Quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản
Thời hiệu khởi kiện là yếu tố quan trọng trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan Việc xác định thời hiệu khởi kiện có hay không sẽ quyết định đến khả năng bảo vệ quyền lợi của các chủ thể Pháp luật dân sự đã quy định rõ ràng các vấn đề này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên Đặc biệt, yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản không thuộc trường hợp phải tính thời hiệu khởi kiện.
Quyền nhân thân là quyền dân sự không thể chuyển nhượng cho người khác, trừ khi có quy định khác trong luật Từ góc độ lịch sử, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không phải là quy định mới Điều này đã được Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 quy định, trong đó Bộ luật dân sự 2005 đã kế thừa nguyên vẹn các quy định của Bộ luật dân sự năm 1995.
Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015, không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, ngoại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác Điều này có nghĩa là tất cả các yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân, bất kể có gắn với tài sản hay không, đều không bị ràng buộc bởi thời hiệu khởi kiện Tuy nhiên, vấn đề phát sinh khi quyền nhân thân gắn với tài sản, vì pháp luật lại quy định về thời hiệu khởi kiện trong các tranh chấp tài sản Để giải quyết tình trạng này, Bộ luật dân sự 2015 quy định rằng chỉ có yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản mới không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Theo Khoản 2 Điều 160 Bộ luật Dân sự 2005, quy định về thời hiệu khởi kiện đã kế thừa từ Khoản 2 Điều 169 Bộ luật Dân sự 1995, trong đó nêu rõ rằng thời hiệu khởi kiện không áp dụng đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, trừ khi pháp luật có quy định khác.
Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng thời hiệu khởi kiện sẽ áp dụng cho các tài sản, đánh dấu sự thay đổi so với Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 Cụ thể, chỉ khi quyền nhân thân không liên quan đến tài sản bị xâm phạm thì mới không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Quyền nhân thân được định nghĩa theo Bộ luật dân sự năm 2015, bao gồm các quyền cơ bản của cá nhân Bộ luật này phân loại quyền nhân thân thành hai nhóm: quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản, từ đó làm rõ năng lực pháp luật dân sự của cá nhân Việc nghiên cứu các quy định này giúp hiểu rõ hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong xã hội.
Theo Bộ luật Dân sự 2015, việc phân biệt giữa hai phạm trù liên quan đến thời hiệu khởi kiện là rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền nhân thân Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa cung cấp định nghĩa rõ ràng hay hướng dẫn cụ thể để xác định hai đối tượng này, dẫn đến sự hiểu biết khác nhau về quyền nhân thân có liên quan đến tài sản hay không Điều này gây khó khăn trong việc nhận diện và áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện.
Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2005, khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm, cá nhân đó có quyền tự mình cải chính, yêu cầu người vi phạm hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi và cải chính công khai.
5 Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB Công an nhân dân, tr.297
6 Các quyền nhân thân được quy định cụ thể từ Điều 26 đến Điều 39 Bộ luật dân sự 2015, bao gồm:
- Quyền xác định, xác định lại dân tộc
- Quyền được khai sinh, khai tử
- Quyền đối với quốc tịch
- Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
- Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
- Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
- Quyền xác định lại giới tính
- Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
- Quyền nhân thân trong hôn nhân và đình
Theo Khoản 1 Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản, đồng thời quy định thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại Mặc dù các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân tại Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2005 không được đề cập trong Bộ luật 2015, nhưng quyền yêu cầu Tòa án xử lý vi phạm vẫn được ghi nhận Cụ thể, cá nhân có quyền yêu cầu thu hồi, tiêu hủy hình ảnh vi phạm và bồi thường thiệt hại Ngoài ra, cá nhân cũng có quyền yêu cầu xin lỗi và cải chính công khai khi thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của mình.
Khi quyền nhân thân bị xâm phạm, cá nhân không chỉ có thể thực hiện các biện pháp bảo vệ như tự cải chính hay yêu cầu xin lỗi từ người vi phạm, mà còn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần Đây là một phương thức pháp lý quan trọng giúp cá nhân bảo vệ quyền nhân thân của mình.
Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hành vi xâm phạm quyền nhân thân không gắn với tài sản là một vấn đề quan trọng Theo Điều 34 Bộ luật dân sự 2015, cá nhân có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án buộc bên xâm phạm phải bồi thường thiệt hại (nếu có) Đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản, theo khoản 1 Điều 155 BLDS 2015, không áp dụng thời hiệu khởi kiện Tuy nhiên, đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thời hiệu khởi kiện được quy định cụ thể: theo Bộ luật dân sự 2005 là 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trong khi theo Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu này là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết về việc xâm phạm quyền lợi của mình.
8 Đỗ Văn Đại (Chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015”, nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.207
Theo quy định tại Điều 607 Bộ luật Dân sự 2005, khi quyền hợp pháp của cá nhân bị xâm phạm, câu hỏi đặt ra là liệu có áp dụng thời hiệu khởi kiện hay không Thời hiệu khởi kiện sẽ được giải quyết dựa theo Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015, trong đó nêu rõ các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Theo Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện là 03 năm Trong một quan hệ tranh chấp, có thể có hai căn cứ pháp luật khác nhau với hậu quả pháp lý khác nhau, điều này cho thấy sự phức tạp trong việc áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện.
Pháp luật dân sự quy định rằng không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản Tuy nhiên, các khái niệm liên quan đến "quyền nhân thân không gắn với tài sản" cần được làm rõ để hiểu đúng bản chất và ý nghĩa của quy định này.
Quyền nhân thân gắn với tài sản chưa có quy định rõ ràng, gây khó khăn trong việc phân biệt khi áp dụng quy định về thời hiệu Đặc biệt, trong trường hợp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyền nhân thân không gắn với tài sản bị xâm phạm, tồn tại sự chồng chéo giữa hai căn cứ pháp luật về thời hiệu Do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLDS 2015 chưa được thực hiện thống nhất trong thực tiễn Vấn đề này sẽ được phân tích khi xem xét thực trạng áp dụng quy định pháp luật liên quan.
Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản và giải pháp hoàn thiện
Quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ và không ai có quyền xâm phạm trái pháp luật Khi quyền này bị xâm phạm, người bị xâm phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án can thiệp Tuy nhiên, do những khác biệt về ý chí và hoàn cảnh, yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân có thể không được thực hiện ngay lập tức, mà có thể được đưa ra sau một khoảng thời gian Do đó, vấn đề thời hiệu và sự phân định giữa quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản trở nên quan trọng.
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín là quyền nhân thân thiết yếu của mỗi cá nhân Khi những quyền này bị xâm phạm trái pháp luật và dẫn đến thiệt hại, người vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường Các quy định pháp luật đã chỉ rõ rằng việc bảo vệ danh dự và uy tín không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của xã hội.
Điều 588 BLDS 2015 chưa đưa ra quy định rõ ràng về "quyền nhân thân không gắn với tài sản" và "quyền nhân thân gắn với tài sản" Đồng thời, việc khởi kiện bồi thường thiệt hại liên quan đến danh dự, nhân phẩm, uy tín gặp phải xung đột pháp luật về thời hiệu do có hai quy định khác nhau Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thời hiệu.
Trong vụ án đầu tiên, bà Nguyễn Thị T và ông Hà Ngọc H đã kiện ông Lý với yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm Vụ tranh chấp này nêu bật tầm quan trọng của việc bảo vệ danh tiếng cá nhân trong xã hội.
Minh B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C 13
Vào ngày 05/11/2016, bà T và ông H đã gửi Đơn khởi kiện ông A và ông C, cáo buộc rằng vào ngày 19/8/2014, ông A và ông C đã xác nhận những thông tin sai lệch trong lý lịch gia đình bà, gây tổn hại nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của vợ chồng bà Do đó, họ yêu cầu Tòa án buộc ông A và ông C phải bồi thường thiệt hại và công khai xin lỗi.
Toà án cấp sơ thẩm đã xác định rằng thời điểm ông A và ông C xác nhận vào lý lịch gia đình bà T và ông H là ngày 19/8/2014 Tuy nhiên, khi bà T và ông H khởi kiện vào ngày 07/11/2016 thì đã quá thời hạn khởi kiện theo quy định tại Điều 159 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 và Điều 607 BLDS 2005, trong đó quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 02 năm Do đó, yêu cầu của bà T và ông H đã bị đình chỉ.
Theo Toà án cấp phúc thẩm, danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân được bảo vệ theo quy định tại Điều 24 BLDS 2005 (khoản 1 Điều 25 BLDS 2015) thuộc quyền nhân thân, là quyền dân sự không thể chuyển nhượng Do đó, cần xác định rõ đối tượng mà nguyên đơn yêu cầu bảo vệ là quyền nhân thân bị xâm phạm theo Điều 25 BLDS năm 2005.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 184 BLTTDS 2015 và khoản 2 Điều 160 BLDS 2005 (Khoản 1 Điều 155 BLDS 2015), đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
- Vụ án thứ hai: Tranh chấp “Đòi bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại” giữa ông Nguyễn Văn H với chị Hoàng Thị L 14
Bản án 10/2018/DS-PT ngày 22/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang liên quan đến tranh chấp bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm Trường hợp này nhấn mạnh quyền được bảo vệ danh dự và nhân phẩm của cá nhân trong xã hội Quyết định của tòa án đã chỉ ra rằng việc xâm phạm danh dự có thể dẫn đến hậu quả pháp lý, yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu.
14 Bản án 05/2017/ST-DS ngày 17/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp
“Đòi bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm”, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta25 205t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 15/3/2020
Vào ngày 05/06/2017, ông H đã nộp Đơn khởi kiện chị L, cáo buộc rằng vào ngày 08/02/2016, trong lúc gia đình ông không có ở nhà, chị L đã đến và có hành vi chửi bới, xúc phạm tổ tiên của ông, dọa giết ông, gây mất trật tự, cùng với những lời lẽ làm tổn hại đến danh dự, uy tín và nhân phẩm của ông H và gia đình Khi ông H nhận được tin, ông đã trở về nhà và chứng kiến sự việc.
Chị L ngất xỉu trước cửa nhà trong khi nhiều thành viên trong gia đình chị cùng nhau chỉ trích gia đình ông H Họ cho rằng sự việc xảy ra vào ngày mùng 1 Tết, khi có người đến chửi bới, đã khiến gia đình ông H gặp xui xẻo, gây nghi ngờ về việc sử dụng bùa Nhận thấy danh dự và uy tín của mình bị xâm hại, ông H đã yêu cầu Tòa án can thiệp, buộc chị L phải bồi thường tổn thất tinh thần với số tiền 15.000.000 đồng.
Tòa án đã xác định rằng yêu cầu khởi kiện của ông H đối với chị L nằm trong thời hiệu luật định Cụ thể, thời gian tính từ ngày 08/02/2016, khi ông H nhận thức được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, đến ngày 05/6/2017, khi ông H nộp Đơn khởi kiện, vẫn còn trong thời hạn 03 năm theo quy định chung về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Hai vụ án nêu trên phản ánh xung đột trong việc lựa chọn thời hiệu để giải quyết tranh chấp liên quan đến yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và bảo vệ quyền nhân thân Cụ thể, vấn đề tranh chấp về yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm đã đặt ra nhiều quan điểm khác nhau.
Theo quan điểm thứ nhất, trong trường hợp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thời hiệu khởi kiện được áp dụng theo quy định tại Điều 588 Bộ luật Dân sự 2015 là 3 năm, khác với thời hiệu 2 năm quy định tại Điều 607 Bộ luật Dân sự 2005 Đây là quan điểm của các Tòa án cấp sơ thẩm trong hai vụ án đã nêu.
Quan điểm thứ hai cho rằng Tòa cấp phúc thẩm (Tòa án tỉnh Bắc Giang) xem xét tranh chấp dựa trên quyền nhân thân của đối tượng yêu cầu bảo vệ Do đó, đây là trường hợp khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không liên quan đến tài sản, và không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLDS năm 2015 (khoản 2 Điều 160 BLDS 2005).
Quy định của pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu
Tại Việt Nam, quyền sở hữu được nhà nước bảo vệ và không ai được xâm phạm trái pháp luật Trong trường hợp cần thiết vì quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích quốc gia, nhà nước có thể trưng mua hoặc trưng dụng tài sản với bồi thường theo giá thị trường Khi quyền sở hữu bị xâm phạm, các cá nhân hoặc tổ chức có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền, bao gồm cả Tòa án, bảo vệ quyền lợi của mình.
Khi giải quyết các vụ việc tại Tòa án, vấn đề thời hiệu khởi kiện là rất quan trọng Tuy nhiên, đối với tranh chấp liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu theo Bộ luật dân sự 2015, không áp dụng thời hiệu khởi kiện Quyền sở hữu tồn tại khi tài sản còn, do đó pháp luật dân sự không quy định thời hiệu cho việc khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu Để ổn định quan hệ dân sự và bảo vệ quyền lợi cho người chiếm hữu ngay tình, pháp luật quy định thời hiệu xác lập quyền sở hữu Cụ thể, nếu một người chiếm hữu ngay tình, liên tục và công khai tài sản, chủ sở hữu chỉ có thể khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu nếu việc chiếm hữu đó chưa đủ 10 năm đối với động sản và chưa đủ 30 năm đối với bất động sản.
Theo Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015, người chiếm hữu ngay tình, công khai và liên tục một động sản không cần đăng ký trong 10 năm, mà không có sự kiện nào làm gián đoạn thời hiệu, sẽ được pháp luật công nhận là chủ sở hữu.
Theo Khoản 2 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện không áp dụng đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ khi có quy định khác trong Bộ luật này hoặc các luật liên quan.
Theo Trần Thị Huệ (2017), việc sở hữu tài sản được xác định bởi thời hiệu hưởng quyền dân sự Nếu người nguyên là chủ sở hữu khởi kiện đòi lại tài sản động sản sau mười năm, yêu cầu của họ sẽ không được chấp nhận Điều này xảy ra vì người chiếm hữu tài sản một cách ngay tình, công khai và liên tục đã được pháp luật công nhận là chủ sở hữu theo thời hiệu tại thời điểm kết thúc thời hạn.
Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về quy định "không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu" được nêu tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015, mà không đi sâu vào nội dung "Trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác."
Theo quy định mới trong Bộ luật Dân sự (BLDS) sửa đổi, không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, đánh dấu sự thay đổi so với BLDS năm 2005, khi chỉ có yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu Nhà nước được miễn thời hiệu khởi kiện Điều này cho thấy sự tiến bộ trong việc bảo vệ quyền sở hữu cá nhân và tài sản.
Từ năm 2015, quyền sở hữu của mọi chủ thể không bị giới hạn bởi thời hiệu khi bị xâm phạm, trừ khi có quy định pháp luật khác Quy định này mở rộng quyền bảo vệ sở hữu, không phân biệt hình thức sở hữu, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp và định hướng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 159 BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và quyền đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu không áp dụng thời hiệu Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã giải thích rằng tranh chấp về quyền sở hữu là việc xác định ai có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, trong khi tranh chấp về đòi lại tài sản liên quan đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình nhưng đang bị người khác quản lý, chiếm hữu Đặc biệt, đối với các tranh chấp này, bao gồm quyền sử dụng đất, không áp dụng thời hiệu khởi kiện khi thông qua giao dịch dân sự.
Nghị quyết quy định rằng trong trường hợp tranh chấp về việc đòi lại tài sản, thời hiệu khởi kiện sẽ không được áp dụng Để làm rõ quy định này, Nghị quyết đã đưa ra một ví dụ cụ thể nhằm giải thích tính hợp lý của việc không giới hạn thời gian khởi kiện trong các vụ việc liên quan đến tài sản.
23 Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Theo điểm b khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, trường hợp A cho B vay 500 triệu đồng vào ngày 01/01/2008 với thời hạn một năm, nhưng đến ngày 01/01/2009 B không trả gốc và lãi, thì A có quyền khởi kiện vào ngày 03/4/2011 để buộc B phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
B trong vụ án này sẽ phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi Tuy nhiên, yêu cầu thanh toán lãi suất không được Tòa án xem xét do đã hết thời hiệu khởi kiện Đối với yêu cầu về khoản gốc, Tòa án vẫn tiếp nhận và giải quyết theo thủ tục chung, bởi Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định rõ rằng tranh chấp đòi lại tài sản không bị áp dụng thời hiệu khởi kiện, điều này cũng được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP.
Với sự ra đời của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trước đó đã không còn hiệu lực thi hành.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã dẫn chiếu đến Bộ luật dân sự 2015 về thời hiệu khởi kiện, đặc biệt là Điều 155 BLDS 2015 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu Mặc dù quy định này được đánh giá là nhằm đồng bộ hóa các quy định về thời hiệu trong pháp luật dân sự, nhưng thực tế cho thấy việc áp dụng quy định này trong giải quyết tranh chấp gặp nhiều khó khăn Có nhiều quan điểm khác nhau về việc hiểu và áp dụng quy định này trong các vụ việc liên quan, dẫn đến sự không thống nhất trong việc xác định thời hiệu khởi kiện.
Theo Điều 155 Bộ luật dân sự 2015, không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, điều này đặt ra câu hỏi liệu tranh chấp quyền sở hữu tài sản và tranh chấp đòi tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu có được miễn thời hiệu khởi kiện hay không Trước đây, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi năm 2011) đã quy định rằng tranh chấp đòi lại tài sản không áp dụng thời hiệu khởi kiện Do đó, cần làm rõ liệu tranh chấp đòi tài sản có thuộc đối tượng không áp dụng thời hiệu hay không, và nếu không áp dụng thời hiệu, thì sẽ áp dụng căn cứ pháp luật nào cho các tranh chấp này.
Ví dụ: Ngày 05/01/2010 A cho B vay số tiền 400 triệu, hẹn 03 tháng sẽ trả, lãi suất thoả thuận là 2%/tháng Đến ngày 05/5/2010 A yêu cầu B trả nợ vốn và lãi
25 Đỗ Văn Đại (Chủ biên), tlđd (8), tr.207
Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu và giải pháp hoàn thiện
Theo quy định tại khoản 2 Điều 155 BLDS 2015, chỉ có quy định chung về việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trong khi các tranh chấp khác như đòi tài sản lại chưa rõ ràng về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện Các văn bản hướng dẫn trước đây về thời hiệu khởi kiện đã hết hiệu lực, dẫn đến sự lúng túng và không thống nhất trong thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp đòi tài sản tại toà án.
- Vụ thứ nhất: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là ông Lê Chí B và bà Phạm Thị H với bị đơn là bà Nguyễn Thị O 31
Vào ngày 16/11/2016, nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu bị đơn hoàn trả số tiền nợ còn lại là 1.142.000.000 đồng, theo hai Giấy vay tiền Cụ thể, khoản vay đầu tiên là 752.000.000 đồng vào ngày 07/3/2008 và khoản vay thứ hai là 390.000.000 đồng vào ngày 20/10/2008.
Bị đơn bà O thừa nhận nợ ông B và bà H tổng số tiền 493.000.000 đồng Về khoản tiền mà vợ chồng ông B và bà H khởi kiện, do ông B cho vay nặng lãi và đã cộng tiền lãi vào, vụ án trước đó đã bị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị hủy Do đó, bà O đề nghị Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho ông B và bà H.
Tại Bản án sơ thẩm số 11/2017/DSST ngày 20/6/2017 của TAND thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị quyết định: Áp dụng Điều 463, khoản 1 Điều 470, điểm b khoản
Theo Điều 688 Bộ luật Dân sự và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Chí B và bà Phạm Thị H Do đó, bà Nguyễn Thị O có nghĩa vụ phải trả số tiền 1.142.000.000 đồng cho ông Lê Chí.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn bà O kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng kháng cáo của bị đơn về việc thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết không có cơ sở Hội đồng xét xử đã xem xét kỹ lưỡng các chứng cứ và quy định pháp luật liên quan để đưa ra quyết định.
Khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu khi có yêu cầu từ một hoặc các bên trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án Trong trường hợp này, các đương sự không yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện, dẫn đến việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Theo điểm b khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự không áp dụng đối với các trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, đòi lại tài sản, hoặc quyền sử dụng đất bị quản lý, chiếm hữu bởi người khác Trong vụ án này, nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu bị đơn.
Bản án 14/2017/DS-PT ngày 25/09/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị liên quan đến tranh chấp hợp đồng vay tài sản, yêu cầu thanh toán số tiền nợ gốc 1.142.000.000 đồng theo các giấy vay tiền ngày 07/3/2008 và ngày 20/10/2008 Trong trường hợp này, yêu cầu của nguyên đơn được xác định là đòi lại tài sản, do đó không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự liên quan đến hai Giấy vay tiền ngày 07/3/2008 và ngày 20/10/2008, thời hiệu khởi kiện theo Điều 427 Bộ luật dân sự 2005 là 02 năm Tuy nhiên, nguyên đơn đã khởi kiện vào ngày 16/11/2016, khi thời hiệu đã hết Mặc dù bị đơn không yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện tại cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định yêu cầu đòi lại số tiền gốc của nguyên đơn không thuộc trường hợp áp dụng thời hiệu khởi kiện, theo điểm b khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP Do đó, Tòa án tỉnh Quảng Trị đã giữ nguyên bản án sơ thẩm, khẳng định việc áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện là hợp lý và phù hợp với quan hệ pháp luật tranh chấp cũng như thời điểm phát sinh tranh chấp trước ngày 01/01/2017.
Trong vụ tranh chấp tài sản, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh đang kiện vợ chồng ông Hà Văn Đ và bà Nguyễn Thị Ngọc về việc đòi lại tài sản.
Vào ngày 10/02/2017, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền vay 50.000.000 đồng mà vợ chồng bị đơn đã mượn vào ngày 12/6/2011, với thời hạn vay 06 tháng và không có thỏa thuận lãi suất Kể từ khi đến hạn, nguyên đơn đã nhiều lần liên lạc qua tin nhắn, điện thoại và đến nhà bị đơn để đòi nợ, nhưng bị đơn đã tránh né và không thực hiện nghĩa vụ trả nợ Do đó, nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán toàn bộ số tiền 50.000.000 đồng mà không tính lãi.
Tòa án nhận định rằng quan hệ tranh chấp phát sinh từ giấy vay tiền ký kết vào ngày 12/6/2011 giữa bà Nguyễn Thị Minh H1 và vợ chồng ông Hà Văn Đ, bà Nguyễn Thị Ngọc H2, với thời hạn vay là 06 tháng Đây là một vụ tranh chấp hợp đồng dân sự, thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự là 03 năm.
Vào ngày 10/02/2017, bà Nguyễn Thị Minh H1 đã khởi kiện, tuy nhiên thời hiệu khởi kiện đã hết Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, theo hướng dẫn tại điểm b khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu tài sản, việc đòi lại tài sản và quyền sử dụng đất do người khác quản lý cần được xem xét kỹ lưỡng.
Bản án số 42/2017/DS-ST ngày 08/08/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, liên quan đến tranh chấp "Đòi tài sản", nêu rõ rằng việc chiếm hữu tài sản thông qua giao dịch dân sự không bị ràng buộc bởi thời hiệu khởi kiện Do đó, tranh chấp này về việc đòi lại tài sản sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Trong vụ án này, thời điểm phát sinh tranh chấp diễn ra sau khi Bộ luật dân sự 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực Tòa án không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu đòi tài sản (50.000.000 đồng) là một quyết định hợp lý Tuy nhiên, việc Tòa án dựa vào Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP để lập luận và không áp dụng thời hiệu khởi kiện cho tranh chấp này lại không phù hợp với thời điểm phát sinh tranh chấp.
- Vụ thứ ba: Tranh chấp đòi tài sản giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn D Việt Nam với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Gốm xây dựng Đ 34