Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, tác giả nhận thấy nhiều công trình khoa học đã nghiên cứu và đề cập đến nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018) đã xuất bản giáo trình "Luật Tố tụng hình sự Việt Nam" do Nxb Công an nhân dân phát hành, cùng với các tài liệu chuyên khảo khác từ Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh.
Chí Minh (2012) đã trình bày nội dung quan trọng trong "Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam" do Nxb Hồng Đức xuất bản Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (2015) đã chủ biên "Bình luận khoa học Bộ Luật tố tụng hình sự", cũng được phát hành bởi Nxb Hồng Đức Ngoài ra, Lê Tiến Châu (2009) đã đóng góp vào lĩnh vực này với tác phẩm "Luật tố tụng hình sự Việt Nam", xuất bản bởi Nxb Trẻ.
Tiến Châu (2009), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp;
Võ Thị Kim Oanh (2011) trong tác phẩm "Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam" đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy trình xét xử, xuất bản bởi Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Đồng thời, Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện (1999) đã trình bày những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam trong cuốn sách của họ, được phát hành bởi Nxb Công an nhân dân Những tài liệu này là nguồn tham khảo quan trọng cho việc hiểu biết về hệ thống pháp luật hình sự tại Việt Nam.
Trong các tài liệu nghiên cứu về tố tụng hình sự Việt Nam, như của Tất Viễn (2019), Lê Huỳnh Tấn Duy (2020) và Tô Văn Hòa (2007), nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập được nhấn mạnh như một trong những nguyên tắc hiến định quan trọng Các tác giả đã tiếp cận vấn đề này từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng nội dung về nguyên tắc độc lập trong xét xử vẫn được đề cập một cách hạn chế Đặc biệt, trong tác phẩm “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với ản án hình sự sơ thẩm”, Lê Huỳnh Tấn Duy đã sử dụng các bản án và phân tích để làm rõ hơn về nguyên tắc xét xử độc lập, góp phần làm phong phú thêm cho nghiên cứu này.
Các bài viết khoa học liên quan đến nguyên tắc xét xử độc lập đã được đăng trên nhiều tạp chí chuyên ngành luật Chẳng hạn, Trần Thị Thu Hằng (2018) đã trình bày về “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị” trên Tạp chí Toà án Ngoài ra, Ngô Cường (2018) cũng đã đề cập đến “tính độc lập và quyền miễn trừ của Thẩm phán” trên Tạp chí Toà án nhân dân Hoàng Anh Tuyên (2015) đã phân tích “Những nội dung sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc xét xử trong Dự thảo Bộ Luật tố tụng hình sự (sửa đổi)” trên Tạp chí.
Nguyễn Quang Hiền (2012) trong bài viết "Nguyên tắc 'Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật' - thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện" đã phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc độc lập của thẩm phán và hội thẩm trong quá trình xét xử Bài viết nhấn mạnh rằng việc tuân thủ pháp luật là yếu tố quyết định để đảm bảo công bằng và minh bạch trong hoạt động tư pháp Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp lý liên quan đến nguyên tắc này, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng xét xử.
Kiểm sát; Nguyễn Đăng Dung (2014), “Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Đăng Dung, Vũ
Theo Công Giao (2012) trong bài viết “Tư pháp độc lập - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, nội dung các bài viết hiện nay thường chỉ tập trung vào một hoặc vài khía cạnh cụ thể của nguyên tắc tư pháp độc lập, mà chưa có nghiên cứu tổng thể và hệ thống về vấn đề này.
Với luận văn Thạc sĩ: Tác giả đã tìm đọc một số đề tài của Hà Duy Hiển (2016),
“Vai trò của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự Việt Nam”, Đại học quốc gia Hà Nội;
Các nghiên cứu của Phan Bá Bảy (2015) và Hoàng Hồng Phương (2011) đều tập trung vào nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, nhấn mạnh sự tuân thủ pháp luật theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh tỉnh Đắk Lắk Những luận văn này không chỉ phân tích mối liên hệ giữa nguyên tắc này và các nguyên tắc khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự, mà còn xem xét thực tiễn áp dụng trong ngành tư pháp và hoạt động xét xử của Tòa án Ngoài ra, các tác giả cũng đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, đóng góp vào cải cách tư pháp tại Việt Nam Tuy nhiên, chỉ có luận văn của Hà Duy Hiển áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong khi các tác giả khác chủ yếu dựa vào Bộ luật năm 2003 và Hiến pháp để phân tích.
Trong quá trình nghiên cứu luận án tiến sĩ, công trình khoa học đáng chú ý nhất đối với tác giả là luận văn của Quản Thị Ngọc Thảo (2015) với đề tài "Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", được thực hiện tại Đại học Quốc gia Hà Nội Những nội dung trong luận văn này đã có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành và phát triển các quan điểm trong nghiên cứu của tác giả.
Quản Thị Ngọc Thảo đã nghiên cứu nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, cả trong nước và quốc tế Bài viết phân tích nguồn gốc, khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc này, cùng với quy định của Luật Tố tụng hình sự một số quốc gia Tác giả cũng xem xét các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đánh giá thực tiễn áp dụng và hiệu quả của nguyên tắc trong giai đoạn 2006 - 2015, đồng thời đề xuất giải pháp để bảo đảm nguyên tắc này trong xét xử vụ án hình sự Những kiến thức và phương pháp trình bày trong luận án là tài liệu quý giá cho việc học hỏi và kế thừa.
Trong luận văn thạc sĩ này, tác giả đã nghiên cứu và kế thừa luận án của Quản Thị Ngọc Thảo, tập trung vào khảo sát ý kiến của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử hình sự Mặc dù có tham khảo, nhưng phân tích trong luận văn chủ yếu dựa trên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, cùng với ý kiến từ nhiều chuyên gia khác Tác giả đã điều chỉnh các câu hỏi khảo sát để phù hợp với luật mới và thay đổi nội dung một số câu hỏi so với luận án trước Đối tượng khảo sát của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo bao gồm 400 Thẩm phán, Kiểm sát viên, luật sư và giảng viên từ ba miền, trong khi tác giả luận văn chỉ khảo sát 50 Thẩm phán và Hội thẩm Ngoài ra, tác giả cũng phỏng vấn chuyên gia và phân tích thêm các vụ việc vi phạm nguyên tắc.
Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, một nguyên tắc quan trọng trong hệ thống tư pháp Thực tiễn này được các phương tiện truyền thông công khai đưa tin, nhằm làm rõ thực trạng thi hành nguyên tắc xét xử độc lập trong xã hội.
Các nghiên cứu khoa học hiện có chủ yếu tập trung vào lý luận và hệ thống của Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, đồng thời liên kết với thực tiễn tại Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế Mặc dù đã chỉ ra những giải pháp cần thiết để tối ưu hóa việc thực hiện nguyên tắc này, nhiều tác phẩm vẫn dựa vào Bộ luật Tố tụng hình sự cũ Chỉ một số ít giáo trình và sách tham khảo mới gần đây đề cập đến nguyên tắc này trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng hình sự mới năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Hơn nữa, các nghiên cứu thường chỉ phân tích những bất cập lý luận mà không nêu rõ các vụ việc cụ thể liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc này.
Trong Chương 1 và Chương 2 của luận văn, tác giả đã kế thừa và phát triển từ các nghiên cứu trước đó, đồng thời đưa ra quan điểm riêng Ở Chương 3, tác giả kết hợp lý thuyết với thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua việc khảo sát và trao đổi với các Thẩm phán, Hội thẩm, đồng thời trình bày các vụ việc cụ thể vi phạm nguyên tắc xét xử độc lập đã được truyền thông đưa tin.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc về tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử, đặc biệt là sự độc lập của Hội thẩm đối với Thẩm phán trong các vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã đề ra, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử là rất quan trọng Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng họ chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng hình sự, đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong các quyết định xét xử Việc thực hiện nguyên tắc này không chỉ bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan mà còn củng cố niềm tin của xã hội vào hệ thống tư pháp.
Luật thực định quy định nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, được thể hiện rõ qua các điều khoản của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 cùng với các văn bản pháp luật liên quan Điều này nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc bảo đảm tính độc lập trong xét xử, nhằm duy trì công lý và quyền con người trong quá trình tố tụng Các quy định này không chỉ tạo ra khung pháp lý vững chắc cho hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm mà còn góp phần nâng cao niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp.
Khảo sát thực tiễn về việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự giúp làm rõ sự độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử Mục tiêu là phát hiện những hạn chế và bất cập trong thực tiễn áp dụng, đồng thời xác định nguyên nhân dẫn đến những vấn đề này.
Để đảm bảo hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, cần đề xuất các giải pháp cụ thể Trước hết, cần tăng cường đào tạo và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho Thẩm phán và Hội thẩm, giúp họ nắm vững các quy định và nguyên tắc xét xử Thứ hai, cần xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá độc lập hoạt động xét xử, nhằm bảo đảm tính khách quan và công bằng Cuối cùng, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình xét xử cũng là một yếu tố quan trọng để thực hiện nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc xét xử độc lập trên phạm vi cả nước
Mối quan hệ giữa nguyên tắc xét xử độc lập và các nguyên tắc khác được quy định rõ ràng trong Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, cùng với các văn bản pháp luật liên quan Nguyên tắc này không chỉ đảm bảo tính công bằng và khách quan trong quá trình xét xử mà còn góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân và tổ chức Sự tương tác giữa nguyên tắc xét xử độc lập và các quy định pháp lý khác là yếu tố then chốt trong việc xây dựng hệ thống tư pháp vững mạnh, minh bạch và hiệu quả.
- Tham khảo các văn bản pháp luật nước ngoài có nội dung về xét xử độc lập
Nghiên cứu nguyên tắc xét xử độc lập là một yếu tố quan trọng trong quy trình xét xử, liên quan đến việc phân tích lý thuyết và thực tiễn thông qua các Biên bản nghị án và bản án của Tòa án Việc xem xét các tài liệu này giúp làm rõ vai trò của sự độc lập trong việc đảm bảo công bằng và khách quan trong các quyết định của Tòa án.
Luận văn này áp dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, đặc biệt là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả áp dụng các phương pháp đặc thù của khoa học pháp lý hình sự và luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong phân tích.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học tập trung vào việc phân tích các quy tắc, nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý, cùng với các giá trị hệ thống hóa trong các văn bản pháp luật quan trọng như Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 Nghiên cứu này giúp làm rõ các hướng dẫn và biện luận liên quan đến nội dung pháp lý, từ đó nâng cao hiểu biết về hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phát phiếu điều tra đến các Thẩm phán và Hội thẩm để nghiên cứu tình hình thực tiễn
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia bao gồm việc đặt câu hỏi cụ thể cho các Thẩm phán và Hội thẩm, nhằm ghi lại ý kiến và trao đổi của họ về tình hình thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích có hệ thống các quy định liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Bằng cách xem xét các quy định trong quá khứ, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự phát triển và thực tiễn áp dụng của nguyên tắc này, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử.
Phương pháp nghiên cứu so sánh được áp dụng để phân tích các quy định pháp luật và truyền thống pháp lý liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập tại Việt Nam, so sánh với các quốc gia khác có quy định tương tự Qua việc xác định điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, bài viết sẽ giải thích nguyên nhân của những sự khác biệt này và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu đánh giá sẽ tập trung vào việc phân tích các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật, lý thuyết pháp lý, và chính sách pháp luật liên quan đến nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập tại Việt Nam, nhằm đảm bảo rằng họ chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử.
Trong nghiên cứu khoa học, có một số phương pháp quan trọng được áp dụng, bao gồm phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp logic biện chứng, phương pháp hệ thống và phương pháp tổng kết thực tiễn Những phương pháp này giúp nâng cao hiệu quả và độ chính xác trong việc thu thập và xử lý dữ liệu, đồng thời hỗ trợ việc rút ra những kết luận có giá trị từ thực tiễn.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 03 Chương
Chương 1 đề cập đến các vấn đề lý luận liên quan đến nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử theo quy định của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng các Thẩm phán và Hội thẩm phải thực hiện nhiệm vụ xét xử một cách độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, nhằm bảo đảm tính công bằng và khách quan trong quá trình xét xử Việc tuân thủ nguyên tắc này là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan và duy trì niềm tin của xã hội vào hệ thống tư pháp.
Chương 2: Nội dung của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
Nguyên tắc được định nghĩa là những điều cơ bản cần tuân theo trong các hoạt động, đóng vai trò là tiêu chuẩn và quy định để hướng dẫn thực hiện công việc Nó không chỉ là tư tưởng chỉ đạo mà còn là quy tắc nền tảng cho mọi hành động.
Nguyên tắc pháp luật là yếu tố cốt lõi, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định ảnh hưởng của pháp luật lên các quan hệ xã hội và đánh giá giá trị của pháp luật đối với các chủ thể Trong giải quyết vụ án hình sự, việc nhanh chóng phát hiện và xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Để đạt được điều này, cần có định hướng rõ ràng trong xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, phản ánh quan điểm và chính sách hình sự của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm Hiện nay, khái niệm về nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự đã được nhiều học giả và nhà khoa học phân tích và làm rõ.
Tác giả Hoàng Thị Sơn định nghĩa nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự là những phương châm và định hướng chi phối các hoạt động tố tụng hình sự Những nguyên tắc này được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật liên quan đến tố tụng hình sự.
Trong bài báo khoa học, tác giả Nguyễn Ngọc Chí nhấn mạnh rằng nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự đóng vai trò quan trọng, định hướng cho các hoạt động tố tụng Những phương châm này không chỉ đảm bảo tính công bằng mà còn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan trong quá trình xét xử.
1 Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 694
2 Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr 508
Hoàng Thị Sơn (1999) trong tác phẩm "Những nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam" đã chỉ ra rằng việc phối hợp toàn bộ hoặc một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự là rất quan trọng trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự.
Theo tác giả Lê Cảm, nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo, định hướng cơ bản trong pháp luật Tố tụng hình sự Những nguyên tắc này không chỉ được thể hiện trong quy định pháp luật mà còn trong việc giải thích và thực tiễn áp dụng thông qua các quy phạm tương ứng.
Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh định nghĩa nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự là những tư tưởng, quan điểm, phương châm và định hướng ảnh hưởng đến việc xây dựng và áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự, các học giả đều thống nhất rằng những nguyên tắc này là quan điểm, tư tưởng và phương châm định hướng cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật Mục đích chính của các nguyên tắc này là đảm bảo hiệu quả trong hoạt động tố tụng, góp phần giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan và toàn diện, đồng thời bảo vệ quyền con người và quyền công dân.
Tố tụng hình sự bao gồm ba chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa và xét xử Theo Từ điển Luật học, xét xử là nhiệm vụ của Tòa án, cơ quan duy nhất có quyền thực hiện chức năng này Mọi bản án đều phải trải qua quá trình xét xử, và không ai có thể bị buộc tội mà không qua sự xem xét của Tòa án; kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án chính thức.
Trong bài viết của Nguyễn Ngọc Chí (2008), tác giả đã đề cập đến các nguyên tắc cơ bản trong Luật Tố tụng Hình sự và đưa ra những đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm cải thiện hệ thống pháp luật Bài viết được đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, số 24, trang 242, mang lại cái nhìn sâu sắc về những vấn đề cần thiết trong việc hoàn thiện quy định pháp lý hiện hành.
5 Lê Cảm (2015), “Các nguyên tắc luật tố tụng hình sự trong dự thảo luật tố tụng hình sự”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học pháp lý, tr 45 - 46
6 Trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Nxb, Hồng Đức, tr 55
7 Lê Tiến Châu (2009), Chức năng xét xử trong Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr 27
Độc lập xét xử là yếu tố then chốt trong việc bảo đảm công bằng và ổn định xã hội, giúp bảo vệ quyền con người và giữ vững kỷ cương pháp luật Theo tư tưởng Montesquieu, độc lập tư pháp cần thiết để tách quyền tư pháp khỏi quyền lập pháp và hành pháp, đảm bảo rằng các tranh chấp được giải quyết công bằng dựa trên pháp luật Quyền tư pháp độc lập không chỉ là tiêu chí đánh giá Nhà nước pháp quyền mà còn là nền tảng cho sự thịnh vượng kinh tế, cho phép công dân tin tưởng vào các phán quyết của Tòa án Độc lập xét xử bao gồm sự độc lập của quyền tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp và những người thực hiện quyền lực tư pháp, nhằm bảo đảm sự công bằng tối cao của pháp luật và kiểm soát quyền lực nhà nước.
9 Hoàng Phê (chủ biên) (1994),Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, tr 316
Trong bài viết của Phí Thành Chung (2018), tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tư pháp và các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Ông chỉ ra rằng sự độc lập không chỉ giữa các cơ quan Tòa án mà còn giữa các thành viên của Hội đồng xét xử, bao gồm cả Thẩm phán và Hội thẩm, là yếu tố then chốt để đảm bảo công lý và quyền lợi hợp pháp cho công dân.
Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp Tòa án không chỉ quản lý cán bộ, ngân sách và cơ sở vật chất mà còn phối hợp với các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội để bảo vệ pháp luật Hoạt động chính của Tòa án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định pháp luật Quy trình xét xử bắt đầu từ khi thụ lý vụ án cho đến khi ra bản án, với Thẩm phán và Hội thẩm là những người đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền xét xử Việc xét xử phải tuân theo trình tự, thủ tục và nguyên tắc pháp luật, đặc biệt trong các vụ án hình sự, nơi Tòa án quyết định số phận của người bị kết án, ảnh hưởng đến quyền tự do, tài sản và tính mạng của họ cùng cuộc sống gia đình.
Quyết định của Tòa án cần phải khách quan, chính xác và độc lập, đây là nguyên tắc hoạt động quan trọng của cơ quan tư pháp Hội đồng xét xử phải đưa ra bản án dựa trên sự độc lập, công bằng và tuân thủ pháp luật, điều này không chỉ là mục tiêu của các nhà thực hiện chính sách pháp luật mà còn là kỳ vọng của toàn xã hội.
Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tổ chức TAND năm 2014, bao gồm hai nội dung chính: xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm không có nghĩa là xét xử tùy tiện, mà là thực hiện quyền độc lập trong khuôn khổ pháp luật Cụm từ “chỉ tuân theo pháp luật” nhấn mạnh rằng Thẩm phán và Hội thẩm không bị ràng buộc bởi bất kỳ ai hay điều gì khác ngoài các quy định của pháp luật Hội đồng xét xử phải tránh mọi can thiệp từ các cơ quan lập pháp, hành pháp, hệ thống tòa án và xã hội Độc lập và tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ; độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện đúng pháp luật, trong khi tuân theo pháp luật là cơ sở để đảm bảo tính độc lập trong xét xử Do đó, Thẩm phán và Hội thẩm phải dựa vào các quy định pháp luật để giải quyết vụ án, không được áp đặt ý chí cá nhân, điều này là bắt buộc.
Đặc điểm và ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập trong Luật Tố tụng hình sự thể hiện sự tuân thủ pháp luật, từ đó có thể xác định một số đặc điểm cơ bản của nguyên tắc này.
Nguyên tắc về vị trí trong xét xử là yếu tố cốt lõi đảm bảo sự công bằng, khách quan và đúng pháp luật, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 cùng với các quy định tại Điều 23, Điều 9 của Luật Tổ chức TAND năm 2014 Điều này tiếp tục được củng cố trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015, nhấn mạnh vai trò quan trọng của nguyên tắc này trong tố tụng hình sự Các chủ thể áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, đảm bảo rằng Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện quyền độc lập trong xét xử, chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này áp dụng không chỉ trong suốt phiên tòa xét xử mà còn bắt đầu từ thời điểm Hội đồng xét xử được chỉ định thụ lý vụ án.
Nguyên tắc độc lập của Tòa án được quy định trong Hiến pháp năm 2013, đảm bảo rằng Thẩm phán và Hội thẩm có quyền tự do trong việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận mà không bị ảnh hưởng bởi quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử Trong quá trình xét xử, họ không chịu sự chi phối từ các cơ quan, tổ chức hay cá nhân có quyền hạn nào Để bảo đảm tính độc lập, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rằng Thẩm phán phải là người biểu quyết cuối cùng, và các quyết định phải được đưa ra dựa trên đa số Hơn nữa, Tòa án cấp trên không được can thiệp vào việc xét xử của Tòa án cấp dưới trước khi có phán quyết, và trong các phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán cũng không bị ràng buộc bởi các phán quyết trước đó của Tòa án cấp dưới.
Pháp luật là chuẩn mực duy nhất cho Thẩm phán và Hội thẩm trong việc xem xét các sự việc và hành vi phạm tội Dựa vào quy định pháp luật, Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết chính xác và phù hợp với diễn biến vụ án Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ xét xử độc lập nhưng phải tuân thủ pháp luật, không được tùy tiện hay chủ quan Phán quyết của họ phản ánh thái độ của Nhà nước trong việc răn đe tội phạm Bản án luôn mang tính chất "nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", vì vậy Nhà nước chịu trách nhiệm cho những sai lầm trong tuyên án Do đó, trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm cần nghiêm túc tuân thủ pháp luật để đảm bảo công bằng và tránh nghi ngờ trong áp dụng pháp luật.
Nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện quan điểm của Nhà nước về tính khách quan và chính xác trong việc giải quyết vụ án Thẩm phán và Hội thẩm có quyền đưa ra phán quyết dựa trên quyết định của pháp luật, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tác động nào khác Nguyên tắc này đảm bảo sự tự do trong xét xử, giúp Tòa án phục vụ công lý và bảo vệ quyền lợi của các bên một cách hiệu quả.
Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý quan trọng để Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện xét xử một cách khách quan và đúng pháp luật, đảm bảo sự tuân thủ nghiêm túc của Hiến pháp và pháp luật Nó ngăn chặn sự can thiệp không cần thiết từ các cơ quan, tổ chức khác, bảo đảm sự độc lập và bình đẳng trong quá trình xét xử Nguyên tắc này cũng khẳng định tính tự chủ của Hội đồng xét xử trong việc đưa ra phán quyết cuối cùng về tội danh của bị cáo Đồng thời, nguyên tắc yêu cầu không có bất kỳ sự can thiệp nào không hợp lý vào quá trình xét xử và chỉ có Tòa án cấp trên mới có quyền xem xét lại các phán quyết của Tòa án cấp dưới theo quy trình tố tụng.
Mối quan hệ giữa “xét xử độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật”
Công ước Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định rằng trong tố tụng hình sự, mọi người đều có quyền yêu cầu được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được thành lập theo quy định của pháp luật để giải quyết các cáo buộc trong vụ án hình sự.
“Xét xử độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” là hai nguyên tắc liên kết chặt chẽ, trong đó thẩm phán và Hội thẩm chỉ có thể thực hiện xét xử độc lập khi tuân thủ pháp luật Hoạt động xét xử dựa trên hồ sơ vụ án, bao gồm chứng cứ từ Cơ quan điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát, yêu cầu Hội đồng xét xử phải có chính kiến và nhận định riêng để đánh giá tính đúng sai của hồ sơ Dựa trên các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ đưa ra phán quyết độc lập, khách quan, không chịu ảnh hưởng từ ý kiến của các cơ quan khác hay quyết định của Tòa án cấp trên, cũng như không bị tác động bởi kháng cáo hay kháng nghị.
Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật nhằm củng cố pháp chế và trật tự pháp luật Họ cần căn cứ vào pháp luật Hình sự và Tố tụng hình sự để xem xét và giải quyết vụ án một cách khách quan, không được áp đặt ý chí chủ quan Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết về hành vi phạm tội, tội danh và hình phạt một cách chính xác, phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án Thẩm phán và Hội thẩm có quyền độc lập trong việc nhận định và áp dụng pháp luật, không bị can thiệp bởi bất kỳ cá nhân, tổ chức nào Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử đều bị coi là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến tính khách quan của quá trình xét xử.
13 Công ước của Liên hợp quốc về Các quyền dân sự và chính trị (1966), Điều 14.1
"Độc lập" và "chỉ tuân theo pháp luật" là hai khía cạnh không thể tách rời trong nguyên tắc tố tụng Độc lập không chỉ đơn thuần là tuân thủ pháp luật mà còn là nền tảng để thực thi pháp luật một cách hiệu quả Nếu không có sự độc lập, việc tuân theo pháp luật sẽ trở nên hình thức và thiếu hiệu quả Điều này được thể hiện qua các phán quyết của HĐXX, phải dựa trên các tình tiết khách quan của vụ án, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời tôn trọng quyền con người và quyền công dân.
Mối quan hệ giữa nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật với một số nguyên tắc khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự
Các nguyên tắc Tố tụng hình sự cần được áp dụng kết hợp với nhau để phát huy hiệu lực và hiệu quả điều chỉnh Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với các nguyên tắc khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam Sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các nguyên tắc này là cần thiết để Tòa án có thể đưa ra những phán quyết công bằng và đúng pháp luật.
Thứ nhất, mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc bảo đảm pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền tảng cho nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật Điều này có nghĩa là nếu không có nguyên tắc này, hành động của Thẩm phán, Hội thẩm sẽ bị ảnh hưởng bởi các hệ thống pháp luật khác Theo GS Trần Ngọc Đường, pháp quyền trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bắt nguồn từ nhân dân và nhằm quản lý nhà nước, đồng thời pháp luật cũng là công cụ quản lý xã hội Tất cả các hoạt động từ lập hiến, lập pháp đến hành pháp và tư pháp đều phải tuân thủ nguyên tắc pháp quyền Nguyên tắc bảo đảm pháp quyền xã hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thể hiện bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quy trình tố tụng hình sự diễn ra một cách trật tự và hiệu quả Điều này yêu cầu Thẩm phán, Hội thẩm phải hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó thực hiện các quyết định dựa trên sự độc lập và quy định của pháp luật, nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết.
Thứ hai, mối quan hệ với nguyên tắc xét xử có đại diện nhân dân tham gia
Nguyên tắc xét xử có đại diện nhân dân tham gia là điều kiện cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Điều này tạo điều kiện cho Hội thẩm tham gia vào Hội đồng xét xử, giúp họ trở thành chủ thể chịu sự chi phối bởi nguyên tắc độc lập trong xét xử Tuy nhiên, Hội thẩm chỉ xuất hiện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phản ánh đặc trưng của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trong bài viết của Trần Ngọc Đường (2020), tác giả nhấn mạnh rằng tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, điều này được quy định trong Điều 6 của Hiến pháp năm 2013 Theo đó, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và đại diện, bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân Tòa án, với vai trò là cơ quan nhà nước, cần được tổ chức và hoạt động nhằm đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân Đặc biệt, hoạt động xét xử của Tòa án phải được giám sát bởi nhân dân, và việc giám sát này có thể được thực hiện qua hai phương thức khác nhau.
Phương thức giám sát bên ngoài cho phép nhân dân theo dõi và giám sát hoạt động xét xử thông qua việc tham dự các phiên tòa công khai.
Hội thẩm là phương thức giám sát bên trong, cho phép nhân dân tham gia trực tiếp vào hoạt động xét xử của Tòa án thông qua người đại diện 15 Hội thẩm được bầu bởi Hội đồng nhân dân, tham gia vào Hội đồng xét xử để thực hiện quyền lực tư pháp, từ đó đại diện cho nhân dân trong công tác quản lý Nhà nước và hoạt động của Tòa án.
Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 quy định rằng Tòa án nhân dân phải có Hội thẩm tham gia trong các phiên xét xử sơ thẩm, trừ những trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
Mối quan hệ với nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật, yêu cầu Tòa án phải xét xử tập thể Hội đồng xét xử do Chánh án các Tòa án thành lập để trực tiếp xử lý vụ án, với số lượng và thành phần được quy định bởi pháp luật tố tụng Đối với các vụ án nghiêm trọng, Hội đồng xét xử bao gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm, trong khi các vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ cần một Thẩm phán Tại cấp sơ thẩm, Hội đồng thường gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm hoặc hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; ở cấp phúc thẩm, Hội đồng không có Hội thẩm và thường gồm ba Thẩm phán.
15 Lê Tiến Châu (2009), tlđd (7), tr 119
Theo quy định tại khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 10 Luật Tổ chức TAND năm 2014, Tòa án nhân dân xét xử theo hình thức tập thể, với quyết định được đưa ra dựa trên đa số phiếu, trừ các trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn Hội đồng xét xử bao gồm từ ba đến năm Thẩm phán hoặc nhiều hơn, và mọi vấn đề trong vụ án đều phải được giải quyết bằng biểu quyết Thẩm phán có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản để lưu vào hồ sơ Do đó, bản án hay quyết định của Tòa án không phải do cá nhân Thẩm phán hay Hội thẩm quyết định mà phải được đưa ra bởi một tập thể, đảm bảo tuân thủ đúng thủ tục tố tụng Quyết định tập thể này giúp ngăn chặn việc áp đặt ý chí cá nhân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có quyền độc lập đưa ra ý kiến dựa trên chứng cứ, quy định pháp luật và niềm tin cá nhân.
Mối quan hệ giữa Đảng và hệ thống chính trị ở Việt Nam được xác định bởi nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ Đảng lãnh đạo việc thực hiện pháp quyền, đặc biệt là cải cách tư pháp, đảm bảo Tòa án hoạt động theo đúng quy định của pháp luật Mặc dù Đảng là lực lượng lãnh đạo, sự lãnh đạo này phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không được can thiệp vào hoạt động của Tòa án Tính độc lập của Tòa án không mâu thuẫn với sự lãnh đạo của Đảng; ngược lại, sự lãnh đạo này là yếu tố quan trọng bảo đảm tính độc lập của Tòa án Theo Quy định số 37-QĐ/TW, Đảng viên không được can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, và không được ép buộc hay mua chuộc để giảm trách nhiệm cho người khác Đảng chỉ lãnh đạo mà không chỉ đạo hay can thiệp vào các vụ án cụ thể.
Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ những điều mà Đảng viên không được làm, phản ánh nhận thức chưa đúng về vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác xét xử của Tòa án Việc xác định quyền hạn của Hội đồng xét xử cần phải tuân thủ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong hệ thống tư pháp.
Cơ sở của việc quy định nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự
và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật Tố tụng hình sự
Nguyên lý phân công quyền lực trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tư pháp độc lập, như Montesquieu đã chỉ ra rằng tự do không thể tồn tại nếu quyền tư pháp không tách biệt khỏi quyền Lập pháp và Hành pháp Một nền tư pháp độc lập là nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, cho phép công dân kỳ vọng vào các phán quyết công bằng từ Tòa án, dựa trên sự thật và pháp luật, không bị ảnh hưởng bởi tác động bất hợp pháp Do đó, quyền tư pháp độc lập trở thành nguyên tắc cốt lõi trong hiến pháp của các nước dân chủ, đảm bảo rằng Thẩm phán chỉ tuân thủ luật pháp mà không cần chỉ thị từ bên ngoài, và trong quá trình xét xử, họ phải hành động theo pháp luật và niềm tin cá nhân, không bị ràng buộc bởi ý kiến đa số.
Trong lịch sử pháp luật thế giới, Tòa án được coi là thành trì bảo vệ công lý và quyền con người trước các hành vi xâm phạm từ chính quyền và quan chức nhà nước Để thực hiện tốt chức năng xét xử, Tòa án cần phải độc lập, vì chỉ khi có tính độc lập, Tòa án mới có thể đưa ra phán quyết một cách công bằng và vô tư Tư pháp độc lập là nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền, nhằm đảm bảo Tòa án có khả năng phán xét công bằng trong mọi tranh chấp xã hội.
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật dựa trên cơ sở lý luận về việc tổ chức bộ máy Nhà nước theo cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực Quốc hội có trách nhiệm kiểm soát quyền lực của Chính phủ, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình xét xử.
Tại Việt Nam, Hiến pháp hiện hành đảm bảo tính độc lập của Tòa án nhân dân tối cao, không cho phép Chính phủ kiểm soát hoạt động của Tòa án, nhằm duy trì sự khách quan trong xét xử Tuy nhiên, Tòa án cũng không có quyền kiểm soát đối với Quốc hội và Chính phủ, chỉ thực hiện nhiệm vụ xét xử theo quy định của pháp luật Nguyên tắc phân công quyền lực và tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là những biểu hiện rõ nét của cơ chế phân chia quyền lực, bảo vệ quyền lực tư pháp khỏi sự can thiệp từ lập pháp và hành pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020 đặt mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ và bảo vệ công lý Tòa án giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tư pháp, và việc cải cách công tác xét xử là cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả Để thực thi công lý, các Thẩm phán và cơ quan tư pháp cần độc lập và khách quan, không bị tác động bởi áp lực từ bên trong và bên ngoài, nhằm tạo niềm tin cho người dân vào tính công bằng của các phán quyết Phạm vi xét xử không chỉ bao gồm hành vi vi phạm của công dân mà còn cả hành vi của quan chức nhà nước Tuy nhiên, Thẩm phán thường phải đối mặt với nhiều yếu tố ảnh hưởng, từ áp lực của các cơ quan hành pháp, lập pháp đến sự tác động từ các đương sự và giới truyền thông Để đảm bảo tính độc lập của Tòa án, trước hết Thẩm phán cần có năng lực và điều kiện làm việc đầy đủ, vì sự thiếu hụt này có thể dẫn đến sự phụ thuộc vào các nhánh quyền lực khác.
Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không chỉ làm việc với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát mà còn phải tương tác với luật sư, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội Họ cần nhận thức rõ ràng rằng mình chịu trách nhiệm về nội dung và tính công minh của bản án Do đó, các thành viên của Hội đồng xét xử cần có bản lĩnh vững vàng để đối phó với những tác động từ các yếu tố bên ngoài, đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử.
Cơ quan, tổ chức và cá nhân không được phép can thiệp vào quá trình xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm Điều này nhằm đảm bảo rằng các quyết định xét xử chỉ dựa trên pháp luật, bảo vệ nguyên tắc độc lập trong hoạt động của tòa án.
Việc quy định nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật là cần thiết nhằm ngăn chặn lạm dụng quyền lực và sự thoái hóa quyền lực, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức trong các quan hệ xã hội.
Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển quy định nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1988
Hệ thống tư pháp ở Việt Nam được hình thành sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên vào năm 1988, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật đã được nhà làm luật chú trọng và thể hiện trong các văn bản pháp lý, từ Hiến pháp cho đến các Sắc lệnh và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
Ngày 9/11/1946, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua Hiến pháp đầu tiên, trong đó Chương VI quy định về "Cơ quan tư pháp" Tòa án được xác định là cơ quan tư pháp độc lập, thực hiện quyền xét xử duy nhất tại Việt Nam Điều 69 của Hiến pháp năm 1946 nhấn mạnh nguyên tắc độc lập xét xử, khẳng định rằng các Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật và không chịu sự can thiệp từ các cơ quan khác.
Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp mới năm 1959, thay thế Hiến pháp năm 1946 Hiến pháp 1959 xác định các cơ quan tư pháp bao gồm Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, không còn chỉ có Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp Ngoài ra, Hiến pháp này không quy định Thẩm phán độc lập như trước, mà chỉ nêu rõ rằng Tòa án nhân dân có quyền độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 100).
Vào ngày 15/3/1976, Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 01-SL/76 về công tác tư pháp, trong đó ghi nhận nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm tại Điều 5 Kể từ khi Việt Nam thống nhất về mặt nhà nước, hệ thống Tòa án Nhân dân (TAND) và Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) đã được tổ chức và hoạt động theo Luật tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân và Luật tổ chức Tòa án Nhân dân năm 1960.
Năm 1980, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định nguyên tắc độc lập xét xử chỉ áp dụng cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, khác với Hiến pháp năm 1959 Cụ thể, Điều 131 nêu rõ rằng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trong khi Điều 132 quy định rằng Tòa án nhân dân xét xử theo hình thức tập thể và quyết định dựa trên đa số.
Năm 1980, Luật Tổ chức TAND và Luật Tổ chức VKSND năm 1981 đã thay thế các luật tương ứng năm 1960, giúp khắc phục những thiếu sót và hạn chế trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2015
Vào ngày 28 tháng 6 năm 1988, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1989 Theo Điều 17 của Bộ luật này, thẩm phán và hội thẩm phải xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, điều này vẫn được duy trì qua các lần sửa đổi sau này.
Tố tụng hình sự vào năm 1990, 1992, 2000, nguyên tắc này vẫn được giữ nguyên
Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức TAND năm 1992 tiếp tục duy trì nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, như quy định trong Hiến pháp năm 1980 và Luật TAND năm 1981 Hiến pháp 1992 khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng cũng thừa nhận sự tồn tại của quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Mặc dù Tòa án được ghi nhận là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp không quy định Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền này, dẫn đến việc chưa có sự thừa nhận chính thức về độc lập của quyền tư pháp Điều 127 quy định rõ: "Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Năm 2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, nhấn mạnh sự bình đẳng của công dân trước pháp luật và yêu cầu các Tòa án phải thực hiện quyền xét xử một cách dân chủ và khách quan Thẩm phán và hội thẩm cần độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, và quyết định của Tòa án phải dựa vào kết quả tranh tụng và chứng cứ đầy đủ Để cụ thể hóa những nguyên tắc này, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ 01/7/2004, nhằm bảo đảm sự độc lập và vô tư của thẩm phán trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Điều 130 của Hiến pháp năm 1992 quy định rằng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải độc lập trong quá trình xét xử và chỉ tuân theo pháp luật Sự độc lập này càng được củng cố khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001, với Điều 2 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử.
Quyền lực nhà nước được thực hiện một cách thống nhất, với sự phân công rõ ràng và phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
21 Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
Theo Điều 16 BLTTHS năm 2003, Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử Điều 39 và Điều 40 quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của họ, bao gồm việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước phiên tòa, tham gia xét xử các vụ án hình sự, và thực hiện các hoạt động tố tụng cũng như biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử Cả Thẩm phán và Hội thẩm đều chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và quyết định của mình Ngoài ra, Điều 42 quy định về việc thay đổi hoặc từ chối người tiến hành tố tụng nếu có căn cứ rõ ràng cho thấy họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ và bảo vệ công lý Nghị quyết nhấn mạnh vai trò trung tâm của Tòa án và hoạt động xét xử, coi tranh tụng là khâu đột phá của tư pháp Để đảm bảo độc lập cho Tòa án và người tiến hành tố tụng, Nghị quyết yêu cầu phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính và trách nhiệm tư pháp, tăng cường quyền hạn cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán Hệ thống tòa án sẽ được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Cải cách tư pháp yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để phù hợp với thời đại và đáp ứng nhu cầu đổi mới Vào ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp mới, dựa trên nền tảng sửa đổi, bổ sung Hiến pháp trước đó.
Theo Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp Nguyên tắc độc lập xét xử được nhấn mạnh, cấm mọi can thiệp từ cơ quan, tổ chức, cá nhân vào công việc của Thẩm phán và Hội thẩm Điều này tương tự như quy định trong Hiến pháp năm 1946, nơi các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật mà không bị can thiệp bởi các cơ quan khác Bên cạnh đó, chế định về Hội thẩm cũng có sự thay đổi quan trọng, khi đại diện nhân dân tham gia xét xử được gọi chung là Hội thẩm, thay vì tách biệt như trong các bản Hiến pháp trước Hội thẩm chỉ tham gia xét xử sơ thẩm, trừ các trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
Tòa án đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử, đặc biệt trong lĩnh vực hình sự, nơi Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xác định tội trạng của bị cáo Quyết định của Tòa án cần phải khách quan, chính xác và độc lập, điều này là nguyên tắc cốt lõi trong hoạt động xét xử Để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, cần dựa vào ba yếu tố: tính nghiêm trọng và phức tạp của tội phạm, đối tượng xét xử (quân nhân hay thường dân), và địa điểm xảy ra tội phạm hoặc nơi kết thúc điều tra Việc tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, là một chủ trương đúng đắn, đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử Theo Điều 26 BLTTHS, chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm, trong đó sơ thẩm là lần xét xử đầu tiên và phúc thẩm là cấp xét xử cuối cùng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người chịu trách nhiệm chính trong cả hai cấp xét xử này.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ ràng về nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán, bao gồm việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa, tiến hành xét xử vụ án, thực hiện các hoạt động tố tụng và biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử Ngoài ra, Thẩm phán còn thực hiện các hoạt động tố tụng khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án Điều luật này nhấn mạnh việc "tiến hành xét xử" thay vì "tham gia xét xử", thể hiện sự rõ ràng trong vai trò của Thẩm phán trong quá trình tố tụng.
Thẩm phán đóng vai trò tích cực và chủ động trong hoạt động xét xử, khẳng định quyền hạn của người tiến hành tố tụng Điều này cho thấy rằng mọi hoạt động xét xử đều do Thẩm phán thực hiện, thể hiện rõ thẩm quyền của họ trong quá trình tố tụng.
Độc lập của Tòa án được thể hiện qua hai khía cạnh chính Thứ nhất, sự độc lập nội bộ giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử, bao gồm mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm, cũng như giữa các Thẩm phán với nhau Thứ hai, sự độc lập với các yếu tố bên ngoài, được thể hiện qua việc Tòa án ra bản án và quyết định một cách vô tư, không thiên vị, dựa trên sự thật khách quan và quy định của pháp luật, mà không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ các cơ quan như Tòa cấp trên, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay bất kỳ tổ chức nào khác.
2.1.1 Độc lập từ bên trong Độc lập từ bên trong là trong mỗi giai đoạn xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức hình phạt mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử Cá nhân mỗi Thẩm phán, Hội thẩm phải độc lập trong suy nghĩ, phán xét, cách giải thích và áp dụng pháp luật Hội đồng xét xử làm việc theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số Chỉ có thành viên của HĐXX mới được tham gia nghị án Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án 25 Độc lập từ bên trong cần được thực hiện nghiêm chỉnh thông qua tất cả quá trình giải quyết vụ án hình sự
Thứ nhất, độc lập trong chuẩn bị xét xử vụ án hình sự Nguyên tắc Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cùng các thành viên có trách nhiệm đảm bảo quy trình xét xử diễn ra công bằng và minh bạch, từ đó góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Bài viết của Trần Duy Bình trên trang điện tử Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ thực tiễn và đề xuất các kiến nghị nhằm bảo đảm nguyên tắc độc lập của thẩm phán và hội thẩm trong quá trình xét xử, chỉ tuân theo pháp luật Nội dung bài viết có thể truy cập tại địa chỉ: http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/baiviet?p_page_id54190&p_cateid51909&article_detail s=1&item_id552278, với thời gian truy cập là ngày 10/2/2021.
Hội đồng xét xử cần phải duy trì tính độc lập từ giai đoạn đầu khi tiếp xúc và nghiên cứu hồ sơ vụ án, tự đưa ra nhận định cá nhân dựa trên các chứng cứ và tình tiết khách quan Thẩm phán tại Tòa cấp dưới không chịu sự tác động từ Tòa cấp trên, đảm bảo kết luận của họ là công bằng và khách quan.
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên về cách giải quyết vụ án Tòa cấp trên không bị ảnh hưởng bởi các phán quyết của Tòa cấp dưới trong bản án sơ thẩm hay các lập luận trong kháng cáo Đối với Hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm, cần xem xét toàn diện hồ sơ vụ án, không chỉ chú trọng vào các vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc tình tiết mới trong kháng nghị.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự, với nhiều nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt Họ có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam Ngoài ra, Thẩm phán chủ tọa còn quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đưa vụ án ra xét xử, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, và điều hành việc xét xử cũng như tranh tụng tại phiên tòa Họ cũng có thể yêu cầu giám định, định giá tài sản, thay đổi người giám định hoặc người định giá, cũng như triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa Tất cả những nhiệm vụ này đều thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của Bộ luật.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án để chuẩn bị xét xử, Thẩm phán sẽ nắm vững bản chất và diễn biến của vụ án, từ đó xác định sự thật khách quan và định hướng giải quyết Khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có thể đưa ra các quyết định như đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc đưa vụ án ra xét xử Những quyết định này sẽ dẫn đến các hoạt động tiếp theo như áp dụng biện pháp ngăn chặn, điều tra bổ sung, xét xử tại phiên tòa và thi hành án hình sự.
Hoạt động nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa là một quá trình độc lập, không bị ảnh hưởng bởi kết luận của Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát Các quyết định của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử có vai trò quan trọng, là cơ sở pháp lý để xác định trình tự tố tụng và quan hệ giữa các bên tham gia Nếu quyết định đưa vụ án ra xét xử, sẽ phát sinh các quan hệ tố tụng tại phiên tòa; ngược lại, nếu đình chỉ vụ án, sẽ chấm dứt quan hệ tố tụng Giai đoạn chuẩn bị xét xử là thời gian để Thẩm phán và Hội thẩm xác định các tình tiết liên quan đến vụ án, lên kế hoạch xét hỏi và chuẩn bị các tình huống có thể xảy ra Sự nghiêm túc và độc lập của Thẩm phán trong giai đoạn này đảm bảo phiên tòa diễn ra thuận lợi, dựa trên quy định pháp luật và các chứng cứ hợp pháp, từ đó đạt được kết quả xét xử công bằng, khách quan.
Thẩm phán phải chịu trách nhiệm pháp lý về các hành vi và quyết định của mình, điều này khác biệt so với Điều tra viên và Kiểm sát viên, những người cũng phải chịu trách nhiệm nhưng trong các khía cạnh khác.
Theo Vũ Gia Lâm (2021), cần đảm bảo sự thống nhất trong quy định ra quyết định của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Luật quy định rằng Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật, không phải trước Chánh án Tòa án, trong khi họ cũng phải chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Viện trưởng Viện kiểm sát Điều này phản ánh nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong việc xét xử, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Trong phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, Thẩm phán Chủ tọa quyết định đưa vụ án ra xét xử dựa trên chứng cứ thu thập được trong giai đoạn chuẩn bị Hội đồng xét xử, bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm, tham gia xét xử vụ án hình sự, với việc xét xử được tiến hành bằng lời nói và liên tục theo quy định tại Điều 250 BLTTHS Các nguyên tắc này đảm bảo tính chính xác và khách quan trong quá trình xét xử, giúp Hội đồng ra bản án dựa trên điều tra chính thức và tranh luận công khai Hội đồng xét xử phải căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa để xác định tội phạm và hình phạt, không sử dụng chứng cứ chưa được xem xét Các thành viên Hội đồng phải tự nghiên cứu hồ sơ vụ án và không bị chi phối bởi bất kỳ ai, đồng thời Hội thẩm cần theo dõi sát sao để bổ sung các vấn đề cần thiết trong phiên tòa.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật
Theo Hiến pháp và pháp luật, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và giải quyết các vụ án Trong lĩnh vực hình sự, Tòa án quyết định về tội danh của bị cáo, do đó, các quyết định của Tòa án cần phải khách quan, chính xác và dựa trên các quy định pháp luật.
“Chỉ tuân theo pháp luật” là cụm từ xác định phạm vi hoạt động của Hội đồng xét xử, nhấn mạnh rằng việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm phải dựa hoàn toàn vào các quy định của pháp luật Pháp luật, trong bối cảnh này, được hiểu là toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự và thủ tục theo quy định.
Theo Điều 2 và Điều 4 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều gì khác hay bất kỳ ai khác.
Thẩm phán và Hội thẩm có quyền độc lập, không chịu sự can thiệp từ bên ngoài Việc tuân theo pháp luật là quyền lợi của họ, và pháp luật trao cho họ quyền này cần được thực hiện đầy đủ Không ai và không tổ chức nào được xâm phạm quyền của họ Pháp luật giữ vị trí tối thượng, yêu cầu tất cả cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tôn trọng quyền độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm.
Bùi Thị Bích Ngọc (2021) nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tư pháp và nguyên tắc độc lập trong quá trình xét xử, chỉ tuân theo pháp luật Bài viết được đăng trên trang điện tử của Trường chính trị tỉnh Yên Bái, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm công bằng và khách quan trong hoạt động tư pháp.
TU-PHAP-VA-NGUYEN-TAC-DOC-LAP-CHI-TUAN-THEO-PHAP-LUAT-KHI-XET-XU, truy cập ngày 10/11/2021
Theo Điều 4 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội, cùng với các pháp lệnh và nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội Ngoài ra, còn có lệnh và quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, cũng như các nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và các cơ quan khác Hệ thống này cũng bao gồm quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, và thông tư từ các cơ quan tư pháp và hành chính khác Cuối cùng, các quyết định và nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp từ trung ương đến địa phương cũng là một phần không thể thiếu trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
"Chỉ tuân theo pháp luật" không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm, đảm bảo sự độc lập trong xét xử Điều này yêu cầu Thẩm phán và Hội thẩm phải liên tục nâng cao trình độ chuyên môn và bản lĩnh nghề nghiệp, đồng thời tránh những tác động tiêu cực từ bên ngoài có thể ảnh hưởng đến phán quyết Việc tuân thủ pháp luật còn giúp ngăn chặn những hậu quả khó lường do kiến thức pháp luật hạn chế.
Tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự yêu cầu áp dụng cả Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự để đưa ra quyết định và bản án chính xác Thẩm phán và Hội thẩm cần có kiến thức về định tội và quyết định hình phạt Trước khi mở phiên tòa, các thành viên trong Hội đồng xét xử phải xem xét lại tài liệu trong hồ sơ vụ án, xây dựng kế hoạch xét hỏi và chuẩn bị cho các tình huống có thể xảy ra Trong phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm vững các quy định của Bộ luật để đảm bảo quá trình xét xử diễn ra công bằng và hợp pháp.
Tố tụng hình sự diễn ra từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc, trong đó phần xét hỏi, tranh luận và nghị án là quan trọng nhất Hội đồng xét xử cần nghiên cứu kỹ lưỡng các văn bản pháp luật liên quan, không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà còn ở các lĩnh vực hành chính, dân sự và kinh tế, để xác định đúng tội danh và đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Mỗi cấu thành cơ bản của tội phạm có những đặc điểm riêng, giúp Hội đồng xét xử phân biệt rõ ràng giữa các loại tội phạm, tránh nhầm lẫn trong quá trình xét xử.
32 Bùi Thị Bích Ngọc, tlđd (30)
Trong bài viết "Bàn về xác định tội danh trong vụ án hình sự" của Dương Phúc Trường, tác giả phân tích quy trình xác định tội danh trong các vụ án hình sự, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng đúng quy định pháp luật để đảm bảo công bằng và chính xác Bài viết cũng đề cập đến những thách thức mà cơ quan chức năng phải đối mặt trong việc xác định tội danh, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này Các nội dung được trình bày rõ ràng, có hệ thống, góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề pháp lý trong xã hội.
SU.html#:~:text=T%E1%BB%99i%20danh%3A%20l%C3%A0%20m%E1%BB%99t%20danh,%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20trong%20BLHS, truy cập ngày 30/10/2021
Theo Bùi Thị Bích Ngọc, hoạt động định tội danh đòi hỏi người thực hiện phải có kiến thức pháp luật sâu rộng, không chỉ dừng lại ở quy định hình sự mà còn cần am hiểu văn bản chuyên ngành Việc tham khảo ý kiến chuyên gia là cần thiết khi thiếu hiểu biết Thẩm phán và Hội thẩm cần nắm rõ hướng dẫn của TANDTC để xử lý chính xác từng vụ án Bên cạnh việc xác định tội danh và mức hình phạt, Hội đồng xét xử còn phải giải quyết các vấn đề dân sự liên quan, đây là nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự Để thực hiện điều này, Hội đồng cần hiểu rõ quy định pháp luật dân sự về căn cứ và mức bồi thường.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật, sự độc lập này không phải là tuyệt đối mà được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật Họ cần loại trừ hành vi vượt quyền, lạm quyền và vi phạm pháp luật Là thành viên của Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức rõ vai trò của mình, tự bổ sung kiến thức pháp luật và đời sống hàng ngày để nâng cao khả năng tư duy và đánh giá vấn đề một cách chính xác và khách quan Khi xét xử, họ cần nghiên cứu kỹ vụ án, độc lập trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra quyết định dựa trên quy định pháp luật và kiến thức chuyên môn, không bị tác động bởi yếu tố bên ngoài.
Hội đồng xét xử, bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm, hoạt động độc lập và không chịu sự can thiệp hay áp lực từ lãnh đạo Tòa án Lãnh đạo Tòa án chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn về việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử, nhưng không can thiệp vào việc giải quyết vụ án cụ thể Thẩm phán và Hội thẩm phải đánh giá chứng cứ một cách khách quan, không phụ thuộc vào kết luận điều tra hay cáo trạng của cơ quan điều tra, mà dựa vào việc kiểm tra và đánh giá công khai các chứng cứ tại phiên tòa Họ cần tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội và các nguyên tắc tố tụng hình sự, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào khi ra quyết định Đối với cấp phúc thẩm trở lên, Thẩm phán cũng không bị tác động bởi phán quyết của Tòa cấp dưới hay các yếu tố bên ngoài khác.
Chế tài về việc vi phạm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, việc can thiệp vào quá trình xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm bởi cơ quan, tổ chức, cá nhân là hoàn toàn bị nghiêm cấm Điều này nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc tôn trọng pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Theo quy định tại Tố tụng hình sự 2015, việc can thiệp vào quá trình xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào sẽ bị xử lý nghiêm khắc Cụ thể, tổ chức, cá nhân vi phạm có thể bị kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Điều này nhấn mạnh tính nghiêm minh của pháp luật trong việc bảo vệ độc lập xét xử.
Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhằm đảm bảo tính khách quan và chính xác của các quyết định của Tòa án Nguyên tắc này nhấn mạnh trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động xét xử Họ quyết định mọi vấn đề, bao gồm việc ra bản án, dựa trên chứng cứ khách quan, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ sự chỉ đạo hay sức ép nào từ cơ quan hay cá nhân khác Hơn nữa, Thẩm phán và Hội thẩm có quyền ngang nhau trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ, trình bày quan điểm và biểu quyết trong Hội đồng xét xử.
Pháp luật đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong Tòa án, cũng như giữa các cấp Tòa án khác nhau Chánh án không có quyền can thiệp hay gây áp lực lên Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án, theo quy định tại Điều 45.
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự, Thẩm phán chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật và không phải chịu trách nhiệm trước Chánh án khi giải quyết vụ án Hội thẩm cũng chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật về nhiệm vụ của mình, không phải trước cơ quan dân cử Tòa án cấp trên không có quyền chỉ đạo Tòa án cấp dưới trong việc xử lý vụ án, điều này thể hiện nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm, họ chỉ tuân theo pháp luật.
Pháp luật đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trước các mối quan hệ bên ngoài, đặc biệt là với các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát Điều này có nghĩa là Thẩm phán và Hội thẩm không bị ràng buộc bởi kết luận điều tra, từ đó bảo vệ tính công minh và khách quan trong quá trình xét xử.
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cung cấp thông tin cần thiết cho Hội đồng xét xử, giúp họ có cái nhìn đa chiều và đưa ra quyết định đúng đắn trong vụ án Các cơ quan, tổ chức hay cá nhân khác không thể ép buộc Thẩm phán và Hội thẩm ra bản án theo ý mình Theo Luật Tổ chức TAND 2014, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm giới thiệu người đủ tiêu chuẩn để bầu Hội thẩm, và Chánh án Tòa án nhân dân phối hợp với Ủy ban này để miễn nhiệm Hội thẩm Tuy nhiên, Hội thẩm phải giữ tính độc lập, vô tư và khách quan trong xét xử, bảo vệ công lý và quyền con người Các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông có quyền giám sát nhưng không được can thiệp vào hoạt động xét xử Hiến pháp và pháp luật Tố tụng hình sự quy định các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với hành vi can thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, và Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 đều quy định rằng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền điều tra các tội phạm trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm tội xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ liên quan đến cán bộ, công chức trong các cơ quan tư pháp Cụ thể, Thẩm phán và Hội thẩm vi phạm nguyên tắc xét xử độc lập có thể bị truy tố theo các tội danh trong Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự.
Theo Bộ luật hình sự, chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp mới có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội ra bản án trái pháp luật Hành vi này xâm phạm đến tính chính xác của hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan xét xử, và vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Bài viết của Nguyễn Tiến Sơn (2017) phân tích các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo Bộ luật hình sự năm 2015 Tác giả nêu rõ những vấn đề pháp lý liên quan đến các hành vi vi phạm này và tác động của chúng đến hệ thống tư pháp Nghiên cứu được đăng trên trang điện tử của Cơ quan điều tra VKSNDTC và có thể truy cập tại địa chỉ https://coquandieutravkstc.gov.vn/phan-tich-mot-so-toi-pham-xam-pham-hoat-dong-tu-phap-trong-bo-luat-hinh-su-nam-2015/, với ngày truy cập là 31/10/2021.
Thẩm phán và hội thẩm có thể bị xử lý hình sự nếu ra bản án trái pháp luật, với mức án phạt lên tới 15 năm tù Điều này nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của những người làm công tác xét xử trong hệ thống tư pháp Việt Nam Việc đảm bảo tính hợp pháp của bản án không chỉ bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan mà còn củng cố niềm tin của người dân vào công lý **Nguồn tham khảo** Lê Trọng Hùng (2020), “Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật có thể bị phạt tù đến 15 năm”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam.
Bản án bị coi là trái pháp luật nếu không đúng thực tế và quy định pháp luật, có thể bị kháng nghị Nội dung trái pháp luật bao gồm việc truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội hoặc không truy cứu người có tội, làm giảm nhẹ tội cho bị cáo, và các hành vi khác Ví dụ, thẩm phán không ghi nhận tiền án, tiền sự của bị cáo để cho hưởng án treo không có căn cứ Nếu thẩm phán đánh tráo tài liệu với mục đích ra bản án trái pháp luật, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án và ra bản án trái pháp luật Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất hành vi, có thể xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự Trong trường hợp thẩm phán lợi dụng sự hạn chế của Hội thẩm để thuyết phục họ ra bản án trái pháp luật, Hội thẩm có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về "Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" Hành vi thêm bớt, sửa đổi tài liệu nhằm hợp thức hóa bản án trái pháp luật sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: ra bản án trái pháp luật và làm sai lệch hồ sơ vụ án Thực tế đã có trường hợp thẩm phán bị khởi tố vì tội này, như vụ việc của Nguyễn Thành Đoàn tại TAND tỉnh Ninh Bình vào năm 2015.
Bị cáo Lê Trọng Hùng đã nhận án phạt 12 tháng tù treo với thời gian thử thách 24 tháng vì tội "Buôn bán hàng cấm" và đang trong thời gian thi hành án Tuy nhiên, Thẩm phán Nguyễn Thành Đoàn cùng HĐXX TAND tỉnh Ninh Bình đã bỏ qua các tình tiết tăng nặng, áp dụng những tình tiết giảm nhẹ không có thực, không tổng hợp hình phạt, và không yêu cầu Luân chấp hành án phạt tù trước đó, điều này vi phạm pháp luật và nguyên tắc xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Khi lãnh đạo Toà án hoặc cán bộ, công chức vi phạm pháp luật liên quan đến sự độc lập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm, họ có thể bị xử lý kỷ luật theo hai phương diện: kỷ luật hành chính và kỷ luật Đảng Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thể hiện vai trò của Đảng qua công tác cán bộ Nguyên tắc “Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng” là quan trọng trong hoạt động của cán bộ, công chức, với Đảng lãnh đạo thông qua việc phát hiện và bồi dưỡng Đảng viên ưu tú Cán bộ, công chức chủ yếu là Đảng viên, đặc biệt là những người giữ chức vụ lãnh đạo, vì vậy khi có vi phạm, họ có thể bị xử lý kỷ luật Đảng và hành chính Kỷ luật Đảng là trách nhiệm chính trị áp dụng cho Đảng viên vi phạm, trong khi kỷ luật hành chính là biện pháp chế tài của Nhà nước.
Vào năm 2015, Đào Minh Khoa đã báo cáo về việc một Phó Chánh án TAND bị khởi tố vì ra bản án trái pháp luật Sự việc này được đăng tải trên trang điện tử của Công an nhân dân, với thông tin chi tiết có thể tìm thấy tại [đây](https://cand.com.vn/Phap-luat/Khoi-to-Pho-Chanh-an-TaNd-tinh-Ninh-Binh-ve-toi-ra-ban-an-trai-phap-luat-i359105/) **Ngày truy cập** Thông tin được truy cập vào ngày 30 tháng 10 năm 2021.