1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017

71 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Những Thành Tựu Nổi Bật Trong Nghiên Cứu Khảo Cổ Học Dưới Nước Ở Việt Nam Tính Đến Năm 2017
Tác giả Quách Vừ Hoàng Quyền
Người hướng dẫn ThS. Đỗ Ngọc Chiến
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Khảo cổ học
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2017
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 71
Dung lượng 26,24 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM (5)
    • 1.1. Từ năm 1990 – 2013: bước đầu hình thành thông qua việc khai quật các con tàu đắm cổ (6)
    • 1.2. Từ năm 2013 – nay: bước đầu phát triển với việc thành lập các cơ (7)
  • CHƯƠNG 2: KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC VỚI NHỮNG THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU NỔI BẬT TÍNH ĐẾN NĂM 2017 (10)
    • 2.1. Khảo cổ học các con tàu đắm cổ ở Việt Nam (10)
      • 2.1.1. Tàu cổ Hòn Cau (Vũng Tàu – Côn Đảo) (10)
      • 2.1.2. Tàu cổ Hòn Dầm (Phú Quốc - Kiên Giang) (11)
      • 2.1.3. Tàu cổ Cù Lao Chàm (Quảng Nam) (13)
      • 2.1.4. Tàu cổ Cà Mau (18)
      • 2.1.5. Tàu cổ Bình Thuận (19)
      • 2.1.6. Tàu cổ Bình Châu/ Châu Thuận Biển (Quảng Ngãi) (21)
    • 2.2. Khảo cổ học hàng hải với những hoạt động thương mại trên biển và các trận thủy chiến trong lịch sử Việt Nam (26)
      • 2.2.1. Các cảng, hải cảng cổ (26)
      • 2.2.2. Bãi cọc Bạch Đằng (29)
    • 2.3. Khảo cổ học biển - đảo: Biển Đông và các đảo gần bờ - xa bờ (31)
      • 2.3.1. Dấu tích hoạt động của cư dân ở Biển Đông (32)
      • 2.3.2. Các cuộc khai quật ở các đảo (33)
  • CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM (34)
    • 3.1. Về mức độ đóng góp khoa học (34)
    • 3.2. Về đội ngũ chuyên gia và phương tiện kỹ thuật (38)
  • KẾT LUẬN (41)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (43)

Nội dung

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM

Từ năm 1990 – 2013: bước đầu hình thành thông qua việc khai quật các con tàu đắm cổ

Khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam bắt đầu từ cuộc khai quật tàu cổ Hòn Cau tại Bà Rịa - Vũng Tàu vào năm 1990 Dù cuộc khai quật đầu tiên không có sự tham gia của các nhà khảo cổ học Việt Nam, nhưng đây là bước khởi đầu quan trọng cho việc nghiên cứu khảo cổ học dưới nước một cách hệ thống và khoa học trên lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.

Trong giai đoạn gần đây, vùng biển Việt Nam đã chứng kiến sự phát hiện và khai quật 5 con tàu cổ lớn, bao gồm Hòn Cau (1990 - 1991), Hòn Dầm (1991), Cù Lao Chàm (1997-1999), Cà Mau (1998-1999) và Bình Thuận (2001-2002) Đồng thời, hợp tác với Viện Khảo cổ học hàng hải Mỹ, các cuộc khảo sát đã được thực hiện tại bãi cọc trên sông Bạch Đằng và các thương cảng cổ như Vân Đồn, Thị Nại Bên cạnh đó, các cơ quan và tổ chức cũng đã tiến hành trục vớt quy mô nhỏ tại những điểm mới phát hiện di tích khảo cổ học dưới nước.

Từ năm 2004 đến 2007, nhiều dấu tích của các con tàu đắm cổ cùng với đồ gốm sứ có nguồn gốc từ Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam đã được phát hiện tại vùng biển Kiên Giang, Cà Mau và Vũng Tàu.

Từ năm 2008 đến 2013, một nhóm các nhà nghiên cứu, trợ lý nghiên cứu, sinh viên và đào tạo viên quốc tế đã tiến hành 6 mùa điền dã nghiên cứu, tập huấn và cố kết cộng đồng tại Việt Nam Nhóm này bao gồm các chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ, khảo sát, nghiên cứu địa vật lý, cảnh quan môi trường cổ và nghiên cứu ký ức đến từ nhiều quốc gia như Mỹ và Úc.

Nhóm nghiên cứu từ Canada, Nhật Bản và Việt Nam đã hợp tác với Viện Khảo cổ học và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cùng với các trường đại học, tổ chức phi chính phủ và chính quyền địa phương Chương trình nhằm nghiên cứu và nâng cao nhận thức cộng đồng về khảo cổ học biển và di sản văn hóa dưới nước tại Việt Nam Hoạt động bao gồm các khóa tập huấn của Hội Khảo cổ học Hàng hải, nhằm tăng cường năng lực khảo cổ học dưới nước, nâng cao ý thức cộng đồng về di sản văn hóa và phát triển các phương pháp tiếp cận đa ngành.

Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đã hợp tác quốc tế để nghiên cứu khảo cổ học dưới nước Tuy nhiên, công việc khai quật chủ yếu do các thợ lặn nước ngoài hoặc trong nước thực hiện, trong khi thiếu vắng sự tham gia của các nhà khảo cổ học dưới nước, đặc biệt là các nhà khảo cổ học Việt Nam Điều này dẫn đến việc chưa có đủ trang thiết bị chuyên dụng và kỹ năng cần thiết để tiến hành khai quật khảo cổ học dưới nước một cách hiệu quả.

Từ năm 2013 – nay: bước đầu phát triển với việc thành lập các cơ

Năm 2013, Chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã cho phép Viện Khảo cổ học thành lập bộ phận khảo cổ học dưới nước, đánh dấu sự khởi đầu cho ngành khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam Mặc dù nguồn nhân lực và cơ sở vật chất còn hạn chế, việc thành lập Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học dưới nước đã mở ra cơ hội cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ và các nhà khảo cổ học chuyên nghiên cứu di sản văn hóa dưới nước trong nước.

Tháng 7 năm 2013, Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học dưới nước được thành lập do TS Lê Thị Liên làm Trưởng phòng Đây là dấu mốc quan trọng, tạo cơ sở cho các hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế, trong các chương trình

Trong bài phát biểu chào mừng tại hội thảo quốc tế "Khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam và Đông Nam Á: Hợp tác để phát triển," PGS Mark Staniforth (2014) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu, đào tạo và xây dựng năng lực cho ngành khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam Hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của lĩnh vực này.

Kể từ năm 2014, hoạt động nghiên cứu khảo cổ học dưới nước tại Hà Nội và ba tỉnh ven biển Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam đã được đẩy mạnh thông qua sự hợp tác quốc tế Chương trình này liên kết với Dự án nghiên cứu chiến trường Vân Đồn và Bạch Đằng nhằm hỗ trợ Việt Nam trong việc bảo tồn và nghiên cứu di sản văn hóa dưới nước Đồng thời, chương trình cũng góp phần nâng cao năng lực bằng cách đào tạo một đội ngũ nhà khảo cổ học biển chuyên nghiệp.

Viện Khảo cổ học Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức hội thảo quốc tế đầu tiên về khảo cổ học dưới nước, mang tên “Khảo cổ học dưới nước Việt Nam và Đông Nam Á: hợp tác và phát triển.” Sự kiện này thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia và được vinh danh là một trong mười sự kiện khoa học công nghệ tiêu biểu năm 2014.

Trong giai đoạn 2014 - 2016, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã hợp tác với các nhà khảo cổ học Australia và tổ chức UNESCO để triển khai chương trình tập huấn quốc tế về khảo cổ học dưới nước Đặc biệt, vào tháng 6 năm 2015, khóa đào tạo huấn luyện về khảo cổ học dưới nước đầu tiên (PADI Open Water SCUBA) đã được tổ chức tại Hội An, Quảng Nam.

Năm 2016, Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học dưới nước đã được thành lập tại Hội An với đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản ở nước ngoài, có khả năng làm việc dưới nước ở độ sâu 20m Trung tâm đã tổ chức nhiều chương trình khảo sát di sản văn hóa dưới nước, mang lại nhiều phát hiện mới Chương trình khảo cổ học hàng hải Việt Nam đã thực hiện các hoạt động nghiên cứu tại các di tích ở cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), Đầm Lải, sông Bạch Đằng (Hải Phòng) và các tàu đắm tại khu vực biển Bình Châu (Quảng Ngãi) Các khảo sát này đã xác định những khu vực tiềm năng cho các cuộc khai quật tiếp theo, đặc biệt là khu vực biển Bình Châu cần được nghiên cứu thêm bằng các phương pháp không tác động trong khảo cổ học dưới nước.

Tháng 1 năm 2017, hội thảo quốc tế lần 2 về khảo cổ học dưới nước được tổ chức tại Hội An (Quảng Nam) với chủ đề “Bảo tồn di sản khảo cổ học dưới nước vì lợi ích cộng đồng” để chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia [4] 4 Hội thảo này đã thảo luận và chia sẻ bài học bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dưới nước, các vấn đề kỹ thuật và phương pháp thực hiện khảo cổ học để các chuyên gia Việt Nam có thêm kinh nghiệm áp dụng trong thời gian đến

Tính đến năm 2017, khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam đã ghi nhận nhiều thành tựu nổi bật, mặc dù còn nhiều thách thức phía trước Điều này đặc biệt ấn tượng khi xét đến xuất phát điểm khó khăn với "ba không": không người, không tiền, và không cơ sở vật chất - kỹ thuật Việt Nam đã có những bước tiến đáng khen ngợi trong lĩnh vực khảo cổ học dưới nước, mặc dù vẫn còn "sinh sau, đẻ muộn" so với thế giới.

Nghiên cứu lập hồ sơ các di chỉ khảo cổ dưới nước ở Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lịch sử Việc khảo sát và ghi chép các di tích này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về quá khứ mà còn đóng góp vào việc phát triển du lịch và giáo dục cộng đồng Các di chỉ dưới nước chứa đựng nhiều thông tin quý giá về đời sống và hoạt động của người xưa, do đó, việc bảo vệ và nghiên cứu chúng cần được ưu tiên.

KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC VỚI NHỮNG THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU NỔI BẬT TÍNH ĐẾN NĂM 2017

Khảo cổ học các con tàu đắm cổ ở Việt Nam

2.1.1 Tàu cổ Hòn Cau (Vũng Tàu – Côn Đảo)

Vào năm 1990, xác tàu đắm được phát hiện tại vùng biển Hòn Cau, Vũng Tàu, với tọa độ 08°38’15’’ vĩ Bắc và 108°48’50’’ kinh Đông, nằm sâu 40 mét dưới nước và chôn vùi dưới lớp cát từ 0.6m đến 1m, cách đảo Hòn Cau khoảng 15km Tàu, được gọi là “Tàu đắm Hòn Cau” hay “Tàu đắm Vũng Tàu”, đã được khai quật từ năm 1990 đến 1991 bởi công ty Visal, phối hợp với Hallstrom Holdings Oceanic của Thụy Điển, với sự tham gia của chuyên gia khảo cổ học dưới nước Michael Flecker.

Cuộc khai quật đã thu được tổng cộng 63.856 hiện vật, bao gồm 28.556 đồ gốm, 34.710 đồ sứ, 70 đồ đá, 448 đồ đồng, 18 đồ gỗ, 25 hiện vật chất liệu khác và 39 mẫu vật Tất cả các hiện vật này đã được xử lý bảo quản, kiểm kê, phân loại, đăng ký, chụp ảnh và làm lý lịch một cách công phu.

Về niên đại: dựa trên hiện vật gốm và các hiện vật khác có chữ Hán như

Bài viết đề cập đến việc phát hiện 23,5 đồng tiền Vạn Lịch thông bảo (1573 – 16190), 1 đồng tiền Thuận Trị thông bảo (1644 – 1661) và 4 đồng tiền Khang Hy thông bảo (1662 – 1722) cùng với một thỏi mực hình khối tứ giác có chữ Hán “Canh Ngọ” Nếu dựa vào niên hiệu Khang Hy, năm Canh Ngọ tương ứng với năm 1690, sẽ là căn cứ để định niên đại cho con tàu.

Phần lớn các vật dụng sinh hoạt phục vụ cho việc nấu nướng và bếp núc có nguồn gốc từ những đồ dùng truyền thống như cối giã tiêu bằng đá, cối xay bột, mắm cá và quả hồng.

5 Nguyễn Quốc Hùng (1992), Khai quật kho tàng cổ dưới đáy biển Hòn Cau (Bà Rịa – Vũng Tàu), Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 83/1992, tr 62.

Trong bài viết "Hơn một thập kỷ khai quật khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam" của Nguyễn Quốc Hùng (2005), tác giả đã trình bày những thành tựu và thách thức trong lĩnh vực khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam trong suốt hơn mười năm qua Bài viết được đăng trong cuốn sách "Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam" tập 2, xuất bản bởi Nxb Khoa học xã hội tại Hà Nội, trang 293.

Theo Nguyễn Quốc Hùng (2005) trong tác phẩm "Hơn một thập kỷ khai quật khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam", các phát hiện từ tàu đắm Hòn Cau cho thấy những đồ vật như nồi nấu cơm bằng đất, mực tàu, con dấu chữ triện, que ráy lỗ tai, khuy áo tròn, hộp đồng và tiền đồng đều có nguồn gốc từ Trung Hoa thời nhà Thanh Những phát hiện này góp phần làm sáng tỏ lịch sử thương mại và văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá khứ.

Trong các hiện vật thu được, đồ gốm sứ chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc, với các yếu tố bản xứ từ lò Cảnh Đức Trấn và Đức Hóa, kết hợp với phong cách châu Âu như bình lọ, cố, đài trang trí cho cung điện và lâu đài, cùng hình người kéo đàn vĩ cầm Ngoài ra, đồ đồng bao gồm hai khẩu thần công, ba khẩu súng hiệu và đồng hồ đo thời gian bằng ánh sáng mặt trời cũng được sản xuất tại châu Âu.

Sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hóa và thương mại châu Âu vào Trung Quốc đã thể hiện rõ nét trong thời kỳ này, đồng thời cho thấy sự phát triển vượt bậc của ngành xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc Những chiếc tàu khởi hành từ các thương cảng miền Nam Trung Quốc đã thực hiện hành trình dài đến các quốc gia châu Âu xa xôi.

Nguyên nhân đắm tàu có thể liên quan đến một phần gỗ mạn tàu bị cháy, cho thấy khả năng tàu chìm do hỏa hoạn bất ngờ Đặc biệt, không tìm thấy hài cốt nào trong lớp cát phủ trên boong và buồng tàu, cũng như xung quanh khu vực di tích, điều này cho thấy các thủy thủ có thể đã may mắn được cứu thoát và bỏ lại hàng hóa chìm dưới nước.

Việt Nam đã tổ chức đấu giá cổ vật lần đầu tiên ở nước ngoài, thu về tổng cộng 6.700.000 USD Các sưu tập tiêu biểu bao gồm nhiều độc bản và được lựa chọn để giữ tại các bảo tàng Số lượng còn lại gồm 18 mặt hàng với tổng cộng 28.000 món được quyết định đưa ra thị trường quốc tế.

2.1.2 Tàu cổ Hòn Dầm (Phú Quốc - Kiên Giang)

Tàu đắm Hòn Dầm, còn được gọi là tàu cổ Phú Quốc, nằm ở vùng biển Hòn Dầm, xã An Thới, Phú Quốc, Kiên Giang, với độ sâu hơn 10m Sự kiện này xảy ra trước năm 1975, tạo nên một điểm đến hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá lịch sử và lặn biển.

Hà Thị Sương (2014) đã nghiên cứu về khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam, rút ra kinh nghiệm từ các quốc gia Đông Nam Á Bài viết được đăng trên tạp chí Di sản Văn hóa số 2/2014, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tiềm năng và thách thức của khảo cổ học dưới nước trong khu vực Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào liên kết: http://baotang.hcmussh.edu.vn/?ArticleId80e7cf-4aa9-4ccc-bb19-50cf00427ebc.

Hà Thị Sương (2014) đã trình bày trong bài viết "Khảo cổ học dưới nước Việt Nam – Kinh nghiệm từ các nước Đông Nam Á" trên tạp chí Di sản Văn hóa số 2/2014, rằng khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam cần học hỏi từ những thành công và thách thức của các quốc gia Đông Nam Á khác Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hóa dưới nước và phát triển các phương pháp nghiên cứu hiện đại để khám phá lịch sử và văn hóa của khu vực.

Vào tháng 5 năm 1991, ban chỉ đạo trục vớt tàu cổ đã được thành lập để khai quật con tàu đắm được phát hiện bởi ngư dân Kiên Giang Tàu có kích thước 7m bề ngang và gần 30m dài, với nhiều khoang hầm ở giữa, mỗi khoang rộng 1,8m Gỗ dưới đáy tàu vẫn còn chắc chắn, trong khi gốm vỡ và san hô phân bố rải rác trên mặt biển Đồ gốm ở phần trên chủ yếu bị hàu bám kết lại thành khối.

Do chưa được tiến hành khai quật bằng phương pháp khảo cổ học, nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào gốm sứ với hơn 15.000 hiện vật được phát hiện.

- Về loại hình: hầu hết thuộc gốm gia dụng gồm bát, đĩa, tô, chén, tráng men nhẹ lửa…

- Về men: chủ yếu là gốm men màu đơn sắc, men chảy như xanh ngọc, chì, đồng, ngà, da lươn…

- Về xương gốm: xương đất màu hồng xám là đặc trưng của gốm

Sawankhalok, Suphanburi (Thái Lan) có niên đại vào khoảng thế kỷ XV – XVI

- Về trang trí: chủ yếu là kỹ thuật khắc chìm, in vào xương đất và phủ men bên ngoài.

Khảo cổ học hàng hải với những hoạt động thương mại trên biển và các trận thủy chiến trong lịch sử Việt Nam

và các trận thủy chiến trong lịch sử Việt Nam

2.2.1 Các cảng, hải cảng cổ

Trong suốt hàng ngàn năm, các cộng đồng cư dân cổ ở Việt Nam và Đông Nam Á đã tận dụng lợi thế từ biển để thực hiện hoạt động giao thương và giao lưu văn hóa với thế giới bên ngoài, nhờ vào những điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Từ thời cổ đại, cư dân văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn đã di chuyển giữa đất liền và các hải đảo Các nhà nhân chủng học khẳng định rằng những sọ cổ của họ cho thấy sự phát triển và giao thoa văn hóa trong khu vực này.

45 http://www.baomoi.com/nhung-phat-hien-moi-cua-khao-co-hoc-duoi-nuoc-thu-vien-lau-doi-nhat-the-gioi-mo- cua-tro-lai/c/20405753.epi

Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Hùng (2005) chỉ ra rằng người thời Hòa Bình và Bắc Sơn ở lục địa có nhiều điểm tương đồng với các sọ cổ cùng thời được phát hiện ở các hải đảo Kỹ nghệ mảnh tước tại Việt Nam và Thái Lan cũng xuất hiện ở Java và Philippines, cho thấy sự giao lưu văn hóa và di chuyển giữa các khu vực này chỉ có thể thực hiện qua đường biển bằng những phương tiện hàng hải cổ đại.

Vào đầu công nguyên, Việt Nam đã trở thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới giao thương giữa phương Đông và phương Tây, nhờ vào vị trí chiến lược trên trục hải thương giữa Trung Quốc và các khu vực Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á Các cảng thương mại nổi bật như Vân Đồn, Hội Thống, Phố Hiến, Hội An, Thị Nại và Óc Eo không chỉ là trung tâm buôn bán mà còn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động thương mại quốc tế Vân Đồn là cửa biển quan trọng của vùng Đông Bắc, Hội Thống từng phồn thịnh vào thế kỷ XV – XVI, Phố Hiến là trung tâm hành chính và kiểm soát giao thương, trong khi Hội An là điểm giao thoa giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Đông Nam Á Thị Nại, đô thị cổ của Champa, phục vụ cả hai chức năng quân cảng và thương cảng, và Óc Eo là thương cảng quốc tế của vương quốc Phù Nam, nơi diễn ra các giao dịch quan trọng và là điểm dừng chân cho các thương thuyền.

Từ thế kỷ XV, Việt Nam đã trở thành một trung tâm giao thương quốc tế sôi động, không còn chỉ là điểm trung chuyển Các cảng thị sơ khai dần phát triển thành những trung tâm kinh tế và văn hóa quan trọng, phản ánh sự bùng nổ trong hoạt động thương mại và giao lưu văn hóa của cư dân địa phương.

Bài viết của Phan Huy Lê (2007) trình bày về di tích văn hóa Óc Eo và các thư tịch cổ nhằm nhận diện nước Phù Nam, đăng trong Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 10/2007, trang 3-14 Nghiên cứu cũng liên quan đến việc khai quật di tích Cống Cái – Sơn Hào tại cảng Vân Đồn, góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị lịch sử và văn hóa của khu vực này.

Năm 2014, Viện Khảo cổ học phối hợp với Ban QLDTTD Quảng Ninh và các chuyên gia khảo cổ học quốc tế đã tiến hành khảo sát và khai quật tại khu vực Cống Cái, thôn Sơn Hào, xã đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh Đoàn khảo cổ đã mở 5 hố khai quật và 2 hố thám sát với tổng diện tích 66m², phát hiện hơn 26.000 di vật, chủ yếu là các mảnh vỡ thuộc nhiều triều đại và có nguồn gốc từ nước ngoài.

Kết quả khai quật năm 2016 và khảo sát năm 2017 cho thấy khu vực Cống Cái - Sơn Hào có thể là một điểm quan trọng trong hệ thống Thương cảng Vân Đồn Khu vực này còn liên quan đến Chiến thắng Vân Đồn năm 1288 và gắn liền với danh tướng Trần Khánh Dư.

Các cuộc khảo sát và nghiên cứu về các con tàu đắm ở vùng biển Việt Nam cho thấy nước ta đã tích cực tham gia vào thương mại hàng hải, với mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là đồ gốm Việc so sánh đồ gốm sứ từ các tàu đắm ở Biển Đông với các phát hiện khảo cổ trên đất liền giúp làm rõ hơn về con đường hàng hải quốc tế và mối quan hệ buôn bán trên biển Việt Nam.

Khối lượng hiện vật phong phú từ 6 con tàu đắm đã được khai quật tại Việt Nam đã chứng minh rằng vùng ven biển Đông là một trong những tuyến đường hàng hải quan trọng nhất thế giới Những phát hiện này không chỉ làm sáng tỏ lịch sử hàng hải mà còn khẳng định vị trí chiến lược của khu vực trong giao thương quốc tế.

48 http://laodong.com.vn/quang-ninh/khai-quat-khao-co-hoc-di-tich-cong-cai-van-don-day-dac-dau-tich-van- hoa-lich-su-619578.bld

49 http://baoquangninh.com.vn/van-hoa/201705/nhung-phat-hien-moi-ve-thuong-cang-van-don-o-quan-lan- 2342588/

Việt Nam, với vị trí chiến lược trên con đường buôn bán đường dài qua biển Đông, đóng vai trò là "tiền trạm" trong giao thương Đông – Tây Trong thời kỳ Nguyễn, vai trò của Việt Nam không chỉ là thực thi chủ quyền mà còn là trung tâm cung cấp hàng hóa xuất khẩu, nổi bật là gốm sứ Chu Đậu, chiếm phần lớn trong số hàng hóa của con tàu đắm Cù Lao Chàm.

Các con tàu đắm ở vùng nam Trung Quốc và Thái Lan đã để lại nhiều sản phẩm quý giá, phản ánh hoạt động giao thương sôi động trên biển Lưu lượng hàng hóa dồi dào trên con đường hàng hải kéo dài từ nam Trung Quốc qua biển Đông đến Ấn Độ, Trung Đông và Châu Âu được ví như “con đường tơ lụa trên biển” hay “con đường gốm sứ” Di sản văn hóa từ những con đường này đã tạo nên dấu ấn sâu sắc trong lòng biển Đông, trong khi nghiên cứu khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu.

Lớp cọc lịch sử trên sông Bạch Đằng được phát hiện lần đầu vào năm 1953 khi người dân huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) đào đất đắp đê, và bãi cọc thứ hai được tìm thấy vào năm 2005 tại cánh đồng Vạn Muối Những di tích này phản ánh cuộc đấu tranh hào hùng của dân tộc Qua thời gian, dòng sông Bạch Đằng đã thay đổi, một số khu vực bị bồi lấp hoặc trở thành ao hồ, dẫn đến việc người dân trong quá trình canh tác đã vô tình nhổ cọc mang về sử dụng Nếu không có biện pháp quy hoạch và bảo tồn kịp thời, những chứng tích lịch sử quý giá này sẽ bị mất mát không thể khôi phục.

Từ năm 2012 đến 2016, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với các chuyên gia quốc tế trong Chương trình nghiên cứu khảo cổ học Hàng hải Việt Nam (VMAP) đã tiến hành nhiều chương trình khảo sát khảo cổ học dưới nước tại Quảng Ninh, nổi bật là các cuộc khảo sát chiến trường.

51 https://khanhhoathuynga.wordpress.com/category/s%C6%B0u-t%E1%BA%A7m-g%E1%BB%91m-s

%E1%BB%A9-trung-hoa-ki%E1%BA%BFn-th%E1%BB%A9c/tai-li%E1%BB%87u-g%E1%BB%91m-s

%E1%BB%A9-c%E1%BB%95-t%E1%BB%AB-cac-tau-buon-d%E1%BA%AFm/page/3/ download by : skknchat@gmail.com

Bạch Đằng (Quảng Yên) ngày nay chỉ còn là những bãi bùn, xa rời biển và thương cảng Vân Đồn xưa, nơi hiện tại vẫn chìm dưới nước.

- Di tích Bãi Cọc Bạch Đằng:

+ Di tích bãi cọc Yên Giang nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120 m, chiều rộng khoảng 20 m Sau lần khai quật đầu tiên vào năm

1958 và nhiều lần sau đó vào các năm 1969, 1976, 1984, 1988 và khai quật năm 2013 cho thấy cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 - 2,8 m, đường kính 20

- 30 cm Phần cọc được đẽo nhọn dài 0,5 - 1m để cắm thẳng xuống sông với khoảng cách trung bình 1 m → Nửa phía Bắc của trận địa cọc Bạch Đằng [Hình

Khảo cổ học biển - đảo: Biển Đông và các đảo gần bờ - xa bờ

Cổ học biển - đảo và khảo cổ học dưới nước không chỉ là lĩnh vực khoa học chuyên sâu thuộc ngành Khảo cổ học, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn di sản văn hóa dưới nước Hơn nữa, nó còn mang ý nghĩa chính trị liên quan đến vấn đề chủ quyền biển đảo của quốc gia.

Các cuộc khai quật di tích trên các đảo ven bờ, Trường Sa và các tàu đắm từ thập niên 90 của thế kỷ XX đã đánh dấu những bước khởi đầu quan trọng trong nghiên cứu khảo cổ học biển đảo Việt Nam.

Di tích Bãi Cốc Bạch Đằng là một địa điểm khảo cổ học quan trọng, nằm ở vùng ven biển và đảo của Việt Nam Nghiên cứu các di tích này giúp hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa của khu vực Các khảo cổ học dưới nước tại đây cung cấp thông tin quý giá về đời sống của cư dân trong quá khứ.

2.3.1 Dấu tích hoạt động của cư dân ở Biển Đông

Theo tài liệu và chứng cứ khảo cổ, cư dân Việt cổ đã sớm gắn bó với biển, coi biển và đảo là phần không thể thiếu trong phạm vi chủ quyền của Tổ quốc Biển và đất liền cùng nhau tạo nên môi trường sống và phát triển bền vững cho dân tộc Việt Nam.

Người Việt có chủ quyền trên biển Đông, đã khai thác hải sản trên một vùng biển đảo:

Các hiện vật khai quật tại các di chỉ ven biển đã xác nhận việc người dân ven bờ khai thác biển Đông từ thời văn hoá Hạ Long ở vùng vịnh Đông Bắc đến các dấu gốm Hoa Lộc tại Thanh Hoá và đồ gốm Hòa Diêm ở Cam Ranh Đặc biệt, sự xuất hiện của đồ vàng và trang sức từ Ấn Độ và Trung Cận Đông trong thời kỳ cổ đại tại Việt Nam chứng tỏ sự tồn tại của một con đường biển sớm, phục vụ cho việc trao đổi gia vị trong thời kỳ này.

Một di sản quan trọng khác khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển đảo là các bản đồ do người phương Tây vẽ, chẳng hạn như bản đồ vùng Viễn Đông năm

Năm 1774, dưới triều đại Vua Lê Hiển Tông, quần đảo Hoàng Sa (Paracel) đã được vẽ và ghi chú rõ ràng là thuộc về Đại Việt Đến thời Minh Mạng, vào đầu thế kỷ 19, vua tiếp tục chỉ đạo việc vẽ bản đồ để khẳng định chủ quyền đối với vùng biển này.

Bản đồ "Đại Nam Nhất thống toàn đồ" thể hiện rõ quần đảo Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Nhiều tài liệu lịch sử, bao gồm các châu bản của vua Nguyễn, xác nhận quyền sở hữu biển đảo của nước ta Ngoài ra, tác phẩm "Phủ biên tạp lục" của nhà bác học Lê Quý Đôn (năm 1776) cũng ghi lại sự hình thành và hoạt động của Hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải dưới triều Lê Trung Hưng.

Trong 30 năm qua, các cuộc khai quật khảo cổ học dưới nước tại vùng biển Đông Việt Nam và việc trục vớt tàu đắm đã phát hiện nhiều di vật thời Trần, Lê, Nguyễn tại quần đảo Trường Sa, cung cấp bằng chứng thuyết phục về “con đường gốm sứ” qua hải phận Việt Nam Những phát hiện từ 6 con tàu cổ và tư liệu từ các cơ quan lưu trữ quốc tế đã khẳng định vai trò quan trọng của biển Việt Nam trong con đường tơ lụa, gốm sứ hàng thế kỷ trước.

2.3.2 Các cuộc khai quật ở các đảo

Cuộc khai quật khảo cổ học tại quần đảo Trường Sa vào năm 2014 với các đảo gồm Trường Sa Lớn, Nam Yết, Phan Vinh và Sơn Ca [5] 53

Tại đảo Trường Sa Lớn, đoàn khảo sát đã tiến hành kiểm tra toàn bộ bề mặt đảo và mở một hố thám sát có diện tích 1m² Kết quả khảo sát cho thấy thu được nhiều hiện vật, bao gồm một mảnh bát thời Trần, hai mảnh gốm men trắng vẽ lam thời Lê và nhiều mảnh sành thuộc thế kỷ XVIII - XIX Ngoài ra, trong hố thám sát, đoàn cũng thu được bốn mảnh gốm thô thời tiền sử.

Trên đảo Sơn Ca, đoàn khảo cổ đã phát hiện nhiều mảnh sành có niên đại từ thế kỷ XVIII đến nay Tại đảo Nam Yết, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy một mảnh gốm men trắng vẽ lam thuộc thời Lê cùng với một số mảnh sành từ thế kỷ XVIII.

Bằng chứng khoa học cho thấy người Việt đã hiện diện sớm và liên tục tại quần đảo Trường Sa, cùng với các hoạt động trên biển của cư dân tiền sử Những phát hiện này khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với biển và đảo trong hải phận quốc gia.

53 http://biengioibienbentre.vn/noi-dung/ket-qua-khao-co-hoc-o-truong-sa-khang-dinh-chu-quyen-bien-dao.html download by : skknchat@gmail.com

NHỮNG VẤN ĐỀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM

Ngày đăng: 14/05/2022, 15:39

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bước 1. Lập bảng xét dấu (BXD) của hàm số f(x) trên đoạn [a;b], giả sử f(x) cĩ BXD: - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
c 1. Lập bảng xét dấu (BXD) của hàm số f(x) trên đoạn [a;b], giả sử f(x) cĩ BXD: (Trang 9)
Ví dụ 7. Tính diện tích hình phẳng giới hạn bởi y=x 2- 4x +3 và y= + x 3. - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
d ụ 7. Tính diện tích hình phẳng giới hạn bởi y=x 2- 4x +3 và y= + x 3 (Trang 17)
Hình 1- 2: Bản đồ Biển Đông và vị trí chiến lược của Việt Nam - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 1 2: Bản đồ Biển Đông và vị trí chiến lược của Việt Nam (Trang 52)
Hình 5- 6: Tập huấn quốc tế khảo cổ học dưới nước ở Hội An năm 2015 - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 5 6: Tập huấn quốc tế khảo cổ học dưới nước ở Hội An năm 2015 (Trang 52)
Hình 7: Hội thảo quốc tế về khảo cổ học dưới nước năm 2017 ở Hội An - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 7 Hội thảo quốc tế về khảo cổ học dưới nước năm 2017 ở Hội An (Trang 53)
Hình 8: Bản đồ các con tàu đắ mở khu vực Đông Na mÁ và Việt Nam - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 8 Bản đồ các con tàu đắ mở khu vực Đông Na mÁ và Việt Nam (Trang 54)
Hình 9- 11: Tàu đắm Hòn Cau thuộc vùng biển Vũng Tàu, cùng với phương tiện trục vớt: Tàu Đại Lãnh; và các chuyên gia, thợ lặn - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 9 11: Tàu đắm Hòn Cau thuộc vùng biển Vũng Tàu, cùng với phương tiện trục vớt: Tàu Đại Lãnh; và các chuyên gia, thợ lặn (Trang 55)
Hình 18 – 23: Hiện vật đặc trưng của gốm Sawankhalok, Suphanburi (Thái Lan) Nguồn :  https://khanhhoathuynga.wordpress.com/category/s%C6%B0u-t%E1%BA%A7m-g %E1%BB%91m-s%E1%BB%A9-trunhttps://khanhhoathuynga.wordpress.com/category/s%C6%B0u-t%E1%BA%A7m-g-hoa- - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 18 – 23: Hiện vật đặc trưng của gốm Sawankhalok, Suphanburi (Thái Lan) Nguồn : https://khanhhoathuynga.wordpress.com/category/s%C6%B0u-t%E1%BA%A7m-g %E1%BB%91m-s%E1%BB%A9-trunhttps://khanhhoathuynga.wordpress.com/category/s%C6%B0u-t%E1%BA%A7m-g-hoa- (Trang 58)
Hình 24: Bản đồ vị trí tàu đắm Cù Lao Chàm (Quảng Nam) - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 24 Bản đồ vị trí tàu đắm Cù Lao Chàm (Quảng Nam) (Trang 59)
Hình 2 9- 37: Hiện vật của tàu đắm Cù Lao Cù Lao Chàm (Quảng Nam) - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 2 9- 37: Hiện vật của tàu đắm Cù Lao Cù Lao Chàm (Quảng Nam) (Trang 60)
Hình 38: Vị trí tàu đắm Cà Mau - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 38 Vị trí tàu đắm Cà Mau (Trang 61)
Hình 3 9- 43: Cổ vật của tàu đắm Cà Mau - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 3 9- 43: Cổ vật của tàu đắm Cà Mau (Trang 61)
Hình 5 1- 52: Bát hoa lam vẽ trang trí hoa sen và vịt ở tàu đắm Bình Thuận - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 5 1- 52: Bát hoa lam vẽ trang trí hoa sen và vịt ở tàu đắm Bình Thuận (Trang 63)
Hình 5 3- 54: Bát hoa lam vẽ trang trí hoa sen và vịt khai quật tại những di chỉ của người Mạ cổ ở Lâm Đồng - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 5 3- 54: Bát hoa lam vẽ trang trí hoa sen và vịt khai quật tại những di chỉ của người Mạ cổ ở Lâm Đồng (Trang 64)
Hình 5 5- 56: Những đĩa sứ hoa lam có hoa văn chim phượng, hoa lá, miệng loe xiên, thành cong gãy, đế thấp, lõm, dính cát ở tàu đắm - TIỂU LUẬN CUỐI kì CHUYÊN đề KHẢO cổ học dưới nước đề tài NHỮNG THÀNH tựu nổi bật TRONG NGHIÊN cứu KHẢO cổ học dưới nước ở VIỆT NAM TÍNH đến năm 2017
Hình 5 5- 56: Những đĩa sứ hoa lam có hoa văn chim phượng, hoa lá, miệng loe xiên, thành cong gãy, đế thấp, lõm, dính cát ở tàu đắm (Trang 64)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w