xin này được đánh giá cao cho quy mô chăn nuôi tập trung, giúp giảm chi phí vắc xin và nhân công trong quá trình triển khai tiêm chủng.

Tại Việt Nam

Việc đầu tư vào nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin đa giá, đặc biệt là vắc xin phòng bệnh cho gia cầm, đang gặp nhiều hạn chế do nền tảng công nghệ kỹ thuật còn yếu Đầu tư vào dây chuyền công nghệ đạt tiêu chuẩn sản xuất vắc xin công nghệ cao yêu cầu chi phí lớn, trong khi phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các sản phẩm nhập khẩu đã có mặt sớm và được thị trường trong nước chấp nhận.

Tại Việt Nam, vắc xin đa giá cho gia cầm đã trở nên phổ biến, nhưng hầu hết đều là vắc xin nhập khẩu, chủ yếu từ các nước Đông Nam Á như Indonesia và Malaysia.

Vắc xin đa giá cho gia cầm đang thu hút sự quan tâm lớn từ các cơ sở khoa học và doanh nghiệp, với nhiều nghiên cứu và phát triển đang được đầu tư Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chủ yếu ở quy mô nhỏ và chưa được triển khai hiệu quả trong sản xuất lớn, gây khó khăn cho việc đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu Nghiên cứu của Nguyễn Hồng Minh (2012) về vắc xin nhược độc đa giá, kết hợp phòng ngừa ba bệnh Newcastle, Gumboro và viêm phế quản truyền nhiễm, được đánh giá cao về tính thực tiễn và khả thi trong việc áp dụng vào sản xuất và thương mại hóa.

N hững yêu cầu cơ bản để sản xuất vắc xin vô hoạt nhị giá ND-IB

Yêu cầu Chủng giống sản xuất

Chất lượng vắc xin phụ thuộc đầu tiên vào sự phù hợp của chủng, với nguồn chủng được chọn dựa trên sự tương đồng kháng nguyên với các chủng thực địa Nghiên cứu này tập trung vào việc thiết lập quy trình công nghệ sản xuất vắc xin nhị giá, sử dụng hai loại virus ND chủng LaSota và virus IB chủng H120.

- Virus Newcastle được biết đến là virus thuộc Avian paramyxovirus 1, trong đó, virus có thể được phân loại dựa trên độc lực của virus gây ra cho gà

Dựa vào trình tự gen của virus Newcastle, đã xác định 9 genotype thông qua phân tích cây phả hệ Các chủng nhược độc như Ulster, LaSota, B1 thuộc genotype I và II Mặc dù có sự khác biệt về genotype, tất cả các chủng virus Newcastle hiện tại đều thuộc 1 serotype duy nhất, cho phép kháng thể đặc hiệu có thể trung hòa virus Newcastle khác Kháng thể trung hòa được sinh ra từ sự kích thích của 2 loại protein cấu trúc chính HN và F của virus Newcastle, do đó, cả các chủng virus độc lực cao và thấp đều kích thích cơ thể sản sinh kháng thể này.

Nghiên cứu về vắc xin nhược độc Newcastle với chủng LaSota cho thấy khả năng kích thích đồng bộ miễn dịch cục bộ (IgA) tại tế bào và miễn dịch dịch thể (IgA/IgM/IgG) trong huyết thanh Ngược lại, vắc xin vô hoạt sử dụng chủng nhược độc tự nhiên chỉ kích thích tạo miễn dịch dịch thể trong huyết thanh (IgM/IgG) (Al-Garib & cs., 2003).

Theo khuyến cáo của OIE, việc sử dụng các chủng nhược độc như LaSota, Ulster, Hitcher B1, hoặc các chủng độc lực vừa như Mustekwar để chế tạo vắc xin nhược độc cho gia cầm là rất quan trọng Trong sản xuất vắc xin vô hoạt, việc lựa chọn chủng có khả năng tạo ra lượng kháng nguyên lớn trên phôi trứng là yếu tố then chốt Cả chủng độc lực cao và chủng độc lực thấp đều có thể được sử dụng để sản xuất vắc xin vô hoạt, tuy nhiên, không nhất thiết phải chọn các chủng độc lực cao khi nguy cơ trong sản xuất có thể cao hơn so với các chủng độc lực thấp.

Theo Quyết định 93/152/EEC của Hội đồng chung Châu Âu, tất cả các chủng virus Newcastle dùng để sản xuất vắc xin tại các quốc gia thành viên phải có chỉ số độc lực ICPI dưới 0.7 Các chủng virus phổ biến được sử dụng làm vắc xin bao gồm Hitchner B1, LaSota, F và Ulster.

Chủng LaSota được sử dụng để sản xuất vắc xin vô hoạt, đảm bảo kích thích cơ thể sản sinh kháng thể trung hòa tất cả các chủng virus Newcastle cường độc Virus Newcastle chủng LaSota có khả năng nhân lên dễ dàng trên trứng gà có phôi, mang lại hiệu giá virus cao (11-12Log2 HA, > 10 9 EID50), giúp giảm giá thành sản phẩm và mở rộng đối tượng người dân tiếp cận Tuy nhiên, cần xác định hàm lượng kháng nguyên trong mỗi liều vắc xin để đảm bảo tạo kháng thể bảo hộ và thời gian bảo vệ gia cầm khỏi virus Newcastle.

Virus IB có hơn 100 chủng thuộc các serotype khác nhau đang lưu hành, gây khó khăn trong việc phòng bệnh bằng vắc xin Chủng Massachusetts của virus IB được sử dụng phổ biến do hiệu quả cao Virus IB - H120 có khả năng nhân lên trong trứng gà có phôi, giúp sản xuất một lượng lớn kháng nguyên và đạt hiệu giá virus cao, do đó, chủng H120 được chọn làm giống vắc xin trong nghiên cứu này.

Yêu cầu kháng nguyên

Vắc xin nhị giá mang lại tính cạnh tranh miễn dịch giữa các kháng nguyên, nhưng việc sử dụng đúng liều và tỉ lệ của từng kháng nguyên sẽ nâng cao hiệu quả đáp ứng miễn dịch Do đó, cần xác định nghiệm thức cụ thể cho việc kết hợp 2 loại kháng nguyên ND và IB trong cùng một vắc xin Đầu tiên, cần đánh giá hiệu quả riêng biệt của từng kháng nguyên, sau đó tiến hành phối trộn và kiểm tra các tổ hợp khác nhau để đánh giá tính phù hợp Cuối cùng, việc phối trộn 2 loại kháng nguyên sẽ giúp xác định công thức tối ưu cho vắc xin nhị giá.

Yêu cầu chất bất hoạt

Việc chọn lựa chất bất hoạt phù hợp là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng vắc xin Hiện nay, có nhiều loại chất bất hoạt được sử dụng để tiêu diệt virus, bao gồm Formalin (Sherif, 2005), BEI, và beta-probiobacton (Razmarai & cs., 2012).

Yêu cầu chất bổ trợ

Chất bổ trợ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng đáp ứng miễn dịch của vắc xin, đặc biệt là đối với gia cầm Chúng không chỉ đảm bảo an toàn mà còn kéo dài thời gian miễn dịch và thuận tiện cho quá trình sản xuất và sử dụng Hiện nay, vắc xin vô hoạt sử dụng hai loại chất bổ trợ chính là keo phèn và nhũ dầu (dầu khoáng).

2.4.4.1 Chất bổ trợ keo phèn

Keo phèn, một dạng gel kết tủa hydroxit nhôm, là hợp chất lưỡng tính không độc hại và không gây kích ứng cho cơ thể Khi được sử dụng trong vắc xin, keo phèn có khả năng hấp phụ và tập trung các yếu tố kháng nguyên lên bề mặt, giúp giải phóng chúng từ từ để kích thích hệ miễn dịch Nhờ vào tính chất khó hấp thu và tồn tại lâu dài tại vị trí tiêm, keo phèn ngăn chặn sự phá hủy và đào thải nhanh chóng các yếu tố kháng nguyên, kéo dài thời gian sản sinh đáp ứng miễn dịch so với các loại vắc xin không có chất bổ trợ.

Trong thú y, chất bổ trợ AlK(SO4)2.12H2O (gọi là keo phèn) được sử dụng trong sản xuất vắc xin vi khuẩn vô hoạt

2.4.4.2 Chất bổ trợ nhũ dầu

Trong sản xuất vắc xin, nhũ dầu có thể được tạo ra từ dầu khoáng, dầu thực vật hoặc hợp chất hữu cơ tổng hợp, kết hợp với chất hoạt động bề mặt đặc biệt Sự kết hợp này hỗ trợ hình thành các hạt vi thể nhũ dầu, và tùy thuộc vào loại nhũ dầu, sẽ tạo ra các cơ chế tác dụng khác nhau đối với vắc xin.

Vắc xin dạng W/O (water in oil) là loại vắc xin nhũ dầu phổ biến và hiệu quả nhất hiện nay Trong sản phẩm vắc xin W/O, các phần tử huyễn dịch chứa yếu tố kháng nguyên được bao bọc bởi các hạt vi nhũ Khi tiêm vào cơ thể, các hạt vi nhũ sẽ từ từ tách ra dưới tác động của dịch mô bào, giải phóng yếu tố kháng nguyên để kích thích hệ thống miễn dịch, từ đó tạo ra đáp ứng miễn dịch cần thiết.

Dạng O/W (oil in water) là một loại nhũ dầu, trong đó các phần tử huyễn dịch chứa yếu tố kháng nguyên liên kết, tập trung xung quanh phân tử dầu Phân tử dầu nằm ở vị trí trung tâm, với các yếu tố kháng nguyên bao quanh, tạo thành cấu trúc nhũ tương đặc trưng.

Dạng W/O/W là một loại nhũ tương kép, trong đó các phân tử dầu tạo thành liên kết kép nhằm bao bọc các yếu tố kháng nguyên Đồng thời, chúng cũng tạo ra liên kết để giữ kháng nguyên xung quanh các hạt vi nhũ, giúp tăng cường hiệu quả của các thành phần này trong ứng dụng.

Vắc xin vô hoạt nhũ dầu có tốc độ phóng thích kháng nguyên chậm, dẫn đến thời gian sinh đáp ứng miễn dịch kéo dài hơn so với vắc xin keo phèn Tuy nhiên, quy trình phối chế của loại vắc xin này phức tạp, yêu cầu trang thiết bị phù hợp và chi phí sản xuất lớn, do đó giá thành vắc xin cũng cao.

Nghiên cứu này tập trung vào việc sản xuất vắc xin vô hoạt với hai loại virus, trong đó dầu khoáng Montanide được sử dụng làm chất bổ trợ để phối trộn vắc xin.

PHẦN 3 VẬT LIỆUVÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng/vật liệu nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu

P hương pháp nghiên cứu

Kết quả Khảo sát đặc tính sinh học của chủng giống để sản xuất vắc xin

Kết quả xác định liều cơ bản vắc xin đơn giá

Kết quả Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất vắc xin vô hoạt ND -IB

Kết quả kiểm nghiệm vắc xin vô hoạt ND -IB

K ết luận

Ngày đăng: 26/05/2022, 12:37

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1. Nghiệm thức phối trộn vắc xin - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 3.1. Nghiệm thức phối trộn vắc xin (Trang 43)
- Sơ đồ thực hiện được thể hiện ở Bảng 3.2. - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Sơ đồ th ực hiện được thể hiện ở Bảng 3.2 (Trang 44)
Bảng 3.3. Xác định chỉ số ICPI - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 3.3. Xác định chỉ số ICPI (Trang 46)
Gà được theo dõi trong 10 ngày liền, ghi chép và tính kết quả theo bảng 3.4. - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
c theo dõi trong 10 ngày liền, ghi chép và tính kết quả theo bảng 3.4 (Trang 46)
Bảng 3.5. Sơ đồ thực hiện phản ứng HI (haemagglutination inhibition) - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 3.5. Sơ đồ thực hiện phản ứng HI (haemagglutination inhibition) (Trang 53)
Bảng 4.1. Kết quả xác định hiệu giá virus ND chủng LaSota qua các tiếp đời - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.1. Kết quả xác định hiệu giá virus ND chủng LaSota qua các tiếp đời (Trang 55)
Bảng 4.2. Kết quả xác định hiệu giá virus Newcastle chủng LaSota - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.2. Kết quả xác định hiệu giá virus Newcastle chủng LaSota (Trang 56)
Kết quả bảng 4.2 cho thấy độ pha loãng virus càng thấp thì số phôi nhiễm càng giảm, số phôi không nhiễm càng tăng  và ngược lại - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
t quả bảng 4.2 cho thấy độ pha loãng virus càng thấp thì số phôi nhiễm càng giảm, số phôi không nhiễm càng tăng và ngược lại (Trang 57)
Bảng 4.4. Kết quả chỉ số độc lực IVPI virus LaSota trên gà 6 tuần tuổi - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.4. Kết quả chỉ số độc lực IVPI virus LaSota trên gà 6 tuần tuổi (Trang 58)
Bảng 4.5. Kết quả theo dõi tình trạng phôi gà sau gây nhiễm virus IB-H120 - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.5. Kết quả theo dõi tình trạng phôi gà sau gây nhiễm virus IB-H120 (Trang 59)
Bảng 4.6. Kết quả xác định hiệu giá giống IB-H120 ở đời 1 Độ  pha  loãng  virus Liều gây nhiễm (ml) Số trứng thí  nghiệm - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.6. Kết quả xác định hiệu giá giống IB-H120 ở đời 1 Độ pha loãng virus Liều gây nhiễm (ml) Số trứng thí nghiệm (Trang 60)
Bảng 4.7. Kết quả tổng hợp hiệu giá giống virus IB-H120 qua các tiếp đời - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.7. Kết quả tổng hợp hiệu giá giống virus IB-H120 qua các tiếp đời (Trang 61)
Bảng 4.8. Kết quả EID50 giống IB-H120 lầ n1 Độ  pha  loãng  virus Liều gây nhiễm (ml) Số trứngthí  nghiệm - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.8. Kết quả EID50 giống IB-H120 lầ n1 Độ pha loãng virus Liều gây nhiễm (ml) Số trứngthí nghiệm (Trang 62)
Bảng 4.9. Kết quả sản xuất kháng nguyên LaSota và IB-H120 Tên - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.9. Kết quả sản xuất kháng nguyên LaSota và IB-H120 Tên (Trang 63)
Bảng 4.10. Kết quả kiểm tra virus sau bất hoạt trên phôi trứng - Nghiên Cứu Sản Xuất Và Thử Nghiệm Vắc Xin Vô Hoạt Nhị Giá Nd-Ib Phòng Bệnh Newcastle Và Bệnh Viêm Phế Quản Truyền Nhiễm Ở Gia Cầm
Bảng 4.10. Kết quả kiểm tra virus sau bất hoạt trên phôi trứng (Trang 64)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w