TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Điều kiện cơ sở thực tập
Trang trại Nguyễn Văn Hiệp nằm ở xã Tân Kim, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm huyện Phú Bình 5km Huyện Phú Bình có 20 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Hương Sơn và 19 xã như Bàn Đại, Bảo Lý, Dương Thành, Đào Xá, Điền Thụy, Hà Châu, Kha Sơn, Lương Phú, Nga My, Nhã Lộng, Tân Đức, Tân Hòa, Tân Khánh, Tân Kim, Tân Thành, Thanh Ninh, Thường Đình, Úc Kỳ, và Xuân Phương.
Vị Trí của xã Tân Kim được xác định:
Xã Tân Kim nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, phía bắc giáp huyện Đồng Hỷ, phía đông tiếp giáp xã Tân Thành, đông nam giáp xã Tân Hoà, phía nam giáp thị trấn Hương Sơn và xã Xuân Phương, trong khi phía tây giáp xã Bảo Lý và xã Tân Khánh Tân Kim bao gồm 17 xóm, trong đó có xóm Xuân Lai.
Mỏn Thượng, Mỏn Hạ, Trạng Đài, Đồng Chúc, Tân Thái, Núi Chùa, Thòng Bong, Bạch Thạch, La Đuốc, Làng Trại, Làng Châu, Hải Minh, La Đao, Đèo Khê, Bờ La và Quyết Tiến là những địa danh nổi bật, mang đến sự phong phú về văn hóa và cảnh quan thiên nhiên của vùng đất này.
Dân số xã này vượt quá 7.192 người, nhưng phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các xóm có điều kiện giao thông thuận lợi như Xuân Lai, Bạch Thạch và Trạng Đài.
Hệ thống giao thông tại khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt là đoạn đường từ trường học về xóm Đèo Khê, với đường nhỏ hẹp và lầy lội gây khó khăn trong việc di chuyển Dù có đường nhựa từ trung tâm huyện đến xã, nhưng chỉ phục vụ cho các hộ dân gần đó Phần lớn giao thông vẫn dựa vào những con đường đất cũ kỹ, thiếu sự tu sửa Hệ thống điện cũng không ổn định, thường xuyên bị cúp điện và điện yếu vào buổi tối Mặc dù có đường điện cao thế 220 kV chạy qua, nhưng không được sử dụng, trong khi đường điện 10 kV chỉ phục vụ cho xã, dẫn đến điện áp không ổn định do nhu cầu sử dụng tăng cao.
Xã Tân Kim sở hữu hệ thống thủy lợi phong phú với nhiều hồ nước và ngòi, chủ yếu tập trung tại xóm Kim Đĩnh, làng Châu, Bạch Thạch và làng Trại Hồ lớn nhất, Hồ Kim Đĩnh, có diện tích 40ha, không chỉ mang lại tiềm năng về khai thác thủy sản mà còn cung cấp nước tưới tiêu cho một diện tích lớn đất nông nghiệp Hiện tại, Hồ Kim Đĩnh đang được phát triển thành một khu nghỉ dưỡng sinh thái, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho địa phương.
- Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhưng do địa hình nên khí hậu Thái Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
+ Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.
+ Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía nam huyện Võ Nhai.
+ Vùng ấm gồm: Thành phố Thái Nguyên, thành phố Sông Công, thị xã Phổ Yên và các huyện Đồng Hỷ, Phú Bình, Đại Từ.
- Nhiệt độ trung bình của Thái Nguyên là 25°C; chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9°C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2°C) là 13,7°C.
Thành phố Thái Nguyên ghi nhận nhiệt độ cao nhất là 41,5°C và thấp nhất là 3°C, với tổng số giờ nắng hàng năm từ 1.300 đến 1.750 giờ, phân bổ đều trong các tháng Khí hậu nơi đây có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5, với lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500 mm, cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1 Nhìn chung, khí hậu Thái Nguyên rất thuận lợi cho sự phát triển của ngành nông, lâm nghiệp.
Kinh tế xã Tân Kim đang trên đà phát triển mạnh mẽ, với sự hiện diện của nhiều hộ gia đình quy mô vừa và nhỏ cùng các trang trại lớn Nổi bật trong khu vực này là các xóm như Châu, Trại, và Kim Đĩnh, nơi có số lượng đàn gia súc và gia cầm đáng kể, góp phần vào sự phát triển kinh tế địa phương.
2.1.4 Cơ cấu tổ chức của trại
Trang trại có cơ cấu tổ chức như sau:
- Quản lý trang trại gồm 01 người.
- 03 sinh viên thuộc trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
- 01 sinh viên Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam.
2.1.5 Cơ sở vật chất của trại
Trại được xây dựng từ năm 2015, ký hợp đồng gia công cho công ty Dabaco và sau 4 năm, tiếp tục hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp nhỏ Với quy mô khoảng 3ha, trong đó 2.5ha phục vụ mục đích kinh tế, trang trại bao gồm nhiều công trình như 1 chuồng bầu, 1 chuồng cách ly, 3 chuồng đẻ, 1 chuồng cai sữa, 2 ao cá lớn, 1 chuồng gà và các đồi cây ăn quả bòng và na Toàn bộ khu vực được bao quanh bằng hàng rào che chắn, tạo sự an toàn cho hoạt động chăn nuôi.
Khu vực sản xuất của trung tâm được xây dựng trên địa hình cao ráo, tách biệt với khu dân cư và có hệ thống hố sát trùng để ngăn ngừa dịch bệnh Chuồng nuôi được thiết kế theo hướng Đông Nam, đảm bảo sự thông thoáng vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông, với mái chuồng xuôi hai bên giúp tránh ứ đọng nước Trong chuồng bầu có 7 dãy, mỗi dãy gồm 74 ô, với ô rộng ở đầu và cuối để nhốt lợn đực, phục vụ thử lợn nái lên giống và điều trị lợn mắc bệnh nặng Các ô chuồng được thiết kế có sàn và lối đi ở giữa, trong khi phía trên là chuồng cách ly với 5 ô rộng.
Chuồng 24m² được thiết kế đa năng, phục vụ nhiều mục đích như nuôi nái hậu bị, nuôi đực hậu bị, chăm sóc lợn bệnh và nuôi lợn thịt Dưới chuồng bầu, có khu vực dành riêng cho lợn nái đẻ, đảm bảo môi trường sống tốt cho vật nuôi.
Trại chăn nuôi lợn được thiết kế với ba chuồng nối tiếp nhau, mỗi chuồng bao gồm hai dãy, mỗi dãy có 36 ô Bên cạnh chuồng đẻ thứ ba là chuồng cai sữa, nơi nuôi lợn con sau khi cai sữa Ngoài ra, trại còn có một kho cám nằm ở đầu cổng vào, phục vụ cho việc chăm sóc lợn.
Các ô chuồng nuôi lợn được thiết kế với sàn bê tông và trang bị đầy đủ hệ thống chiếu sáng, dẫn nước tự động, làm mát và hút mùi bằng quạt công nghiệp Mùa đông, chuồng có bóng đèn hồng ngoại để sưởi ấm, trong khi chuồng đẻ có dàn mát được điều chỉnh theo nhiệt độ môi trường Nước sạch được lấy từ giếng khoan và dẫn đến bể chứa, cung cấp nước uống tự động cho lợn qua hệ thống bơm hoạt động liên tục Nước tắm và rửa chuồng hàng ngày cũng được cung cấp qua máy bơm thiết kế riêng.
Hệ thống điện: Hệ thống điện lưới riêng biệt với 1 trạm hạ thế riêng, ngoài ra trại còn 1 máy phát điện dự phòng.
Phòng kỹ thuật được trang bị đầy đủ các dụng cụ chăn nuôi thú y thiết yếu như xilanh, panh, dao mổ, kim tiêm, kìm bấm số tai, kìm cắt đuôi, máy mài nanh, bình phun thuốc sát trùng, tủ thuốc thú y và tủ lạnh bảo quản vắc xin, cùng với thùng đựng vắc xin.
Khu nhà ăn và nhà ở của công nhân được xây dựng cách chuồng bầu 20m, tạo không gian sống gọn gàng và sạch sẽ Khu vực này bao gồm 5 phòng ở, 1 nhà bếp và 5 nhà vệ sinh, phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của công nhân viên trong trang trại.
Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề
2.2.1 Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái
2.2.1.1 Sự thành thục về tính và thể vóc
- Sự thành thục về tính:
Tuổi thành thục về tính là giai đoạn mà con vật bắt đầu có phản xạ tính dục và khả năng sinh sản Ở giai đoạn này, bộ máy sinh dục của gia súc đã phát triển hoàn thiện, dẫn đến việc con cái xuất hiện hiện tượng động dục và con đực có phản xạ giao phối.
Sự thành thục về tính của lợn sớm hay muộn phụ thuộc vào: Giống, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, khí hậu, chuồng trại
Các giống khác nhau có thời gian thành thục tính cách khác nhau Những giống được thuần hóa sớm thường có tính thành thục nhanh hơn so với những giống thuần hóa muộn Bên cạnh đó, những giống có kích thước nhỏ thường đạt độ thành thục sớm hơn so với những giống có kích thước lớn.
Theo nghiên cứu của Phạm Hữu Doanh (2003), tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) diễn ra sớm, từ 4 - 5 tháng tuổi khi khối lượng đạt 20 – 25 kg Đối với lợn nái lai, tuổi động dục lần đầu muộn hơn, bắt đầu từ 6 tháng tuổi với khối lượng cơ thể 50 – 55 kg Trong khi đó, lợn ngoại có tuổi động dục muộn hơn so với lợn lai, thường vào khoảng 6 - 7 tháng tuổi khi khối lượng đạt 60 – 80 kg Tuổi động dục lần đầu có thể khác nhau tùy thuộc vào giống lợn, điều kiện chăm sóc và quản lý Cụ thể, lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào khoảng 4 - 5 tháng (121 - 158 ngày tuổi), trong khi các giống lợn ngoại như Yorkshire và Landrace có tuổi động dục muộn hơn.
Chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn cái Theo John Nichl (1992), lợn được chăm sóc tốt sẽ thành thục sớm hơn so với lợn nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém Cụ thể, lợn nái được nuôi dưỡng tốt thường đạt độ tuổi thành thục trung bình là 188,5 ngày (khoảng 6 tháng tuổi) với khối lượng cơ thể 80 kg, trong khi lợn bị hạn chế thức ăn có thể mất đến 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi) và chỉ đạt 48,4 kg Dinh dưỡng thiếu hụt làm chậm sự thành thục do tác động tiêu cực lên tuyến yên và hormone hướng dục, trong khi dinh dưỡng thừa cũng gây ảnh hưởng xấu do tích lũy mỡ quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục, làm giảm chức năng bình thường và ảnh hưởng đến mức độ hormone oestrogen và progesterone cần thiết cho sự thành thục.
Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng có ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi động dục của lợn nái, theo Dwane R Zimmeman và Edepurkhiser (1992) Cụ thể, lợn nái hậu bị thường thành thục chậm hơn vào mùa hè so với mùa thu - đông, nguyên nhân có thể là do nhiệt độ trong chuồng nuôi cao dẫn đến mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng Ngoài ra, những con lợn được chăn thả tự do có xu hướng xuất hiện thành thục sớm hơn so với những con nuôi nhốt trong chuồng.
Mùa đông có thời gian chiếu sáng trong ngày ngắn hơn so với mùa xuân (14 ngày) và mùa thu (17 ngày), dẫn đến sự chậm lại trong quá trình trưởng thành của các sinh vật Ánh sáng tự nhiên và ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày cũng ảnh hưởng đến sự phát triển này.
- Tuổi thành thục về tính của gia súc:
Tuổi thành thục về tính của động vật thường đến sớm hơn so với tuổi thành thục về thể vóc, nghĩa là sau khi đạt đến độ chín về tính, chúng vẫn tiếp tục phát triển về kích thước Đây là một yếu tố quan trọng trong chăn nuôi Theo Phạm Hữu Doanh (2003), không nên cho động vật phối giống trong lần động dục đầu tiên vì lúc này cơ thể chưa phát triển đầy đủ, chưa tích lũy đủ chất dinh dưỡng để nuôi thai, và trứng cũng chưa chín hoàn toàn Để đạt hiệu quả sinh sản tốt và duy trì nòi giống bền vững, cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục đầu tiên trước khi tiến hành phối giống.
- Sự thành thục về thể vóc:
Theo Nguyễn Đức Hùng và cộng sự (2003), tuổi thành thục về thể vóc là giai đoạn mà lợn phát triển ngoại hình và thể chất đạt mức hoàn chỉnh, thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính, được đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu Trong giai đoạn này, nếu cho lợn giao phối quá sớm, có thể dẫn đến việc thụ thai nhưng không đảm bảo cho sự phát triển của bào thai, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng con non và năng suất sinh sản sau này Đối với lợn cái nội, nên cho phối giống khi đạt 7 - 8 tháng tuổi và khối lượng 40 - 50 kg, trong khi lợn ngoại nên được phối khi đạt 8 - 9 tháng tuổi và khối lượng 100 kg.
110 kg mới nên cho phối.
Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp diễn ra khi cơ thể đã phát triển hoàn chỉnh và không có bào thai hay bệnh lý Trong buồng trứng, noãn bao phát triển, chín và được thải ra ngoài Đồng thời, cơ quan sinh dục và toàn bộ cơ thể trải qua nhiều biến đổi về cấu trúc và chức năng sinh lý Những biến đổi này lặp đi lặp lại theo chu kỳ, tạo nên chu kỳ tính.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993), chu kỳ sinh sản của lợn nái thường diễn ra trong khoảng 19 - 21 ngày Thời gian động dục kéo dài từ 3 - 4 ngày đối với lợn nội và 4 - 5 ngày đối với lợn lai, lợn ngoại Chu kỳ này được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn trước khi chịu đực, giai đoạn chịu đực và giai đoạn sau chịu đực.
Trước khi lợn nái chịu đực, chúng thường phát ra tiếng kêu rít và có hiện tượng xung huyết ở âm hộ, nhưng chưa thể phối giống Thời gian rụng trứng của lợn ngoại và lợn nái lai dao động từ 35 đến 40 giờ, trong khi lợn nội có thời gian rụng trứng ngắn hơn, từ 25 đến 30 giờ.
Trong giai đoạn chịu đực, lợn sẽ có những biểu hiện như ăn kém, đứng yên khi được ấn tay lên lưng gần mông, âm hộ giảm độ sưng và có nước nhờn chảy ra, dính và đục Lợn cũng sẽ đứng yên khi có đực đến gần và cho đực nhảy Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, và nếu được phối giống trong thời gian này, lợn sẽ có khả năng thụ thai Đối với lợn nội, thời gian chịu đực thường ngắn hơn, chỉ khoảng 28 - 30 giờ.
+ Giai đoạn sau chịu đực: Lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực.
- Thời điểm phối giống thích hợp
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993), trứng rụng trong tử cung chỉ tồn tại từ 2 - 3 giờ, trong khi tinh trùng có thể sống trong âm đạo lợn cái từ 30 - 48 giờ Thời điểm phối giống lý tưởng cho lợn nái ngoại và lợn nái lai là vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4 sau khi bắt đầu động dục Đối với lợn nái nội, thời điểm thích hợp là vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ngắn hơn Thời điểm phối giống ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ đậu thai và chất lượng con giống, vì vậy cần thực hiện nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu để đạt kết quả tốt nhất.
2.2.2 Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con
2.2.2.1.Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ
Mục đích của việc chăn nuôi lợn nái là đảm bảo an toàn trong quá trình sinh đẻ, giúp lợn con có tỷ lệ sống cao và lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con Do đó, quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con.
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004), thức ăn cho lợn nái đẻ cần có giá trị dinh dưỡng cao và dễ tiêu hóa Không nên cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choán cao, vì có thể dẫn đến đẻ non, đẻ khó hoặc thai chết ngạt Trước một tuần khi lợn đẻ, cần giảm dần lượng thức ăn dựa trên tình trạng sức khỏe của lợn nái; với lợn khỏe, giảm 1/3 lượng thức ăn, còn lợn yếu không giảm lượng mà tăng cường thức ăn dễ tiêu hóa Vào ngày lợn nái cắn ổ đẻ, chỉ cho ăn ít thức ăn tinh hoặc không cho mà cho uống nước tự do Ngày lợn đẻ, có thể không cho ăn mà chỉ cho uống nước ấm pha muối hoặc ăn cháo loãng Sau 2 - 3 ngày sau khi đẻ, tăng dần lượng thức ăn đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn, với thức ăn được chế biến tốt, dung tích nhỏ và mùi vị hấp dẫn để kích thích tính thèm ăn.
Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1 Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam đã có những nghiên cứu về bệnh sinh sản trên lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [10], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn
Streptococcus và Colibacilus có thể lây nhiễm từ lợn con sang lợn mẹ qua cuống rốn, đặc biệt trong các trường hợp đẻ khó, sảy thai hoặc khi lợn mẹ sinh con gần nhau Ngoài ra, việc sử dụng dụng cụ thụ tinh nhân tạo không đảm bảo vệ sinh cũng có thể gây xây xát và hình thành các ổ viêm nhiễm trong tử cung và âm đạo.
Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [2], ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng, chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng).
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), khi gia súc mắc bệnh viêm tử cung thể viêm cơ hoặc viêm tương mạc, không nên thực hiện thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn, vì điều này có thể làm nặng thêm tình trạng bệnh do cơ tử cung co bóp yếu, dẫn đến chất bẩn không được đẩy ra ngoài Tác giả khuyến nghị sử dụng Oxytocin kết hợp với PGF2α hoặc kháng sinh để điều trị toàn thân và cục bộ.
Theo Phạm Hữu Doanh (2003), trước khi lợn nái sinh con, cần thực hiện các bước như lau chùi, xoa vú và tắm cho nái Sau khi lợn con ra đời, nên cho con bú ngay trong vòng 1 giờ đầu Cần cắt nanh cho lợn con và tiêm kháng sinh Penicillin với liều 1,5 - 2 triệu đơn vị pha với 10ml nước cất quanh vú Nếu có nhiều vú bị viêm, nên pha loãng thuốc với 20ml nước cất và tiêm quanh các vú bị viêm trong 3 ngày liên tiếp.
Theo nghiên cứu của Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), bệnh viêm đường sinh dục ở lợn có tỷ lệ cao từ 30-50% Trong số đó, viêm cơ quan bên ngoài chiếm khoảng 20%, trong khi viêm tử cung chiếm đến 80%.
Viêm tử cung là một bệnh lý phổ biến ở gia súc cái sau khi sinh, gây tổn thương cho các lớp tế bào của tử cung và dẫn đến rối loạn sinh sản Bệnh này ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sinh sản của gia súc cái Trong thời kỳ mang thai, lợn cần nhiều chất dinh dưỡng và ít vận động; tuy nhiên, nếu bị nhiễm các bệnh truyền nhiễm như bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis) và bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis), sức khỏe của lợn nái sẽ suy giảm, dẫn đến sảy thai, đẻ non và thai chết lưu, từ đó làm tăng nguy cơ viêm tử cung.
Bệnh viêm tử cung ở nái chủ yếu do các nguyên nhân như thiếu dinh dưỡng, chăm sóc và quản lý không đúng cách, vệ sinh kém, điều kiện tiểu khí hậu chuồng nuôi không đảm bảo, tuổi tác, số lần đẻ, tình trạng sức khỏe chung, sự ảnh hưởng của kích dục tố, và nhiễm trùng sau khi sinh, đặc biệt là nhiễm vi khuẩn.
Staphylococcus và Streptococcus là những vi khuẩn gây viêm vú ở lợn nái, thường xuất phát từ những nguyên nhân như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ, tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập Ngoài ra, việc lợn nái có quá nhiều sữa mà con bú không hết cũng dẫn đến tình trạng sữa ứ đọng, tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển Hơn nữa, khi lợn nái cho con bú chỉ một hàng vú, hàng còn lại sẽ bị căng sữa quá mức, dễ dẫn đến viêm.
2.3.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ với việc đầu tư cải thiện chất lượng giống và áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất Tuy nhiên, vấn đề bệnh sinh sản, đặc biệt là viêm đường sinh dục, vẫn là thách thức lớn cần được giải quyết Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các biện pháp giúp hạn chế bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái, nhưng tỷ lệ mắc bệnh vẫn còn cao.
Hội chứng MMA ở lợn nái gây tỷ lệ chết khoảng 2%, nhưng ở lợn con, tỷ lệ này lên tới 80% do đói và tiêu chảy Nguyên nhân chính bao gồm: (a) dinh dưỡng không hợp lý, như cho lợn nái ăn quá nhiều hoặc thay đổi thức ăn đột ngột, thiếu vitamin E, canxi, chất xơ và nước; (b) quản lý chăm sóc kém, như lợn nái ít vận động, không được vệ sinh trước khi đẻ và không được quan tâm trong quá trình đẻ; (c) điều kiện chuồng trại không đảm bảo, như chật chội, nền chuồng không bằng phẳng và nhiệt độ môi trường cao; (d) đặc điểm sinh lý của lợn nái, như đẻ nhiều con và dạ con lớn Chẩn đoán lâm sàng cho thấy lợn có triệu chứng sốt (40 - 41 độ C), bỏ ăn, táo bón, và bầu vú sưng, nóng, đau.
Theo nghiên cứu của Theo Urban và cộng sự (1983), vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung ở lợn nái có nguồn gốc từ nước tiểu Các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu của lợn nái sắp sinh, thường phát hiện sự hiện diện của các vi khuẩn như E.coli và Staphylococcus aureus.
Nghiên cứu cho thấy Streptococcus spp và các vi khuẩn hiếu khí có mặt trong môi trường chuồng trại có thể gây nhiễm trùng tử cung ở lợn nái khi cổ tử cung mở Smith và các cộng sự (1995) cùng Taylor (1995) nhấn mạnh rằng việc tăng cường vệ sinh chuồng trại và vệ sinh cá nhân cho lợn nái là rất quan trọng để phòng ngừa nhiễm trùng sau sinh Các nghiên cứu về lợn vô sinh cho thấy 52,5% nguyên nhân liên quan đến cơ quan sinh sản, trong khi tỷ lệ này ở lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, với biến đổi bệnh lý phổ biến là viêm vòi tử cung có mủ Tại Pháp, việc điều trị viêm vú trong thời kỳ cho sữa được xác định là yếu tố quan trọng trong kiểm soát bệnh, yêu cầu phải thực hiện sớm và hiệu quả, đồng thời cần xem xét các chỉ tiêu chăn nuôi và kết quả từ phòng thí nghiệm Hiểu biết về dược lý và dược động học sẽ giúp nâng cao hiệu quả điều trị.
Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- Lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ.
Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: Trang trại Nguyễn Văn Hiệp xã Tân Kim, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: Từ ngày 14/12/2020 đến ngày 02/06/2021.
Nội dung thực hiện
- Đánh giá tình hình chăn nuôi lợn của trại.
- Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ của trang trại.
- Thực hiện quy trình phòng, trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ của trang trại.
Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện
3.4.1 Các chỉ tiêu theo dõi
- Cơ cấu đàn lợn tại thời điểm thực tập.
- Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại.
- Khối lượng công việc nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn.
- Số lượng lợn được tiêm vắc xin phòng bệnh.
- Số lượng lợn được chẩn đoán và điều trị bệnh.