NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM TÍNH ĐẾN NĂM 2017 đề tài NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM TÍNH ĐẾN NĂM 2017 tiểu luận NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM TÍNH ĐẾN NĂM 2017 bài tập nhóm NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM TÍNH ĐẾN NĂM 2017
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC Ở VIỆT NAM
Từ năm 1990 – 2013: bước đầu hình thành thông qua việc khai quật các con tàu đắm cổ
Khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam chính thức khởi đầu vào năm 1990 với cuộc khai quật tàu cổ Hòn Cau ở Bà Rịa - Vũng Tàu Dù không có sự tham gia của các nhà khảo cổ học Việt Nam trong lần khai quật đầu tiên, sự kiện này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho việc nghiên cứu khảo cổ học dưới nước một cách hệ thống và khoa học trên lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.
Trong giai đoạn gần đây, vùng biển Việt Nam đã chứng kiến sự phát hiện và khai quật của 5 con tàu cổ lớn, bao gồm Hòn Cau (1990 - 1991), Hòn Dầm (1991), Cù Lao Chàm (1997-1999), Cà Mau (1998-1999) và Bình Thuận (2001-2002) Đồng thời, các hoạt động khảo sát cũng được tiến hành trên sông Bạch Đằng, hợp tác với Viện Khảo cổ học hàng hải Mỹ để nghiên cứu bãi cọc và các thương cảng cổ như Vân Đồn và Thị Nại Ngoài ra, các cơ quan và tổ chức đã thực hiện nhiều cuộc trục vớt quy mô nhỏ tại các địa điểm mới phát hiện di tích khảo cổ học dưới nước.
Giữa năm 2004 và 2007, nhiều dấu tích của các con tàu đắm cổ và đồ gốm sứ có nguồn gốc từ Thái Lan, Trung Quốc, và Việt Nam đã được phát hiện tại vùng biển Kiên Giang, Cà Mau, và Vũng Tàu.
Từ năm 2008 đến 2013, một nhóm các nhà nghiên cứu, trợ lý nghiên cứu, sinh viên và đào tạo viên quốc tế đã tiến hành 6 mùa điền dã nghiên cứu tại Việt Nam Nhóm này bao gồm các chuyên gia trong các lĩnh vực khảo cổ, khảo sát, địa vật lý, cảnh quan môi trường cổ và nghiên cứu ký ức, đến từ nhiều quốc gia như Mỹ và Úc.
Nhóm nghiên cứu Canada, Nhật Bản và Việt Nam đã hợp tác với Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cùng các đối tác như trường đại học, tổ chức phi chính phủ và chính quyền địa phương Chương trình nhằm nghiên cứu và nâng cao nhận thức cộng đồng về khảo cổ học biển và di sản văn hóa dưới nước tại Việt Nam Các hoạt động bao gồm khóa tập huấn của Hội Khảo cổ học Hàng hải, nâng cao năng lực về khảo cổ học dưới nước, và phát triển các phương pháp tiếp cận đa ngành để bảo tồn di sản văn hóa dưới nước.
Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta đã hợp tác quốc tế để tiến hành nghiên cứu khảo cổ học dưới nước Tuy nhiên, việc khai quật chủ yếu vẫn do các thợ lặn nước ngoài hoặc trong nước thực hiện, trong khi chưa có sự tham gia đầy đủ của các nhà khảo cổ học dưới nước, đặc biệt là các nhà khảo cổ học Việt Nam với trang thiết bị chuyên dụng và kỹ năng cần thiết.
Từ năm 2013 – nay: bước đầu phát triển với việc thành lập các cơ
cơ quan nghiên cứu Khảo cổ học dưới nước
Năm 2013, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã được phép thành lập bộ phận khảo cổ học dưới nước, đánh dấu bước phát triển mới cho ngành này Mặc dù nguồn nhân lực và cơ sở vật chất còn hạn chế, việc thành lập Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học dưới nước đã mở ra cơ hội đào tạo đội ngũ cán bộ và các nhà khảo cổ học chuyên nghiên cứu di sản văn hóa dưới nước tại Việt Nam.
Tháng 7 năm 2013, Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học dưới nước được thành lập do TS Lê Thị Liên làm Trưởng phòng Đây là dấu mốc quan trọng, tạo cơ sở cho các hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế, trong các chương trình
Trong bài phát biểu chào mừng tại hội thảo quốc tế "Khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam và Đông Nam Á: Hợp tác để phát triển", Mark Staniforth (2014) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu, đào tạo và xây dựng năng lực cho ngành khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam Sự hợp tác trong lĩnh vực này không chỉ góp phần phát triển kiến thức mà còn nâng cao khả năng khai thác và bảo tồn di sản văn hóa dưới nước.
Từ năm 2014, hoạt động nghiên cứu khảo cổ học dưới nước tại Hà Nội và ba tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung, bao gồm Quảng Ninh, Nghệ An và Quảng Nam, đã diễn ra mạnh mẽ với sự hợp tác quốc tế Chương trình này, kết hợp với Dự án nghiên cứu chiến trường Vân Đồn và Bạch Đằng, nhằm hỗ trợ Việt Nam trong việc bảo tồn, bảo vệ và nghiên cứu di sản văn hóa dưới nước Đồng thời, chương trình cũng nâng cao năng lực thông qua việc đào tạo một đội ngũ các nhà khảo cổ học biển có kinh nghiệm.
Viện Khảo cổ học Việt Nam, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, đã tổ chức hội thảo quốc tế đầu tiên về khảo cổ học dưới nước mang tên “Khảo cổ học dưới nước Việt Nam và Đông Nam Á: hợp tác và phát triển.” Sự kiện thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia và được vinh danh là một trong 10 sự kiện khoa học công nghệ tiêu biểu năm 2014.
Trong giai đoạn 2014 - 2016, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã hợp tác với các nhà khảo cổ học Australia và UNESCO để tổ chức chương trình tập huấn quốc tế về khảo cổ học dưới nước Vào tháng 6 năm 2015, khóa đào tạo huấn luyện đầu tiên về khảo cổ học dưới nước (PADI Open Water SCUBA) đã được tổ chức tại Hội An, Quảng Nam.
Năm 2016, Việt Nam đã thành lập Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học dưới nước tại Hội An, với đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu và có khả năng làm việc dưới nước ở độ sâu 20m Trung tâm đã tổ chức nhiều chương trình khảo sát di sản văn hóa dưới nước, mang lại nhiều phát hiện mới Chương trình khảo cổ học hàng hải Việt Nam đã thực hiện các khảo sát tại khu vực cảng Vân Đồn, Đầm Lải, sông Bạch Đằng và các tàu đắm ở Châu Tân, Bình Châu Những khảo sát này đã xác định các khu vực tiềm năng cho các cuộc khai quật tiếp theo, đặc biệt là khu vực biển Bình Châu, cần được nghiên cứu thêm bằng các phương pháp không tác động trong khảo cổ học dưới nước.
Tháng 1 năm 2017, hội thảo quốc tế lần 2 về khảo cổ học dưới nước được tổ chức tại Hội An (Quảng Nam) với chủ đề “Bảo tồn di sản khảo cổ học dưới nước vì lợi ích cộng đồng” để chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia [4] 4 Hội thảo này đã thảo luận và chia sẻ bài học bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dưới nước, các vấn đề kỹ thuật và phương pháp thực hiện khảo cổ học để các chuyên gia Việt Nam có thêm kinh nghiệm áp dụng trong thời gian đến
Tính đến năm 2017, khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, mặc dù vẫn còn nhiều thách thức phía trước Ngành khảo cổ học này phát triển muộn hơn so với thế giới và xuất phát điểm gặp khó khăn với "ba không": không người, không tiền, và không cơ sở vật chất - kỹ thuật.
4 http://www.baoxaydung.com.vn/news/vn/van-hoa-the-thao/nghien-cuu-lap-ho-so-cac-di-chi-khao-co-duoi- nuoc-o-viet-nam.html
KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC VỚI NHỮNG THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU NỔI BẬT TÍNH ĐẾN NĂM 2017
Khảo cổ học các con tàu đắm cổ ở Việt Nam
2.1.1 Tàu cổ Hòn Cau (Vũng Tàu – Côn Đảo)
Vào năm 1990, xác tàu đắm Hòn Cau được phát hiện tại vùng biển Vũng Tàu, nằm ở độ sâu 40 mét và chôn vùi dưới lớp cát từ 0.6m đến 1m, cách hòn đảo Hòn Cau khoảng 15km Tàu được khai quật từ năm 1990 đến 1991 bởi công ty Visal, phối hợp với Hallstrom Holdings Oceanic của Thụy Điển, dưới sự dẫn dắt của chuyên gia khảo cổ học dưới nước Michael Flecker.
Cuộc khai quật đã thu thập tổng cộng 63.856 hiện vật, bao gồm 28.556 đồ gốm, 34.710 đồ sứ, 70 đồ đá, 448 đồ đồng, 18 đồ gỗ, 25 hiện vật từ chất liệu khác và 39 mẫu vật Tất cả các hiện vật này đã được xử lý bảo quản, kiểm kê, phân loại, đăng ký, chụp ảnh và làm lý lịch một cách cẩn thận.
Về niên đại: dựa trên hiện vật gốm và các hiện vật khác có chữ Hán như
Trong số các hiện vật tìm thấy, có 23,5 đồng tiền Vạn Lịch thông bảo (1573 – 16190), 1 đồng tiền Thuận Trị thông bảo (1644 – 1661) và 4 đồng tiền Khang Hy thông bảo (1662 – 1722) Ngoài ra, còn có một thỏi mực hình khối tứ giác với hai chữ Hán “Canh Ngọ” còn đọc được Nếu sử dụng niên hiệu Khang Hy là niên hiệu muộn nhất để xác định niên đại cho con tàu, thì năm Canh Ngọ trong niên hiệu Khang Hy tương ứng với năm 1690.
Phần lớn các vật dụng sinh hoạt phục vụ cho việc nấu nướng trong gia đình bao gồm những đồ như cối giã tiêu bằng đá, cối xay bột, mắm cá và quả hồng.
5 Nguyễn Quốc Hùng (1992), Khai quật kho tàng cổ dưới đáy biển Hòn Cau (Bà Rịa – Vũng Tàu), Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 83/1992, tr 62.
Trong bài viết của Nguyễn Quốc Hùng (2005) mang tiêu đề “Hơn một thập kỷ khai quật khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam”, tác giả đã tổng hợp và phân tích những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam trong suốt hơn mười năm qua Bài viết được đăng trong tập 2 của cuốn sách "Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam", do Nxb Khoa học xã hội phát hành tại Hà Nội, trang 293.
Trong bài viết của Nguyễn Quốc Hùng (2005), "Hơn một thập kỷ khai quật khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam", được xuất bản trong tập Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam, tác giả đã đề cập đến những phát hiện quan trọng từ các cuộc khai quật dưới nước, đặc biệt là tàu Hòn Cau, một con tàu buôn của Trung Hoa Các hiện vật như bếp lò nhỏ, nồi nấu cơm bằng đất, mực tàu, con dấu chữ triện, que ráy lỗ tai, khuy áo tròn, hộp đồng và tiền đồng đều có nguồn gốc từ thời nhà Thanh, cho thấy sự giao thoa văn hóa và thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá khứ.
Trong các hiện vật thu được, đồ gốm sứ chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc, bao gồm các sản phẩm từ lò Cảnh Đức Trấn và Đức Hóa, cùng với những yếu tố ngoại nhập theo phong cách châu Âu như bình lọ, cố, đài trang trí cho cung điện và lâu đài, cũng như hình người kéo đàn vĩ cầm Ngoài ra, đồ đồng bao gồm 2 khẩu thần công, 3 khẩu súng hiệu và đồng hồ đo thời gian bằng ánh sáng mặt trời, tất cả đều được sản xuất tại châu Âu.
Sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hóa và thương mại châu Âu vào Trung Quốc đã thúc đẩy sự phát triển đáng kể của ngành đồ sứ xuất khẩu Trung Quốc Những chiếc tàu từ các thương cảng miền Nam Trung Quốc đã khởi hành để thực hiện hành trình đến những quốc gia châu Âu xa xôi.
Nguyên nhân đắm tàu có thể liên quan đến một phần gỗ mạn tàu bị tìm thấy có dấu vết cháy, cho thấy khả năng tàu đã chìm do hỏa hoạn bất ngờ Đặc biệt, việc không tìm thấy hài cốt của bất kỳ ai trong lớp cát phủ trên boong và buồng tàu, cũng như khu vực di tích đã khoanh vùng, gợi ý rằng tàu có thể đã cháy chậm và các thủy thủ có khả năng đã được cứu thoát vào bờ, để lại hàng hóa chìm dưới nước.
Việt Nam đã quyết định đưa ra thị trường quốc tế 18 mặt hàng cổ vật độc bản, với tổng số lượng lên tới 28.000 món Đây là lần đầu tiên Việt Nam tổ chức bán đấu giá cổ vật ở nước ngoài, thu về tổng cộng 6.700.000 USD Các sưu tập tiêu biểu này được lựa chọn cẩn thận và giữ gìn tại các bảo tàng, góp phần tôn vinh giá trị văn hóa và lịch sử của đất nước.
2.1.2 Tàu cổ Hòn Dầm (Phú Quốc - Kiên Giang)
Tàu đắm Hòn Dầm, còn được biết đến là tàu cổ Phú Quốc, nằm dưới đáy biển Hòn Dầm, xã An Thới, Phú Quốc, Kiên Giang, ở độ sâu hơn 10 mét Tàu này đã bị đắm từ trước năm 1975, tạo nên một điểm đến hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá lịch sử và khảo cổ học dưới nước.
Hà Thị Sương (2014) đã trình bày những kinh nghiệm quý báu về khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam, so sánh với các nước Đông Nam Á trong bài viết của mình trên tạp chí Di sản Văn hóa số 2/2014 Bài viết này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam mà còn nêu bật những bài học và phương pháp từ các quốc gia trong khu vực, góp phần nâng cao nhận thức và bảo tồn di sản văn hóa Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào liên kết: http://baotang.hcmussh.edu.vn/?ArticleId80e7cf-4aa9-4ccc-bb19-50cf00427ebc.
Hà Thị Sương (2014) đã trình bày những kinh nghiệm quý báu về khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam, với sự so sánh và tham khảo từ các nước Đông Nam Á Bài viết được đăng trên tạp chí Di sản Văn hóa số 2/2014, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển và ứng dụng của khảo cổ học dưới nước trong khu vực Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại địa chỉ: http://baotang.hcmussh.edu.vn/?ArticleId80e7cf-4aa9-4ccc-bb19-.
Vào tháng 5 năm 1991, ban chỉ đạo trục vớt tàu cổ được thành lập để khai quật con tàu đắm được ngư dân Kiên Giang phát hiện Tàu có kích thước bề ngang 7m và dài gần 30m, với nhiều khoang hầm ở giữa, mỗi khoang rộng 1,8m Gỗ dưới đáy tàu vẫn còn chắc chắn, trong khi gốm vỡ và san hô phân bố rải rác trên mặt biển, với phần lớn đồ gốm bị hàu kết lại thành khối.
Do chưa tiến hành khai quật theo phương pháp khảo cổ học, việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào gốm sứ với hơn 15.000 hiện vật được phát hiện.
- Về loại hình: hầu hết thuộc gốm gia dụng gồm bát, đĩa, tô, chén, tráng men nhẹ lửa…
- Về men: chủ yếu là gốm men màu đơn sắc, men chảy như xanh ngọc, chì, đồng, ngà, da lươn…
- Về xương gốm: xương đất màu hồng xám là đặc trưng của gốm
Sawankhalok, Suphanburi (Thái Lan) có niên đại vào khoảng thế kỷ XV – XVI
- Về trang trí: chủ yếu là kỹ thuật khắc chìm, in vào xương đất và phủ men bên ngoài
Khảo cổ học hàng hải với những hoạt động thương mại trên biển và các trận thủy chiến trong lịch sử Việt Nam
2.2.1 Các cảng, hải cảng cổ
Trong suốt hàng nghìn năm, các cộng đồng cư dân cổ tại Việt Nam và Đông Nam Á đã tận dụng những điều kiện tự nhiên thuận lợi của biển để thực hiện hoạt động giao thương và giao lưu văn hóa với thế giới bên ngoài.
Từ thời kỳ cổ đại, cư dân của văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn đã di chuyển giữa đất liền và các hải đảo Theo các nhà nhân chủng học, những sọ cổ của họ cung cấp nhiều thông tin quý giá về sự phát triển văn hóa và lối sống của người dân thời đó.
45 http://www.baomoi.com/nhung-phat-hien-moi-cua-khao-co-hoc-duoi-nuoc-thu-vien-lau-doi-nhat-the-gioi-mo- cua-tro-lai/c/20405753.epi
Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Hùng (2005) chỉ ra rằng người thời Hòa Bình và Bắc Sơn ở lục địa có nhiều điểm tương đồng với những sọ cổ cùng thời được phát hiện ở các hải đảo Kỹ nghệ mảnh tước tại Việt Nam và Thái Lan cũng xuất hiện ở Java và Philippines, cho thấy việc di chuyển giữa các khu vực này chỉ có thể diễn ra bằng đường biển, sử dụng các phương tiện hàng hải cổ đại.
Vào đầu công nguyên, Việt Nam đã trở thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới giao thương giữa phương Đông và phương Tây, nhờ vị trí chiến lược trên trục hải thương giữa Trung Quốc và các khu vực Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á Các cảng biển như Vân Đồn, Hội Thống, Phố Hiến, Hội An, Thị Nại và Óc Eo đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại, phục vụ cho các hoạt động giao thương quốc tế Vân Đồn là cửa biển quan trọng của vùng Đông Bắc, trong khi Hội Thống và Phố Hiến là trung tâm giao thương sầm uất vào thế kỷ XV – XVI Hội An được biết đến như một tam giác ngoại thương giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Đông Nam Á, còn Thị Nại là đô thị cổ của Champa với chức năng quân cảng và thương cảng Óc Eo không chỉ là thương cảng của vương quốc Phù Nam mà còn là điểm dừng chân cho các thương thuyền trong hải trình thương mại quốc tế.
Từ thế kỷ XV, Việt Nam đã trở thành trung tâm giao thương quốc tế nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của các cảng thị, không chỉ là điểm trung chuyển mà còn là nơi giao lưu kinh tế và văn hóa sôi động của cư dân Các cảng này đã góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại và hình thành nên những nét văn hóa đặc sắc của vùng biển Việt Nam.
Bài viết của Phan Huy Lê (2007) trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử đã phân tích di tích văn hóa Óc Eo và các thư tịch cổ để nhận diện nước Phù Nam Đồng thời, nghiên cứu cũng đề cập đến cảng Vân Đồn và việc khai quật di tích Cống Cái – Sơn Hào tại Quan Lạn, góp phần làm sáng tỏ giá trị lịch sử và văn hóa của khu vực này.
Vào năm 2014, Viện Khảo cổ học đã phối hợp với Ban QLDTTD Quảng Ninh và các chuyên gia khảo cổ học quốc tế thực hiện khảo sát và khai quật tại khu vực Cống Cái, thôn Sơn Hào, xã đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh Đoàn khảo cổ đã mở 5 hố khai quật và 2 hố thám sát với tổng diện tích 66m², phát hiện hơn 26.000 di vật, chủ yếu là mảnh vỡ từ nhiều triều đại và nguồn gốc nước ngoài.
Khu vực Cống Cái - Sơn Hào, qua kết quả khai quật năm 2016 và khảo sát năm 2017, được các chuyên gia khảo cổ xác định là một điểm quan trọng trong hệ thống Thương cảng Vân Đồn Nơi đây cũng có mối liên hệ với Chiến thắng Vân Đồn năm 1288, gắn liền với danh tướng Trần Khánh Dư.
Các cuộc điều tra và nghiên cứu các con tàu đắm ở vùng biển Việt Nam cho thấy nước ta đã tích cực tham gia vào thương mại trên biển, với đồ gốm là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Việc so sánh đồ gốm sứ từ các tàu đắm cổ ở Biển Đông với các phát hiện khảo cổ trên đất liền giúp làm sáng tỏ con đường hàng hải quốc tế và sự giao lưu buôn bán của Việt Nam.
Khối lượng hiện vật khổng lồ từ 6 con tàu đắm đã được khai quật ở Việt Nam chứng minh rằng vùng ven biển Đông là một trong những con đường hàng hải lớn nhất thế giới Những hiện vật này không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn khẳng định vai trò quan trọng của khu vực trong thương mại hàng hải toàn cầu.
48 http://laodong.com.vn/quang-ninh/khai-quat-khao-co-hoc-di-tich-cong-cai-van-don-day-dac-dau-tich-van- hoa-lich-su-619578.bld
49 http://baoquangninh.com.vn/van-hoa/201705/nhung-phat-hien-moi-ve-thuong-cang-van-don-o-quan-lan- 2342588/
Việt Nam, với vị trí chiến lược trên con đường buôn bán đường dài qua biển Đông, đóng vai trò quan trọng như "tiền trạm" trong giao thương Đông – Tây Không chỉ thực thi chủ quyền của nước chủ nhà, đặc biệt trong thời Nguyễn, Việt Nam còn là trung tâm cung cấp hàng hóa xuất khẩu, nổi bật là hàng gốm sứ Chu Đậu, chiếm phần lớn trong số hàng hóa của tàu đắm Cù Lao Chàm.
Các con tàu đắm tại vùng biển nam Trung Quốc và Thái Lan đã cung cấp nhiều sản phẩm quý giá, phản ánh hoạt động giao thương tấp nập trên biển Con đường hàng hải, kéo dài từ nam Trung Quốc qua biển Đông đến Ấn Độ, Trung Đông và Châu Âu, được ví như “con đường tơ lụa trên biển” hay “con đường gốm sứ” Di sản văn hóa từ các tuyến đường này đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng biển Đông, tuy nhiên, khảo cổ học dưới nước tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khai thác ban đầu.
Lớp cọc trên sông Bạch Đằng, được phát hiện lần đầu vào năm 1953 tại huyện Yên Hưng, Quảng Ninh, và sau đó là lớp cọc thứ hai vào năm 2005 tại cánh đồng Vạn Muối, là những chứng tích lịch sử quan trọng của dân tộc Qua thời gian, dòng sông Bạch Đằng đã thay đổi, dẫn đến tình trạng bồi lấp và cạn kiệt ở nhiều khu vực Trong quá trình canh tác và nuôi cá, người dân đã vô tình nhổ cọc mang về sử dụng, gây nguy cơ mất mát những di sản lịch sử này Do đó, cần có kế hoạch quy hoạch tổng thể để bảo tồn và gìn giữ những chứng tích quý giá này trước khi chúng hoàn toàn biến mất.
Từ năm 2012 đến 2016, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với các chuyên gia quốc tế trong Chương trình nghiên cứu khảo cổ học Hàng hải Việt Nam (VMAP) đã tiến hành nhiều chương trình khảo sát khảo cổ học dưới nước tại Quảng Ninh, nổi bật là các cuộc khảo sát chiến trường.
51 https://khanhhoathuynga.wordpress.com/category/s%C6%B0u-t%E1%BA%A7m-g%E1%BB%91m-s
%E1%BB%A9-trung-hoa-ki%E1%BA%BFn-th%E1%BB%A9c/tai-li%E1%BB%87u-g%E1%BB%91m-s
%E1%BB%A9-c%E1%BB%95-t%E1%BB%AB-cac-tau-buon-d%E1%BA%AFm/page/3/
Bạch Đằng, thuộc Quảng Yên, hiện nay chỉ còn là những bãi bùn xa bờ biển và Thương cảng Vân Đồn, nơi từng sầm uất nhưng giờ vẫn chìm dưới nước.
- Di tích Bãi Cọc Bạch Đằng:
+ Di tích bãi cọc Yên Giang nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120 m, chiều rộng khoảng 20 m Sau lần khai quật đầu tiên vào năm
1958 và nhiều lần sau đó vào các năm 1969, 1976, 1984, 1988 và khai quật năm 2013 cho thấy cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 - 2,8 m, đường kính 20
- 30 cm Phần cọc được đẽo nhọn dài 0,5 - 1m để cắm thẳng xuống sông với khoảng cách trung bình 1 m → Nửa phía Bắc của trận địa cọc Bạch Đằng [Hình
Khảo cổ học biển - đảo: Biển Đông và các đảo gần bờ - xa bờ
Khảo cổ học biển - đảo và khảo cổ học dưới nước không chỉ là lĩnh vực chuyên môn trong Khảo cổ học mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn di sản văn hóa dưới nước Hơn nữa, nó còn mang ý nghĩa chính trị liên quan đến việc khẳng định chủ quyền biển đảo của quốc gia.
Các cuộc khai quật di tích trên các đảo ven bờ, Trường Sa và các tàu đắm từ thập niên 90 của thế kỷ XX đã đánh dấu những bước đầu tiên trong nghiên cứu khảo cổ học biển đảo Việt Nam Khảo cổ học biển đảo không chỉ giúp khám phá lịch sử văn hóa mà còn góp phần bảo tồn di sản quý giá của quốc gia.
Di tích Bãi Cốc Bạch Đằng là một trong những điểm đến quan trọng, nổi bật với các di tích khảo cổ học dưới nước, cùng với các khu vực ven biển và đảo Nghiên cứu và khám phá những giá trị lịch sử này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về văn hóa và lịch sử của Việt Nam mà còn thu hút du khách đến tham quan và tìm hiểu.
2.3.1 Dấu tích hoạt động của cư dân ở Biển Đông
Theo các tài liệu và chứng cứ khảo cổ học, cư dân Việt cổ đã sớm gắn bó với biển cả trong đời sống sinh hoạt Biển và đảo không chỉ là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc mà còn tạo nên môi trường sống và phát triển bền vững cho dân tộc Việt Nam.
Người Việt có chủ quyền trên biển Đông, đã khai thác hải sản trên một vùng biển đảo:
Một loạt hiện vật khai quật tại các di chỉ ven biển đã chứng minh việc khai thác biển Đông của người ven bờ từ văn hoá Hạ Long đến các dấu gốm Hoa Lộc và đồ gốm Hòa Diêm Đặc biệt, một số đồ vàng và trang sức từ Ấn Độ và Trung Cận Đông đã xuất hiện tại Việt Nam trong thời cổ đại, cho thấy sự tồn tại của một con đường biển sớm, phục vụ cho việc trao đổi gia vị từ thời kỳ này.
Một loại di sản quan trọng thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển đảo là các bản đồ do người phương Tây vẽ, chẳng hạn như bản đồ vùng Viễn Đông được lập vào năm
Vào năm 1774, dưới triều đại Vua Lê Hiển Tông, quần đảo Hoàng Sa (Paracel) đã được vẽ và ghi chú rõ ràng thuộc về Đại Việt Đến đầu thế kỷ 19, thời Minh Mạng, nhà vua tiếp tục chỉ đạo vẽ bản đồ để khẳng định chủ quyền lãnh thổ.
“Đại Nam Nhất thống toàn đồ” thể hiện rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa Nhiều tài liệu lịch sử, bao gồm các châu bản của vua Nguyễn, đã xác nhận quyền sở hữu biển đảo này Ngoài ra, tác phẩm "Phủ biên tạp lục" của nhà bác học Lê Quý Đôn vào năm 1776 cũng ghi nhận sự thành lập và hoạt động của Hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải dưới triều đại Lê Trung Hưng.
Trong 30 năm qua, các cuộc khai quật khảo cổ học dưới nước và trục vớt tàu đắm tại vùng biển Đông Việt Nam đã phát hiện nhiều di vật thời Trần, Lê, Nguyễn, cung cấp bằng chứng thuyết phục về “con đường gốm sứ” qua hải phận nước ta, bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa, thuộc chủ quyền Việt Nam từ xa xưa Những phát hiện từ 6 con tàu cổ cùng thông tin từ báo chí và tài liệu lưu trữ quốc tế đã khẳng định vai trò quan trọng của biển Việt Nam trong con đường tơ lụa và gốm sứ trên biển từ nhiều thế kỷ trước.
2.3.2 Các cuộc khai quật ở các đảo
Cuộc khai quật khảo cổ học tại quần đảo Trường Sa vào năm 2014 với các đảo gồm Trường Sa Lớn, Nam Yết, Phan Vinh và Sơn Ca [5] 53
Tại đảo Trường Sa Lớn, đoàn khảo sát đã tiến hành thăm dò toàn bộ bề mặt đảo và mở một hố thám sát diện tích 1m² Kết quả thu được từ khảo sát bề mặt gồm một mảnh bát thời Trần, hai mảnh gốm men trắng vẽ lam thời Lê, và nhiều mảnh sành thuộc thế kỷ XVIII - XIX Ngoài ra, hố thám sát cũng thu được bốn mảnh gốm thô từ thời kỳ tiền sử.
Tại đảo Sơn Ca, đoàn khảo cổ đã phát hiện một số mảnh sành có niên đại từ thế kỷ XVIII đến nay Trong khi đó, tại đảo Nam Yết, các nhà khảo cổ tìm thấy một mảnh gốm men trắng vẽ lam thuộc thời Lê cùng với một số mảnh sành cũng từ thế kỷ XVIII.
Các bằng chứng khoa học đã chứng minh sự hiện diện liên tục của người Việt và các hoạt động trên biển của cư dân tiền sử tại quần đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với biển và đảo trong hải phận quốc gia.
53 http://biengioibienbentre.vn/noi-dung/ket-qua-khao-co-hoc-o-truong-sa-khang-dinh-chu-quyen-bien-dao.html