1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự việt nam

96 28 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 96
Dung lượng 1,39 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ (15)
    • 1.1. Khái niệm rút quyết định truy tố tại phiên tòa (15)
    • 1.2. Đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa (19)
    • 1.3. Cơ sở của việc quy định rút quyết định truy tố tại phiên tòa (21)
    • 1.4. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút quyết định (24)
    • 1.5. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước về rút quyết định truy tố tại phiên tòa (29)
      • 1.5.1. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự nước (30)
      • 1.5.2. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Liên (31)
      • 1.5.3. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản (32)
      • 1.5.4. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (33)
  • CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT (37)
    • 2.1. Quy định về thẩm quyền rút quyết định truy tố tại phiên tòa (37)
    • 2.2. Quy định về thời điểm và phạm vi rút quyết định truy tố tại phiên tòa (39)
    • 2.3. Quy định về hình thức rút quyết định truy tố tại phiên tòa (43)
    • 2.4. Quy định về căn cứ rút quyết định truy tố tại phiên tòa (47)
    • 2.5. Quy định về hậu quả rút quyết định truy tố tại phiên tòa (48)
  • CHƯƠNG III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TÒA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT (58)
    • 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút quyết định truy tố tại phiên tòa (58)
    • 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về rút quyết định truy tố tại phiên tòa (79)
      • 3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt (79)
      • 3.2.2. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả của hoạt động rút quyết định (86)
  • KẾT LUẬN (35)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Khái niệm rút quyết định truy tố tại phiên tòa

Tố tụng hình sự bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, tạo thành một quy trình liên tục trong việc giải quyết vụ án hình sự Mỗi giai đoạn đều là tiền đề cho giai đoạn tiếp theo, trong đó giai đoạn sau sẽ kiểm tra các hành vi và quyết định tố tụng của giai đoạn trước Đặc biệt, nếu không có sự truy tố từ Viện Kiểm sát trong giai đoạn truy tố, thì giai đoạn xét xử của Tòa án sẽ không thể diễn ra.

Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thông qua thủ tục tố tụng hình sự Quyền này được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là Viện kiểm sát nhân dân, thông qua các hoạt động như kiểm sát tính hợp pháp của hoạt động tố tụng, truy tố bị can ra Tòa án, thực hiện quyền buộc tội và bảo vệ cáo trạng tại phiên tòa.

Truy tố là chức năng quan trọng của quyền công tố, thể hiện hoạt động của Viện Kiểm sát (VKS) trong việc xem xét và quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trước Tòa án có thẩm quyền Trong giai đoạn này, VKS dựa vào các quy định của pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, để tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm kiểm tra và đánh giá một cách chính xác, khách quan các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án Dựa trên kết quả kiểm tra, VKS có thể đưa ra quyết định truy tố bị can, trả hồ sơ điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ vụ án hình sự Truy tố được hiểu là quyền năng đặc trưng mà Nhà nước trao cho VKS, và chỉ VKS mới có quyền thực hiện chức năng này.

9 đưa ra bản cáo trạng truy tố một người về một hay một số tội nào đó trước Tòa án có thẩm quyền xét xử

Trong giai đoạn truy tố, Viện Kiểm sát (VKS) quyết định việc truy tố bị can ra Tòa án thông qua bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn Bản cáo trạng cần dựa trên kết luận điều tra, nêu rõ thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, danh tính người thực hiện hành vi, thủ đoạn, mục đích, hậu quả, cùng các tình tiết quan trọng khác Ngoài ra, cần trình bày chứng cứ xác định tội trạng, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị can và các yếu tố liên quan khác Cuối cùng, phần kết luận của cáo trạng phải chỉ rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng, và bản cáo trạng phải được giao cho bị can.

Bản cáo trạng là văn bản pháp lý chính thức do Viện kiểm sát (VKS) ban hành để buộc tội bị can, thuộc thẩm quyền của Viện trưởng và Phó Viện trưởng VKS Tại phiên tòa, Kiểm sát viên (KSV) đại diện cho Viện trưởng và Phó Viện trưởng có trách nhiệm công bố và bảo vệ bản cáo trạng, phải đọc nguyên văn trước khi bổ sung thông tin nếu cần thiết Việc bổ sung này nhằm làm rõ nội dung của bản cáo trạng mà không thay đổi bất kỳ nội dung nào đã được xác định.

Việc truy tố bị can ra trước Tòa án thông qua bản cáo trạng được thực hiện bởi Viện Kiểm sát trong giai đoạn truy tố vụ án Sau khi quyết định truy tố, Viện Kiểm sát sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ và bản cáo trạng sang Tòa án có thẩm quyền Khi hồ sơ đã được chuyển, thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc về Tòa án, bao gồm việc xem xét và ra bản án Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng cần thiết để chuẩn bị cho phiên tòa Tại phiên tòa, Tòa án sẽ ra bản án dựa trên việc kiểm tra, đánh giá toàn diện các chứng cứ và lắng nghe các bên tranh tụng.

Nguyễn Nhứt (2007) trong luận văn Thạc sĩ Luật học của mình đã phân tích thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong bối cảnh cải cách tư pháp Tác giả đã nêu rõ những thách thức và cơ hội trong việc thực hiện quyền công tố, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này Nội dung nghiên cứu được trình bày chi tiết từ trang 44 đến 48, góp phần làm rõ vai trò của quyền công tố trong hệ thống tư pháp Việt Nam.

Trong giai đoạn xét xử, pháp luật tố tụng hình sự cho phép Viện Kiểm sát (VKS) rút lại quyết định truy tố trước và trong phiên tòa, dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau Để nghiên cứu về chế định này, cần làm rõ khái niệm đối tượng nghiên cứu Mặc dù việc rút quyết định truy tố đã được quy định trong pháp luật và có vai trò quan trọng về lý luận, pháp lý và thực tiễn, nhưng hiện tại, pháp luật tố tụng hình sự vẫn chưa cung cấp khái niệm pháp lý rõ ràng cho chế định này Hơn nữa, trong lĩnh vực khoa học pháp lý, có rất ít quan điểm đưa ra khái niệm về việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa.

Theo từ điển Tiếng Việt, "rút" có nghĩa là "thu lại, lấy ra, thu về" Do đó, "rút quyết định truy tố" có thể hiểu là việc thu hồi trách nhiệm hình sự đối với bị can đã được nêu trong bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn.

Theo Quan Tuấn Nghĩa, việc rút quyết định truy tố có nghĩa là ngừng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can như đã nêu trong bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn Quan điểm này được hình thành từ việc kết hợp thuật ngữ “rút” trong từ điển Tiếng Việt với bản chất của quyết định truy tố Tuy nhiên, quan điểm này chưa xây dựng được khái niệm rõ ràng về rút quyết định truy tố dựa trên các dấu hiệu đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, bao gồm chủ thể, căn cứ, pháp luật điều chỉnh và giai đoạn rút.

Theo tác giả Trần Đình Thắng: “Rút quyết định truy tố chính là rút cáo trạng

Rút toàn bộ quyết định truy tố có nghĩa là Viện kiểm sát thu hồi toàn bộ cáo trạng đối với người phạm tội Trong khi đó, rút một phần quyết định truy tố là khi Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét người phạm tội về một hoặc một số tội nhất định, hoặc không áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã nêu trong cáo trạng.

2 Từ điển Tiếng Việt (1994), Nhà xuất bản Khoa học xã hội

3 Quan Tuấn Nghĩa (2021), “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn thiện”, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 02, tr.31-37

Việc rút quyết định truy tố diễn ra qua hai giai đoạn: từ khi nhận hồ sơ vụ án đến trước khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, và từ khi có quyết định cho đến khi mở phiên tòa Quan điểm này cung cấp cái nhìn đầy đủ hơn về khái niệm rút quyết định truy tố, bao gồm cả việc rút một phần hoặc toàn bộ, cũng như các giai đoạn và chủ thể liên quan Tuy nhiên, căn cứ để rút quyết định truy tố vẫn chưa được đề cập rõ ràng Hơn nữa, việc đồng nhất rút quyết định truy tố với việc rút cáo trạng là chưa toàn diện, vì Viện Kiểm sát còn có thể ra quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn Do đó, trong luật, thuật ngữ “rút quyết định truy tố” được sử dụng thay vì “rút cáo trạng”.

Để xây dựng khái niệm về việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa, cần dựa vào các dấu hiệu đặc trưng như bản chất của việc rút, chủ thể, phạm vi, căn cứ pháp lý và giai đoạn rút quyết định Những yếu tố này sẽ giúp hình thành một khái niệm rõ ràng và chính xác về quy trình rút quyết định truy tố.

Việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa là quyền của Viện kiểm sát, cho phép rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố dựa trên các căn cứ luật định trong quá trình xét xử sơ thẩm.

Rút quyết định truy tố là quyền hạn của Viện Kiểm sát (VKS) trong việc thực hiện quyền công tố và giám sát tuân thủ pháp luật trong tố tụng hình sự Thực tiễn cho thấy, tại một số địa phương, nhiều yếu tố như thời gian, năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm có thể ảnh hưởng đến hoạt động truy tố Do đó, việc thay đổi hoặc rút quyết định truy tố trong phiên tòa là điều hoàn toàn có thể xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

4 Trần Đình Thắng, “Rút quyết định truy tố theo quy định của BLTTHS năm 2015”,

[https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/rut-quyet-dinh-truy-to-theo-quy-dinh-cua-bltth-2015] (truy cập ngày 10/6/2021)

Đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa

Dựa trên khái niệm về rút quyết định truy tố tại phiên tòa đã được nêu, có thể xác định các đặc điểm chính của việc rút quyết định truy tố trong bối cảnh phiên tòa.

Rút quyết định truy tố tại phiên tòa là một hoạt động pháp lý chủ động của Viện Kiểm sát (VKS), không thể thực hiện dưới dạng không hành động Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, việc này phải được thực hiện thông qua các hình thức cụ thể, thể hiện rõ mục đích và tính chất của hành vi tố tụng.

Rút quyết định truy tố là một hoạt động quan trọng trong quy trình tố tụng, có ý nghĩa chấm dứt việc truy tố đối với một hoặc nhiều cá nhân về các hành vi phạm tội Hoạt động này không chỉ làm ngưng yêu cầu xét xử của Viện Kiểm sát mà còn phải tuân thủ hình thức nhất định để đảm bảo tính hợp pháp Trong khi quyết định truy tố được thể hiện qua văn bản chính thức như bản cáo trạng, việc rút quyết định truy tố có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc lời nói, tùy thuộc vào thói quen làm việc và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước.

Viện kiểm sát nhân dân (VKS) hoạt động theo chế độ thủ trưởng, với Viện trưởng là người lãnh đạo cao nhất, điều hành và chỉ đạo các hoạt động của cơ quan Tất cả các quyết định tố tụng của VKS phải do Viện trưởng ban hành, và trong trường hợp vắng mặt, Viện trưởng có thể ủy quyền cho một Phó Viện trưởng thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình Phó Viện trưởng được ủy quyền sẽ chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao Quyết định truy tố là một trong những quyết định tố tụng đặc trưng của VKS.

Theo quy định, Viện trưởng và Phó Viện trưởng VKS là những chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định truy tố và chỉ họ mới có quyền rút lại quyết định này Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, việc rút quyết định truy tố thuộc thẩm quyền của Viện trưởng và Phó Viện trưởng Tuy nhiên, tại phiên tòa, Kiểm sát viên (KSV) có thể rút quyết định truy tố nếu có căn cứ, vì họ đại diện cho quyền lực Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ theo phân công Nếu vụ án do VKS cấp trên thực hành quyền công tố, quyết định truy tố do VKS cấp trên ban hành và KSV cấp dưới không có quyền rút quyết định này mà phải báo cáo VKS cấp trên để xem xét và quyết định.

Việc rút quyết định truy tố là hoạt động tố tụng do chủ thể có thẩm quyền thực hiện trong quá trình tố tụng hình sự, được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Hoạt động này phản ánh bản chất của tố tụng hình sự, trong đó các cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực Nhà nước để khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các hành vi vi phạm pháp luật hình sự Cơ sở để điều tra và truy tố một người là hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự Khi căn cứ để ra quyết định truy tố ban đầu không còn, Viện Kiểm sát (VKS) phải rút lại quyết định truy tố, đồng nghĩa với việc không còn căn cứ buộc tội đối với người đó.

Việc truy tố một cá nhân ra Tòa án của Viện Kiểm sát (VKS) yêu cầu phải có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người đó Do đó, khi quyết định rút truy tố, VKS cũng cần dựa trên các căn cứ pháp lý cụ thể được quy định trong luật, nhằm đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.

Việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát (VKS) chỉ được thực hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phải tuân thủ đúng thời điểm theo quy định pháp luật Phiên tòa sơ thẩm trải qua nhiều bước như thủ tục bắt đầu, tranh tụng, nghị án và tuyên án, do đó, việc rút quyết định truy tố cần diễn ra ở thời điểm hợp lý để đảm bảo sự hài hòa giữa các hoạt động tố tụng Nếu rút quyết định truy tố sau khi Hội đồng xét xử đã nghị án và tuyên án thì sẽ không còn ý nghĩa Cần lưu ý rằng việc rút quyết định truy tố không áp dụng tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, vì phúc thẩm dựa trên kháng cáo hoặc kháng nghị, không phải trên quyết định truy tố của VKS Vì vậy, rút quyết định truy tố chỉ phát sinh ở phiên tòa xét xử sơ thẩm trong các vụ án hình sự.

Phạm vi rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát (VKS) liên quan đến việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật hình sự Quyết định truy tố của VKS bao gồm việc xác định bị can và tội danh Khi rút quyết định truy tố, VKS có thể rút toàn bộ hoặc chỉ một phần, bao gồm việc rút truy tố đối với một hoặc nhiều bị can trong vụ án có nhiều bị can, hoặc rút truy tố liên quan đến một hoặc nhiều tội danh trong vụ án có nhiều tội danh Ngoài ra, VKS cũng có thể rút truy tố các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã được nêu trong bản cáo trạng.

Cơ sở của việc quy định rút quyết định truy tố tại phiên tòa

Việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, một yếu tố cốt lõi cần được bảo vệ và tôn trọng trong mọi lĩnh vực xã hội Hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, luôn cam kết tuân thủ các nguyên tắc này.

Để bảo vệ tốt nhất quyền con người của công dân, cần xây dựng các quy phạm pháp luật dựa trên những nguyên tắc đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế Việc này bao gồm việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về quyền con người, cũng như đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong việc thực thi các quy định pháp luật Đồng thời, cần tạo ra cơ chế giám sát độc lập và minh bạch để bảo vệ quyền lợi của công dân, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật.

Với vai trò thực hành quyền công tố, Viện Kiểm sát (VKS) có trách nhiệm đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự VKS cần ngăn chặn việc lọt tội phạm và người phạm tội, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người vô tội Đảm bảo xét xử của Tòa án diễn ra đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh là nhiệm vụ quan trọng của VKS trong việc duy trì công lý.

Nguyên tắc "suy đoán vô tội" là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, nhằm bảo vệ quyền lợi con người và đảm bảo hoạt động đúng đắn của các cơ quan tố tụng Nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều luật, thể hiện tính chất hiến định và tầm quan trọng trong việc đảm bảo công bằng trong quá trình xét xử.

Hiến pháp 2013, với vai trò là văn bản pháp lý cao nhất, khẳng định rằng người bị buộc tội được coi là vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án Điều này được quy định tại khoản 1 Điều 31 và tương tự cũng được nêu trong Điều 14 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 Nguyên tắc này không mới, đã được ghi nhận trong Điều 9 Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Pháp, cùng với Điều 11 Bản tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948, nhấn mạnh rằng mỗi bị cáo có quyền được coi là vô tội cho đến khi có chứng cứ pháp lý xác thực tại phiên tòa công khai.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được xây dựng và thực hiện nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 cùng với các tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của các quốc gia tiến bộ trên thế giới.

Rất tiếc, không tìm thấy trang này Nguyên tắc suy đoán vô tội là một khái niệm quan trọng trong pháp luật, nhấn mạnh rằng mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi có bằng chứng chứng minh ngược lại Việc tuân thủ nguyên tắc này là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của cá nhân và đảm bảo tính công bằng trong quy trình tố tụng.

6 Khoản 1 Điều 31 Hiếp pháp năm 2014

Bài viết đề cập đến 16 nguyên tắc cơ bản được quy định từ Điều 7 đến Điều 33, trong đó lần đầu tiên bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội tại Điều 13 Nguyên tắc này khẳng định rằng người bị buộc tội được coi là vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật Nếu không đủ căn cứ để buộc tội, cơ quan có thẩm quyền phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội của người bị buộc tội thông qua các chứng cứ và tài liệu xác thực Nếu chứng cứ không đủ để chứng minh sự phạm tội, điều đó đồng nghĩa với việc người đó được coi là vô tội, dẫn đến việc các quyết định tố tụng trước đó không còn hiệu lực và cần được thu hồi để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ Rút quyết định truy tố là hoạt động tố tụng quan trọng nhằm đình chỉ việc luận tội và yêu cầu xét xử tại Tòa án đối với một hay nhiều bị cáo Khi chứng cứ không đủ hoặc có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng, Viện Kiểm sát có quyền và nghĩa vụ rút lại quyết định truy tố và yêu cầu Tòa án đình chỉ xét xử, từ đó khôi phục mọi quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội như những công dân bình thường.

Việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhằm khắc phục kịp thời các thiếu sót trong hoạt động thực hành quyền công tố, đảm bảo giải quyết nhanh chóng và chính xác vụ án hình sự, tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng Các điều, khoản trong Bộ luật Hình sự là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với người phạm tội Sự áp dụng sai các điều, khoản này có thể dẫn đến việc truy tố và quyết định hình phạt không phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội.

7 Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Việc hạn chế hiệu quả trong giải quyết vụ án hình sự và tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm là một vấn đề nghiêm trọng Nhiều Kiểm sát viên (KSV) trong công tác thực hành quyền công tố thường gặp sai sót như nghiên cứu hồ sơ chưa sâu và áp dụng không đúng các tình tiết liên quan, dẫn đến nhận định sai về vụ án Trong quá trình giải quyết, việc xuất hiện tình tiết và chứng cứ mới có thể làm thay đổi nội dung quyết định tố tụng trước đó Để khắc phục những sai sót này, các cơ quan tố tụng cần điều chỉnh hoặc rút lại quyết định tố tụng, trong đó việc rút quyết định truy tố của VKS là rất quan trọng để đảm bảo tính khách quan, công bằng, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm Điều này không chỉ giúp giải quyết vụ án nhanh chóng và chính xác mà còn tiết kiệm thời gian và chi phí cho quá trình tố tụng.

Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút quyết định

- Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi có Bộ luật

Tố tụng hình sự năm 1988:

Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam đã hình thành và phát triển song hành với các giai đoạn cách mạng của đất nước Trong thời kỳ trước, Việt Nam chủ yếu rơi vào tình trạng chiến tranh và bao cấp, dẫn đến việc các quy định về tố tụng hình sự chủ yếu dựa vào các sắc lệnh và pháp lệnh ban hành riêng lẻ, thiếu tính đầy đủ và thống nhất do bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội còn nhiều bất ổn.

Bài viết "Tìm hiểu về Bộ luật Tố tụng hình sự" của Nguyễn Diễm cung cấp cái nhìn tổng quan về quy định và quy trình pháp lý trong lĩnh vực tố tụng hình sự Bộ luật này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và đảm bảo tính công bằng trong quá trình xét xử Để tìm hiểu thêm chi tiết, bạn có thể tham khảo tại [luatminhkhue.vn](https://luatminhkhue.vn/bo-luat-to-tung-hinh-su-la- gi -tim-hieu-ve-bo-luat-to-tung-hinh-su .aspx).

Do đó, những quy định về rút quyết định truy tố trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài sự phát triển nói trên

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thiết lập hệ thống pháp luật mới để quản lý đất nước Trong đó, Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 đã thành lập Tòa án thường án với quy định về cơ cấu tổ chức, bao gồm 01 Chánh án, 01 Biện lý và 01 Dự thẩm Tại phiên tòa, Chánh án đảm nhận vai trò xử án trong khi Biện lý giữ vị trí Công tố viên, với quyền truy tố hoàn toàn thuộc về Chưởng lý Tiếp theo, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 đã làm rõ vị trí của công tố và quy định cụ thể nhiệm vụ của Chưởng lý và Biện lý.

Ông Biện lý phải có mặt tại các phiên tòa hình sự để thay mặt xã hội buộc tội bị can Theo các sắc lệnh như Sắc lệnh số 131 và Sắc lệnh số 19, ngạch Thẩm phán được chia thành Thẩm phán xét xử và Thẩm phán buộc tội (Công tố viên) Hệ thống công tố tại tòa thượng thẩm và tòa đệ nhị cấp do Viên chưởng lý đứng đầu, với nhiệm vụ của Công tố viên bao gồm cảnh sát tư pháp, thực hành quyền công tố và giám sát điều tra Mặc dù Công tố viên hoạt động trong Tòa án, họ thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập và dưới sự giám sát của Viên chưởng lý Công tố viên có trách nhiệm truy tố bị can ra trước Tòa án, nhưng quy định về việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa chưa được ghi nhận cụ thể, mà nằm trong thẩm quyền thực hành quyền công tố của họ.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đã nêu rõ một số vấn đề quan trọng liên quan đến quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Bài viết này cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ công lý và quyền lợi của người dân Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào đường link sau: [https://vksndcc2.gov.vn/index.php?act=news&view94] (truy cập ngày 16/6/2021).

Đến năm 1950, công cuộc cải cách lần thứ nhất đã được thực hiện, cùng với việc thành lập và tổ chức Tòa án nhân dân các cấp, dẫn đến sự chuyển biến đáng kể trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố Những thay đổi này diễn ra song song với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và quá trình xây dựng miền Bắc sau ngày giải phóng.

Năm 1950, tổ chức và hoạt động của Viện công tố đã được củng cố và nâng cao đáng kể Điều này được thực hiện theo Nghị quyết ngày 29/8/1958 của Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ nhất.

Ngày 01/7/1959, Nghị định số 256/TTg và Nghị định số 321/TTg đã thành lập Viện công tố, tổ chức thành hệ thống bao gồm Viện công tố Trung ương, tỉnh, thành phố, huyện và các đơn vị hành chính tương đương cùng Viện công tố quân sự các cấp Qua đó, thẩm quyền của Viện công tố ngày càng được mở rộng Quyền công tố và thực hành quyền công tố của Viện công tố đã được nâng cao rõ rệt trong Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Năm 1981, các quy định về thực hành quyền công tố vẫn chưa được xác định rõ ràng, đặc biệt là các quy định liên quan đến việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa, dẫn đến tính chất chung chung trong việc áp dụng.

Trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành, quy định về việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa chưa rõ ràng, điều này ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết vụ án hình sự và đặt ra thách thức cho các nhà lập pháp.

- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988:

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, được Quốc hội thông qua vào ngày 29 tháng 6 năm 1988, đã trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung Các luật sửa đổi này được thông qua vào các ngày 30 tháng 6 năm 1990, 22 tháng 12 năm 1992, nhằm cập nhật và hoàn thiện quy định về tố tụng hình sự.

09 tháng 6 năm 2000 10 BLTTHS năm 1988 ra đời là một bước chuyển biến quan

Bài viết "Khái quát về pháp luật tố tụng hình sự từ năm 1945 đến nay" của Luật Việt cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phát triển và thay đổi của hệ thống pháp luật tố tụng hình sự tại Việt Nam từ năm 1945 Nội dung bài viết nhấn mạnh các giai đoạn quan trọng trong lịch sử pháp luật hình sự, từ những quy định ban đầu cho đến những cải cách hiện đại nhằm đảm bảo quyền lợi cho công dân và sự công bằng trong xét xử **Lưu ý SEO**- Sử dụng từ khóa chính: "pháp luật tố tụng hình sự", "Việt Nam", "1945 đến nay".- Tối ưu hóa tiêu đề và mô tả bài viết để thu hút người đọc và cải thiện thứ hạng trên công cụ tìm kiếm.

Trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, 20 quy định quan trọng đã có tác động tích cực đến việc giải quyết vụ án hình sự và hoạt động rút quyết định truy tố Cụ thể, vấn đề rút quyết định truy tố tại phiên tòa được quy định rõ ràng trong các Điều 169, 191, 195 và 196 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.

Vào năm 1988, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, trong đó có hướng dẫn cụ thể về việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa tại Mục III Tiếp đó, vào ngày 22 tháng 6 năm 1993, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 328/NCPL liên quan đến vấn đề này Các quy định trong BLTTHS năm 1988 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định rõ ràng về quy trình rút quyết định truy tố tại phiên tòa.

Sau khi xét hỏi, nếu Kiểm sát viên (KSV) rút một phần quyết định truy tố đối với một hoặc một số tội, hoặc một hoặc một số bị cáo, thì Hội đồng xét xử (HĐXX) vẫn tiến hành xét xử toàn bộ vụ án và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc rút quyết định truy tố Căn cứ vào việc chấp nhận hay không, HĐXX sẽ ghi vào bản án Nếu HĐXX chấp nhận, sẽ đình chỉ xét xử đối với phần quyết định truy tố đã rút Ngược lại, nếu không chấp nhận, HĐXX có quyền ra bản án đối với toàn bộ vụ án Trong trường hợp này, nếu Viện trưởng Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp hoặc cấp trên cho rằng việc rút quyết định truy tố là đúng, họ có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước về rút quyết định truy tố tại phiên tòa

Tác giả tiến hành nghiên cứu và so sánh pháp luật tố tụng hình sự của Anh, Liên Bang Nga, Nhật Bản và Trung Quốc với quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa Lý do cho sự lựa chọn này là các quốc gia trên đại diện cho những mô hình tố tụng hình sự khác nhau, trong đó nhiều nước có mô hình tố tụng tương đồng với Việt Nam.

Khoản 3 Điều 19 của Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, nhấn mạnh vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong việc đảm bảo công bằng và minh bạch trong quá trình tố tụng hình sự.

Việt Nam, ngoại trừ Anh theo mô hình tố tụng tranh tụng, có thể học hỏi từ các quốc gia có trình độ lập pháp phát triển về quy định rút quyết định truy tố tại phiên tòa Việc nghiên cứu các quy định này sẽ mang lại giá trị hữu ích trong việc cải thiện và hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam.

1.5.1 Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự nước Anh

Trong tố tụng hình sự Anh, nhằm tìm kiếm sự thật khách quan, phương pháp đối tụng giữa các bên được áp dụng, với nghĩa vụ chứng minh thuộc về cả bên buộc tội và bên gỡ tội, trong khi Thẩm phán giữ vai trò trung lập Đại diện cơ quan công tố ngang hàng với luật sư bào chữa, có trách nhiệm thu thập và trình bày chứng cứ tại phiên tòa Công tố viên thực hiện quyền công tố một cách khách quan, không thiên vị, và phải thông báo cho luật sư bào chữa về bất kỳ chứng cứ có lợi nào cho bị can Họ có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố, dẫn đến khả năng Tòa án đình chỉ vụ án Mô hình tranh tụng này tạo ra sự bình đẳng về quyền năng giữa các bên trong quá trình tố tụng.

Với việc 24 viên chức và luật sư bào chữa không còn, chức năng xét xử của Tòa án cũng bị đình chỉ, do đó, việc tiếp tục xét xử đối với cá nhân đó trở nên không khả thi.

1.5.2 Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga

Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga được Đuma quốc gia thông qua ngày

22 tháng 12 năm 2001 và được Hội đồng Liên Bang Nga phê chuẩn ngày 05 tháng

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2001 của Liên Bang Nga được cấu trúc thành 5 phần và 18 chương, bao gồm các quy định chung, thủ tục tố tụng trước khi xét xử, thủ tục xét xử, thủ tục đặc biệt, và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự Trong hệ thống này, tranh tụng được coi là nguyên tắc cơ bản, với các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện các chức năng riêng biệt, trong khi Tòa án đóng vai trò xét xử Đặc biệt, Điều tra viên là người lập bản cáo trạng sau khi hoàn thành điều tra, và phải chuyển bản cáo trạng cùng hồ sơ vụ án cho Kiểm sát viên (KSV) trong vòng 5 ngày KSV sau đó có các quyền quyết định như phê chuẩn cáo trạng, đình chỉ vụ án, hoặc yêu cầu điều tra bổ sung.

Bộ luật tố tụng hình sự đã tiếp thu tích cực mô hình TTHS Anh – Mỹ, cho phép Công tố viên rút toàn bộ nội dung truy tố tại phiên tòa Cả Công tố viên và Tòa án có quyền thay đổi nội dung truy tố dựa trên kết quả xét hỏi, với điều kiện không làm xấu đi tình trạng của bị cáo và không vi phạm quyền bào chữa Do đó, pháp luật tố tụng hình sự của Nga cho phép Công tố viên rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố sau khi xét hỏi, ảnh hưởng đến quy trình tố tụng.

14 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Mô hình tố tụng hình sự của Anh và xứ Wales”,

[https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/151] (truy cập ngày 15/4/2021)

Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án có thẩm quyền quan trọng trong việc buộc tội, bao gồm việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và xem xét tính đầy đủ của chứng cứ do cơ quan điều tra cung cấp Tòa án có thể xác định xem VKS có để lọt tội hay không và liệu tội danh truy tố có phù hợp hay không Nếu Tòa án nhận thấy VKS để lọt tội phạm, họ có quyền khởi tố vụ án và tiếp tục xét xử theo thủ tục chung, ngay cả khi VKS đã rút quyết định truy tố Điều này cho phép Tòa án tiến hành xét xử vụ án nếu họ cho rằng việc rút quyết định truy tố của Công tố viên không có cơ sở và có khả năng dẫn đến việc bỏ sót tội phạm.

1.5.3 Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản

Trong tố tụng hình sự Nhật Bản, tất cả các vụ án hình sự đều có sự tham gia của cơ quan Nhà nước, bao gồm nhân viên cảnh sát, công tố viên và thư ký văn phòng công tố Công tố viên có quyền điều tra độc lập mà không cần sự hỗ trợ từ cảnh sát, và là chủ thể duy nhất có quyền truy tố người bị tình nghi ra trước Tòa án Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, công tố viên đưa ra bản cáo trạng, chứng cứ và tham gia thẩm vấn, trong khi bị cáo có quyền giữ im lặng Sau khi kiểm tra chứng cứ, công tố viên tuyên bố quan điểm về vụ án và có thể điều chỉnh luận điểm truy tố hoặc điều luật áp dụng nếu cần thiết, theo quy định tại Điều 312 BLTTHS Nhật Bản.

Dựa trên yêu cầu của Công tố viên, Tòa án có quyền cho phép bổ sung, rút hoặc thay đổi các luận điểm truy tố và điều luật áp dụng đã được nêu trong bản cáo trạng khi cần thiết.

15 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Mô hình tố tụng hình sự Liên Bang Nga”, [https://tks.edu.vn/thong-tin- khoa-hoc/chi-tiet/79/145] (truy cập ngày 15/4/2021)

Tại phiên tòa, nếu có nội dung bổ sung, rút hoặc thay đổi không phù hợp với vụ án, Tòa án phải thông báo ngay cho bị cáo Công tố viên có quyền tranh tụng về bằng chứng, tham gia tranh luận với bị cáo và những người tham gia khác Trong TTHS Nhật Bản, tại phiên tòa sơ thẩm, công tố viên có thể rút quyết định truy tố sau khi kiểm tra chứng cứ nhằm bảo vệ lợi ích của bị cáo Theo Điều 339 BLTTHS Nhật Bản, việc rút quyết định truy tố phải được thực hiện bằng một quyết định chính thức.

1.5.4 Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, được thông qua vào ngày 01 tháng 7 năm 1979 và sửa đổi vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, hiện vẫn có hiệu lực Mô hình tố tụng hình sự tại Trung Quốc chủ yếu dựa trên tố tụng thẩm vấn, kết hợp một số yếu tố của tố tụng tranh tụng Trong hệ thống này, ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử không được phân định rõ ràng, vì các cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án đều tham gia vào quá trình điều tra và thẩm vấn Viện kiểm sát là cơ quan ban hành bản cáo trạng và gửi đề nghị truy tố đến tòa án có thẩm quyền Tại phiên tòa, kiểm sát viên đọc cáo trạng, công bố chứng cứ và thẩm vấn bị cáo cùng các nhân chứng Nếu thấy không đủ cơ sở để kết tội, kiểm sát viên có quyền yêu cầu tòa án tạm đình chỉ để điều tra bổ sung, nhưng không có quyền rút quyết định truy tố trong phiên tòa Tòa án có thể quyết định tạm đình chỉ để điều tra bổ sung.

16 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Mô hình tố tụng hình sự Nhật Bản”, [https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa- hoc/chi-tiet/79/146] (truy cập ngày 15/4/4021)

Khi xem xét vụ án, KSV có thể yêu cầu 27 bản án khác nhau, trong đó có khả năng tuyên bị cáo có tội hoặc tuyên vô tội nếu chứng cứ không đầy đủ và việc truy tố không có cơ sở.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, pháp luật tố tụng hình sự của Anh, Liên Bang Nga và Nhật Bản cho phép cơ quan công tố có quyền rút quyết định truy tố tại phiên tòa, trong khi Trung Quốc không công nhận quyền này, chỉ cho phép yêu cầu tạm đình chỉ xét xử để điều tra bổ sung Tại các quốc gia này, Công tố viên (hay Kiểm sát viên) là chủ thể thực hiện việc rút quyết định truy tố, với thời điểm thực hiện là tại phiên tòa, sau quá trình xét hỏi hoặc kết thúc kiểm tra chứng cứ Đặc biệt, ở Anh, Công tố viên có quyền rút quyết định truy tố bất kỳ lúc nào trước khi HĐXX tuyên án Phạm vi quyền rút quyết định truy tố cũng được quy định, cho phép rút một phần hoặc toàn bộ quyết định Tuy nhiên, không có điều luật cụ thể nào quy định căn cứ pháp lý cho việc rút quyết định, chỉ yêu cầu rằng việc rút quyết định phải phù hợp với diễn biến mới của vụ án và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo Về hình thức, Nhật Bản yêu cầu việc rút quyết định phải được thực hiện bằng văn bản, trong khi Anh và Nga không có quy định cụ thể nào Cuối cùng, hậu quả của việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa cũng khác nhau giữa các quốc gia, với quy định của Anh dẫn đến việc HĐXX sẽ đình chỉ xét xử.

17 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Mô hình tố tụng hình sự Trung Quốc”, [https://tks.edu.vn/thong-tin- khoa-hoc/chi-tiet/79/142] (truy cập ngày 16/4/2021)

Trong pháp luật tố tụng hình sự của Nga và Nhật Bản, quy định tương tự như Việt Nam cho phép HĐXX quyết định về việc rút quyết định truy tố của Công tố viên tại phiên tòa Cụ thể, HĐXX có quyền đồng ý hoặc không đồng ý với việc rút quyết định truy tố, đồng thời có thể tiếp tục xét xử nếu nhận thấy việc rút là không có căn cứ và có nguy cơ bỏ lọt tội phạm.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TÒA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

Ngày đăng: 26/04/2022, 23:18

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới
2. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luậy Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luậy Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
3. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”;4. Hiến pháp năm 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
8. Phạm Thị Hồng Hương (2014), “Hoàn thiện các quy định về rút quyết định truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự”, Khoa học kiểm sát, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Số 3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện các quy định về rút quyết định truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự”, "Khoa học kiểm sát
Tác giả: Phạm Thị Hồng Hương
Năm: 2014
9. Quan Tuấn Nghĩa (2016), Rút quyết định truy tố theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rút quyết định truy tố theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Quan Tuấn Nghĩa
Năm: 2016
10. Quan Tuấn Nghĩa (2021), “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn thiện”, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn thiện”, "Kiểm sát
Tác giả: Quan Tuấn Nghĩa
Năm: 2021
11. Nguyễn Nhứt (2007), Thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.Tài liệu từ Internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư pháp", Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Nguyễn Nhứt
Năm: 2007
9. Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.10. Tài liệu tham khảo Khác
1. Bản án số 77/2017/HSST ngày 08 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước Khác
2. Bản án số 41/2018/HSST ngày 24 tháng 5 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu (kèm theo Bản án phúc thẩm số 44/2018/HSPT ngày 16/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu) Khác
3. Công văn số 328/NCPL ngày 22 tháng 6 năm 1993 của Tòa án nhân dân tối cao về rút quyết định truy tố Khác
4. Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vấn đề trong xét xử Khác
5. Quyết định số 960/QĐ-VKSTC-V3 ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự Khác
7. Thông báo rút kinh nghiệm số 314/TB-VKSTC ngày 25 tháng 9 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

1 BLHS Bộ luật Hình sự - Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự việt nam
1 BLHS Bộ luật Hình sự (Trang 7)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w