RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TRƯỚC KHI MỞ PHIÊN TÒA
Quy ịnh của pháp luật về rút quyết ịnh truy tố trước khi mở phiên tòa
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự, nhằm buộc tội người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại Quá trình này bắt đầu từ việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, và kéo dài suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự Truy tố, một trong những chức năng quan trọng của Viện kiểm sát, được thực hiện thông qua bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố, nhằm đưa bị can ra trước Toà án có thẩm quyền để xét xử theo quy định của Bộ luật hình sự.
Trong tiếng Việt, "rút" có nghĩa là "kéo ra, thu lại, thu về" Khi nói đến rút quyết định truy tố, điều này có nghĩa là thu hồi việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can đã được nêu trong bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố Việc này có thể thực hiện theo thủ tục rút gọn hoặc quyết định khác, tức là thu hồi việc buộc tội Tuy nhiên, việc rút quyết định truy tố chỉ được thực hiện khi có các căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Rút quyết định truy tố được chia thành hai trường hợp: rút toàn bộ và rút một phần Rút toàn bộ quyết định truy tố nghĩa là Viện kiểm sát (VKS) không yêu cầu Tòa án xét xử và không buộc tội đối với một cá nhân hoặc pháp nhân thương mại về bất kỳ tội phạm nào trong bản cáo trạng Ngược lại, rút một phần quyết định truy tố cho phép VKS duy trì việc buộc tội nhưng yêu cầu Tòa án không xét xử về một hoặc một số tội phạm cụ thể, hoặc không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Điều này cho thấy rút quyết định truy tố là một chức năng quan trọng của quyền công tố thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát Theo Điều 285 BLTTHS năm 2015, việc rút quyết định truy tố trước phiên tòa phải dựa trên các căn cứ quy định tại Điều 157.
2 Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Viện kiểm sát có quyền rút quyết định truy tố trước khi phiên tòa diễn ra, dẫn đến việc đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án Quy định này hiểu rằng Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố, làm mất chức năng xét xử của Tòa án Tuy nhiên, Bộ luật này chưa quy định rõ ràng về quyền rút một phần quyết định truy tố, gây ra sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng.
2015 cũng quy định chưa rõ ràng, thế nào là rút một phần quyết định truy tố, thế nào là rút toàn bộ quyết định truy tố
Trong một vụ án liên quan đến tội “Cướp giật tài sản”, A và B bị truy tố vì là đồng phạm của nhau Trước khi phiên tòa diễn ra, Viện Kiểm sát đã quyết định rút truy tố đối với một trong hai bị cáo.
VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố B về tội “Cướp giật tài sản” do không đủ căn cứ chứng minh đồng phạm với A Về việc rút quyết định truy tố, có hai quan điểm khác nhau: Tòa án cho rằng VKS chỉ rút một phần quyết định truy tố, vì quyết định truy tố của VKS được coi là bản cáo trạng và chỉ khi nào VKS rút toàn bộ bản cáo trạng mới được xem là rút toàn bộ quyết định truy tố Ngược lại, Đinh Thế Hưng cho rằng VKS đã rút toàn bộ quyết định truy tố đối với A do không đủ căn cứ kết tội A đồng phạm với B.
Quan điểm thứ hai cho rằng không nên đồng nhất bản cáo trạng với quyết định truy tố Quyết định truy tố là chức năng của quyền công tố mà VKS sử dụng để đưa bị can ra xét xử, trong khi bản cáo trạng là hình thức pháp lý của hoạt động này Một bản cáo trạng có thể chứa nhiều quyết định truy tố đối với nhiều bị can về nhiều tội phạm khác nhau Việc rút toàn bộ cáo trạng đồng nghĩa với việc rút toàn bộ quyết định truy tố, trong khi rút một phần cáo trạng có thể chỉ liên quan đến một bị can hoặc một phần quyết định truy tố về tình tiết tăng nặng Do đó, việc đồng nhất giữa bản cáo trạng và quyết định truy tố dẫn đến hiểu lầm trong việc rút quyết định truy tố đối với A trong vụ án trên.
4 Công văn số: 328/NCPL ngày 22 tháng 06 năm 1993 của TANDTC
Viện Nhà nước và pháp luật thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã thực hiện việc rút toàn bộ quyết định truy tố đối với A, đồng thời cũng rút một phần trong cáo trạng.
Theo Điều 277 BLTTHS năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử được chia thành hai giai đoạn: từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, và từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi mở phiên tòa Trong giai đoạn đầu, nếu VKS rút toàn bộ quyết định truy tố, thẩm quyền đình chỉ vụ án thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Trong giai đoạn thứ hai, khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố, có hai quan điểm khác nhau về thẩm quyền đình chỉ vụ án.
Một số Thẩm phán cho rằng, theo điểm b khoản 1, Điều 282 BLTTHS năm 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa Do đó, thẩm quyền đình chỉ vụ án trong trường hợp này thuộc về Thẩm phán chủ tọa.
Một số Kiểm sát viên cho rằng, khi vụ án đã được quyết định đưa ra xét xử, thẩm quyền đình chỉ vụ án không còn thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa mà thuộc về Hội đồng xét xử (HĐXX) Theo quy định pháp luật, trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phải đưa ra một trong các quyết định như: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án Điều này nhằm đảm bảo tính hiệu lực của quyết định đưa vụ án ra xét xử và nguyên tắc xét xử có sự tham gia của Hội thẩm Do đó, Tòa án cần tổ chức phiên tòa và thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định.
Quan điểm thứ hai cho rằng Tòa án không cần mở phiên tòa trong trường hợp này, vì không có chức năng xét xử phát sinh Thay vào đó, Hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ tổ chức một phiên họp để giải quyết việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát (VKS) trong một khoảng thời gian hợp lý, trước hoặc đúng ngày dự kiến mở phiên tòa đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
BLTTHS năm 2015 đã cập nhật quy định về thẩm quyền truy tố của Viện Kiểm sát theo Điều 239, liên quan đến việc ủy quyền truy tố trong các vụ án.
6 Điểm b, khoản 1 Điều 282 BLTTHS năm 2015
VKS cấp trên thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra, quyết định việc truy tố và phải thông báo cho VKS cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền ít nhất 02 tháng trước khi kết thúc điều tra Sau khi quyết định truy tố, VKS cấp trên phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử Tuy nhiên, trong trường hợp VKS cấp dưới phát hiện căn cứ để rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố sau khi nghiên cứu hồ sơ, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chưa quy định cụ thể về vấn đề này Theo Điều 8 Quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp trên và cấp dưới, VKS cấp dưới phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ theo quy định pháp luật Mặc dù đã được ủy quyền, VKS cấp dưới có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, nhưng việc này phải tuân thủ quy định pháp luật hiện hành.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và 41 BLTTHS năm 2015, chỉ có VKS cấp trên mới có quyền rút quyết định của VKS cấp dưới Nếu VKS cấp dưới có lý do để rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, họ phải báo cáo lên VKS cấp trên để xem xét Nếu VKS cấp trên đồng ý bằng văn bản, VKS cấp dưới có thể thực hiện việc rút quyết định Ngược lại, nếu VKS cấp trên không đồng ý, VKS cấp dưới phải thực hiện nhiệm vụ theo quy định mà không được rút quyết định truy tố.
Thực tiễn về rút quyết ịnh truy tố trước khi mở phiên tòa
1.2.1 Đánh giá chung về thực tiễn rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa
Trong giai đoạn quyết định truy tố, Viện Kiểm sát (VKS) đã thực hiện quyền công tố một cách độc lập, đảm bảo Tòa án xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm hay làm oan người vô tội VKS kiểm tra tính hợp pháp và căn cứ của toàn bộ tài liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng trước đó Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp sai sót trong việc đánh giá chứng cứ, dẫn đến quyết định truy tố không đúng quy định pháp luật, buộc VKS phải rút quyết định trước khi mở phiên tòa Ngoài ra, có những trường hợp VKS rút quyết định một cách tùy tiện, không có căn cứ pháp luật, gây ra nhiều vướng mắc và bất cập trong thực tiễn.
Thứ nhất: VKS rút quyết ịnh truy tố chƣa úng quy ịnh pháp luật:
Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 28/01/2017, Nguyễn Văn Đầy cùng với Huỳnh Văn Út, Trần Văn Trung và Triệu Quốc Được đã đến quán karaoke Kim Chi ở ấp Phước Thành, xã Phước Long, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu để uống cà phê và tham gia chơi lắc bầu cua ăn tiền Trong lúc này, Nguyễn Văn Đầy đã nhờ Trần Thanh Hấu mua
Nguyễn Văn Đầy cùng nhóm bạn đã đến nhà Huỳnh Văn Nhỏ để mượn một nồi kim loại nhằm thực hiện hành vi lắc bầu cua tại quán karaoke Kim Chi Sau đó, Dương Thanh Liêm, Trần Văn Cường, Dương Văn Tuấn, Trần Văn Sáu, Trần Văn Thêm, Võ Trường Sang và Trần Thanh Hấu cũng tham gia vào trò chơi Các quy tắc được thiết lập để mỗi người làm cái 10 bàn, với bốn người là Nguyễn Văn Đầy, Dương Thanh Liêm, Huỳnh Văn Út và Triệu Quốc Được Những người còn lại đặt cược hoặc hùn tiền với người làm cái, với mức cược từ 20.000đ đến 500.000đ cho mỗi ô Cuối cùng, khi Huỳnh Văn Út đang làm cái thì bị bắt giữ Tang vật thu giữ bao gồm ba tờ giấy in hình các con vật, một nồi kim loại, chín hình hộp in hình các con vật và số tiền 6.212.000đ.
Quyết định rút quyết định truy tố số 01/QĐ-KSĐT ngày 16 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, đã đình chỉ vụ án và kèm theo Bản án sơ thẩm của TAND huyện Phước Long Các đối tượng liên quan trong vụ án bao gồm: Nguyễn Văn Đầy với số tiền 16.400.000đ; Huỳnh Văn Út 166.000đ; Dương Thanh Liêm 30.090.000đ; Triệu Quốc Được 17.146.000đ; Võ Trường Sang 39.000.000đ; Trần Văn Sáu 146.000đ; Trần Văn Cường 32.000đ; Dương Văn Tuấn 2.452.000đ; và Trần Thanh Hấu 6.520.000đ.
Quá trình điều tra cho thấy số tiền thu giữ liên quan đến hoạt động đánh bạc của các đối tượng như sau: Nguyễn Văn Đầy mang 17.200.000đ, đã sử dụng 800.000đ và thua 600.000đ, bỏ lại 200.000đ; Dương Thanh Liêm mang 30.690.000đ, sử dụng 800.000đ và thua 600.000đ; Huỳnh Văn Út mang 900.000đ, sử dụng 734.000đ; Triệu Quốc Được mang 15.000.000đ, sử dụng 5.000.000đ và thắng 2.146.000đ; Võ Trường Sang mang 39.300.000đ, sử dụng 4.300.000đ và thua 300.000đ; Trần Văn Thêm mang 400.000đ và thua hết; Trần Văn Trung mang 340.000đ và mượn 1.000.000đ để đánh bạc; Trần Văn Sáu mang 246.000đ, sử dụng 100.000đ và thua hết; Trần Văn Cường mang 232.000đ, sử dụng 200.000đ và thua hết; Dương Văn Tuấn mang 2.252.000đ, sử dụng 200.000đ và thắng 200.000đ; Trần Thanh Hấu mang 6.720.000đ, sử dụng 500.000đ và thua 200.000đ Tổng số tiền thu giữ từ các đối tượng là 19.424.000đ, bao gồm 6.212.000đ trên chiếu bạc.
Vào ngày 07/7/2017, VKSND huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu đã ban hành cáo trạng số 21/KSĐT-TA truy tố Trần Văn Trung, Dương Thanh Liêm, Nguyễn Văn Đầy, Huỳnh Văn Út, Trần Văn Thêm, Võ Trường Sang, Triệu Quốc Được và Trần Thanh Hấu về tội “Đánh bạc” Hành vi này vi phạm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, với số tiền dùng để đánh bạc từ 50.000.000 đồng trở lên.
Viện trưởng VKSND huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định rút quyết định truy tố số 01/QĐ-KSĐT ngày 06/12/2017 đối với Trần Thanh Hấu, nhận định rằng Hấu chỉ thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm Trong quá trình điều tra, Hấu đã thành khẩn khai báo, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, và hiện đang là sinh viên lớp Thú y A2, khóa 41 tại trường Đại học Cần Thơ Hấu đã nộp đơn xin miễn trách nhiệm hình sự để tiếp tục việc học Do đó, Viện kiểm sát xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho Trần Thanh Hấu theo quy định tại khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và đề nghị Tòa án đình chỉ xét xử đối với bị can này.
TAND Phước Long, tỉnh Bạc Liêu đã ra quyết định đình chỉ vụ án số 01/2017/HSST- QĐ ngày 08/12/2017 đối với bị can Trần Thanh Hấu, sau khi VKSND huyện Phước Long rút quyết truy tố theo quy định tại Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Theo cáo trạng của VKSND huyện Phước Long, Trần Thanh Hấu bị truy tố về tội "Đánh bạc" theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, với khung hình phạt tù từ 02 năm.
VKSND huyện Phước Long đã rút quyết định truy tố Trần Thanh Hấu trước khi mở phiên tòa, tuy nhiên, quyết định này không có căn cứ pháp lý do không có sự chuyển biến trong tình hình tội phạm Hành vi phạm tội của Hấu, mặc dù nghiêm trọng và số tiền đánh bạc cao hơn các bị can khác, lại được xem nhẹ chỉ vì Hấu là sinh viên Điều này dẫn đến sự bất công đối với các bị can khác, những người cũng có tình tiết giảm nhẹ nhưng không được miễn trách nhiệm hình sự Thẩm quyền rút quyết định truy tố của VKS còn quá lớn, trong khi luật pháp hiện hành chưa quy định rõ ràng về việc Cơ quan điều tra có quyền đề nghị rút quyết định truy tố, dẫn đến tình trạng tùy nghi trong quyết định của VKS Cần có quy định pháp luật rõ ràng hơn để đảm bảo công bằng trong quá trình truy tố.
10 Điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015
Khoản 1 Điều 25 của Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2009, quy định về quy chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.
Vụ án thứ hai 12 : Bị can Lý Viên ở tại phòng trọ số 09 cùng với chị ruột Lý
Thị Kim Hen và bị hại Mai Hồng Dương cùng với vợ Lý Kim Hiên (em ruột bị can
Lý Viên) ở tại phòng trọ số 04 tại nhà trọ ông Huỳnh Văn Khén thuộc khóm 2, phường Hộ Phòng, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu
Vào khoảng 18 giờ ngày 24/01/2018, Lý Viên, người nghiện rượu, sau khi uống rượu đã nằm nghỉ tại phòng trọ số 09 Trong lúc này, anh nghe tiếng chửi bới từ phòng trọ số 04 của Mai Hồng Dương, em rể của mình, chửi vợ là Lý Kim Hiên và gia đình bên vợ Bực tức trước việc Dương thường xuyên uống rượu và hành xử bạo lực với vợ con, Lý Viên đã lấy một cây dao Thái Lan và sang phòng Dương để khuyên anh này ngừng chửi Tuy nhiên, Dương không nghe và hai bên đã xảy ra cự cãi Trong lúc xô xát, Lý Viên đã dùng dao đâm vào cánh tay phải gần vai của Dương, dẫn đến một cuộc vật lộn giữa hai người.
Lý Viên đã tấn công Dương bằng dao, đâm vào ngực trái của Dương khiến Dương bị thương nặng và nằm trên nền gạch chảy nhiều máu Sau khi bị Dương đạp ngã vào tường, Lý Viên hoảng sợ ngồi bên cạnh Dương Lý Thị Cẩm Hồng đi ngang qua và tri hô, thu hút sự chú ý của Lý Kim Hiên, người đang nói chuyện gần đó Khi Lý Kim Hiên chạy vào, thấy Dương bất tỉnh và Lý Viên cầm dao dính máu, Lý Kim Hiên kêu gọi Lý Thị Kim Hen đến giúp, và Lý Thị Kim Hen đã giật lấy dao từ tay Lý Viên.
Lý Viên trở về phòng trọ số 09, trong khi Lý Thị Kim Hen đến phòng trọ số 10 của Lý Thị Kim Chiên, chị ruột của Lý Viên, và đã đẩy cửa vào ném một con dao vào trong tủ.
Vào ngày 28 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã ra quyết định rút một phần quyết định truy tố số 01/QĐ-VKS-P1, kèm theo quyết định đình chỉ vụ án và bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Bạc Liêu Trong vụ án này, Lý Kim Hiên đã đưa Mai Hồng Dương đi cấp cứu sau khi xảy ra sự việc, trong khi Lý Thị Kim Hen cùng Lý Đạt và Lý Thị Cẩm Hồng đã lau sạch dấu vết máu trong phòng trọ số 04 để che giấu hành vi phạm tội Khi bị cơ quan điều tra mời làm việc, Lý Thị Kim Hen đã khai báo gian dối rằng "Mai Hồng Dương bị sốc dao" Dù được đưa đến Bệnh viện đa khoa thị xã Giá Rai cấp cứu, nhưng Mai Hồng Dương đã tử vong Ngày 25/01/2018, bị can Lý Viên đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Giá Rai đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Biên bản khám nghiệm tử thi Mai Hồng Dương lúc 00 giờ 30 phút ngày 25/01/2018, tại Nhà xác Trung tâm y tế thị xã Giá Rai, thể hiện như sau:
Giải pháp nâng cao hiệu quả về rút quyết ịnh truy tố trước khi mở phiên tòa
Quản lý và chỉ đạo của lãnh đạo VKS tại một số địa phương còn lỏng lẻo, thiếu kiểm tra và giám sát Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Việc không xem xét kỹ nội dung cáo trạng trước khi ban hành đã dẫn đến tình trạng phải rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.
1.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả về rút quyết ịnh truy tố trước khi mở phiên tòa
Giải pháp về con người:
Việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa của Viện Kiểm sát (VKS) cần được nhận thức đúng đắn là nhằm hài hòa lợi ích xã hội và lợi ích công dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, không phải là chỉ tiêu nghiệp vụ xấu Trong trường hợp có đủ căn cứ buộc tội nhưng hành vi phạm tội ít nghiêm trọng và không còn nguy hiểm cho xã hội, VKS có quyền rút quyết định truy tố và miễn trách nhiệm hình sự Nếu VKS đã truy tố nhưng phát hiện sai sót trong việc đánh giá chứng cứ, dẫn đến việc hành vi không cấu thành tội phạm, cần phải áp dụng đúng quy định pháp luật để rút quyết định truy tố, tránh việc nhận định chung chung hay tùy tiện trong việc miễn trách nhiệm hình sự.
Để nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, cần tăng cường đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ Kiểm sát viên, đặc biệt trong giai đoạn truy tố Việc chú trọng vào xây dựng bản cáo trạng và phát triển kỹ năng nghiệp vụ như nghiên cứu hồ sơ, phân tích và đánh giá chứng cứ là vô cùng cần thiết.
Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố cần hạn chế việc rút quyết định truy tố trước phiên tòa, đồng thời nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố Việc sơ tổng kết và rút kinh nghiệm từ các địa phương sẽ giúp bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, quyền con người và quyền công dân, cũng như bảo vệ lợi ích của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân Mục tiêu là đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lãnh đạo VKSND các cấp cần chú trọng hơn đến công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố, thường xuyên kiểm tra và chỉ đạo Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định pháp luật cùng quy chế nghiệp vụ Việc này nhằm đảm bảo cáo trạng được ký ban hành đúng quy trình, từ đó hạn chế tối đa việc phải rút quyết định truy tố, vì các căn cứ để rút quyết định này đều đã được quy định trong giai đoạn truy tố.
Đảng và Nhà nước cần chú trọng đến việc cải thiện cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ Kiểm sát viên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để họ an tâm công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Giải pháp về pháp luật:
Kiến nghị sửa ổi BLTTHS năm 2015:
Theo Điều 285 BLTTHS năm 2015, Viện Kiểm sát có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi phiên tòa diễn ra Cụ thể, khi có căn cứ theo các điều khoản quy định tại Điều 1 hoặc Điều 2, hoặc khoản 2 Điều 1 của bộ luật này, Viện Kiểm sát có thể đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án đối với phần đã rút.
Kiến nghị liên ngành Tư pháp Trung hướng dẫn BLTTHS năm 2015 theo hướng:
Khi Viện Kiểm sát rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố sau khi vụ án đã được đưa ra xét xử, thẩm quyền đình chỉ vụ án thuộc về Hội đồng xét xử (HĐXX) Trong tình huống này, HĐXX sẽ tổ chức họp và ra quyết định đình chỉ vụ án đối với phần truy tố mà Viện Kiểm sát đã rút, trong thời hạn bằng hoặc trước ngày mở phiên tòa được xác định trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Khi VKS cấp trên truy tố và ủy quyền cho VKS cấp dưới thực hiện quyền công tố, nếu VKS cấp dưới phát hiện có căn cứ để rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thì cần kịp thời báo cáo cho VKS cấp trên để xem xét và quyết định.
Khi Viện Kiểm sát rút quyết định truy tố đối với một bị can trong trường hợp cáo trạng truy tố nhiều bị can đồng phạm hoặc nhiều tội danh khác nhau, điều này đồng nghĩa với việc rút toàn bộ quyết định truy tố đối với bị can đó và cũng là rút một phần của cáo trạng.
Quy định về cơ chế kiểm tra và giám sát là rất quan trọng trong việc đảm bảo trách nhiệm của Viện kiểm sát khi rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố không đúng quy định pháp luật Điều này không chỉ giúp nâng cao tính minh bạch trong hoạt động tư pháp mà còn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việc thiết lập các biện pháp ràng buộc trách nhiệm cụ thể sẽ góp phần tạo ra một hệ thống pháp lý vững mạnh và công bằng.
Truy tố là chức năng của Viện kiểm sát (VKS) nhằm đưa người bị buộc tội ra xét xử tại Tòa án Tuy nhiên, việc phát hiện tình tiết mới hoặc sai sót trong đánh giá chứng cứ có thể làm cho quyết định truy tố không còn phù hợp với pháp luật BLTTHS năm 2015 đã quy định quyền rút quyết định truy tố của VKS trước phiên tòa, nhưng chưa rõ ràng về việc rút một phần quyết định và thẩm quyền đình chỉ vụ án Khi VKS cấp dưới phát hiện có căn cứ để rút quyết định truy tố từ VKS cấp trên, pháp luật hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể Thực tế cho thấy, VKS thường rút quyết định truy tố mà không nêu rõ căn cứ pháp luật, dẫn đến tình trạng tùy nghi trong việc rút quyết định Để nâng cao hiệu quả trong công tác thực hành quyền công tố, cần hoàn thiện các quy định pháp luật và có giải pháp cụ thể cho việc rút quyết định truy tố trước phiên tòa trong tương lai.
RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TÒA
Quy ịnh của pháp luật về rút quyết ịnh truy tố tại phiên tòa
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị khẳng định:
Trong quá trình xét xử, các Toà án cần đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện dân chủ và khách quan Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, và phán quyết của Toà án phải dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, xem xét đầy đủ các chứng cứ và ý kiến từ các bên liên quan Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc đổi mới tổ chức phiên toà, xác định rõ vị trí và trách nhiệm của người tiến hành và tham gia tố tụng, nhằm nâng cao tính công khai, dân chủ và chất lượng tranh tụng, coi đây là yếu tố then chốt trong hoạt động tư pháp.
Để cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, Viện Kiểm sát (VKS) thực hiện quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo quy định tại Điều 266 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 18 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 và các quy định pháp luật liên quan Theo đó, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng trong quá trình này.
Công bố cáo trạng, công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa;
Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ;
Luận tội và tranh luận có thể dẫn đến việc rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, cũng như kết luận về tội danh khác nhẹ hơn Viện kiểm sát sẽ phát biểu quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án trong phiên tòa.
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên đại diện cho Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa án, thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Tuy nhiên, Kiểm sát viên không có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án, mà quyền này thuộc về Viện trưởng Viện Kiểm sát Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Kiểm sát viên là rút quyết định truy tố tại phiên tòa, điều này ảnh hưởng đến việc quyết định buộc tội hoặc không buộc tội bị cáo Việc rút quyết định truy tố được quy định tại Điều 319 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, sau khi kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn Mặc dù quy định này không gây khó khăn lớn trong thực tiễn, nhưng từ góc độ khoa học pháp lý, việc rút quyết định truy tố của VKS tại phiên tòa đã tạo ra một số vướng mắc nhất định liên quan đến chức năng xét xử của Tòa án.
Theo quy định tại các điều khoản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nếu Kiểm sát viên (KSV) rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, Hội đồng xét xử (HĐXX) vẫn tiếp tục xét xử vụ án Trong trường hợp KSV rút toàn bộ quyết định truy tố, HĐXX yêu cầu các bên tham gia tố tụng trình bày ý kiến trước khi nghị án Nếu HĐXX cho rằng việc rút quyết định truy tố là đúng đắn, sẽ tuyên bị cáo vô tội; ngược lại, nếu thấy bị cáo có tội và việc rút quyết định không hợp lý, HĐXX sẽ tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng Viện kiểm sát Tuy nhiên, việc HĐXX tiếp tục xét xử khi KSV đã rút toàn bộ cáo trạng là không phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án, vì không còn việc buộc tội để tranh luận Điều này vi phạm nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và có thể xâm phạm đến quyền lợi của các bên liên quan Do đó, cần tách bạch chức năng tố tụng của từng chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, khi KSV rút quyết định truy tố, HĐXX chỉ nên xét xử phần còn lại.
22 Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Chức năng cơ b n trong tố tụng h nh sự, Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề, tr 47
Khi HĐXX nhận thấy việc rút quyết định truy tố của KSV không đúng, HĐXX sẽ tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng VKSND cùng cấp hoặc cấp trên Tuy nhiên, nếu Viện trưởng xác định việc rút quyết định truy tố là hợp lý, cách giải quyết vụ án và thẩm quyền đình chỉ vẫn chưa được quy định rõ trong BLTTHS Thêm vào đó, vấn đề trách nhiệm bồi thường oan sai của Nhà nước, thuộc về cơ quan VKS hay Tòa án, cũng chưa được làm rõ trong Luật bồi thường Nhà nước, điều này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cá nhân hoặc pháp nhân thương mại bị buộc tội.
Thứ ba, đối với vụ án do VKS cấp trên quyết định việc truy tố, phân công cho
Việc Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa hiện vẫn chưa được quy định rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 về quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố Theo Quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp trên và cấp dưới, nếu có chứng cứ mới có thể thay đổi quyết định truy tố, Kiểm sát viên (KSV) có quyền đề nghị hoãn phiên tòa để báo cáo lên Viện kiểm sát cấp trên Tuy nhiên, quy chế này lại mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 297 BLTTHS 2015 về căn cứ hoãn phiên tòa Do đó, cần có quy định rõ ràng rằng nếu KSV đề nghị hoãn phiên tòa do có chứng cứ mới, thì Hội đồng xét xử (HĐXX) nên chấp nhận đề nghị này để đảm bảo tính hợp lý và công bằng trong quá trình xét xử.
Thứ tư, theo điểm l khoản 1 Điều 42, điểm a khoản 1 Điều 266 BLTTHS năm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014, KSV có trách nhiệm công bố cáo trạng và quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn tại phiên tòa Tuy nhiên, Điều 319 BLTTHS năm 2015 chỉ nêu rõ một số quy định liên quan mà không đề cập đầy đủ đến quy trình này.
Theo Khoản 4 Điều 326 BLTTHS năm 2015, sau khi kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên (KSV) có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, nhưng chưa có quy định cho phép rút quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa Hiện tại, VKS chỉ có thể ban hành cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, mà không có quy định cho việc ban hành quyết định khác về buộc tội Để đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất trong quy định pháp luật, cần thiết phải bổ sung quy định cho phép KSV công bố và rút quyết định khác về việc buộc tội tại phiên tòa.
Thực tiễn về rút quyết ịnh truy tố tại phiên tòa
2.2.1 Đánh giá chung về thực tiễn rút quyết định truy tố tại phiên tòa
Trong những năm gần đây, Viện Kiểm sát (VKS) đã thực hiện tốt quyền công tố trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự Kiểm sát viên (KSV) đã chủ động nắm chắc hồ sơ, chuẩn bị đề cương xét hỏi và phát biểu luận tội, đảm bảo nội dung trình bày đúng pháp luật và được Hội đồng xét xử chấp nhận Hoạt động của KSV tại phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, không có trường hợp nào KSV phải rút toàn bộ quyết định truy tố Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp KSV phải rút một phần quyết định truy tố do cáo trạng không còn đúng với hành vi phạm tội của bị cáo hoặc rút không có căn cứ.
Thứ nhất, cáo trạng truy tố không úng hành vi phạm tội của bị cáo nên KSV rút một phần quyết ịnh truy tố tại phiên tòa:
Vụ án thứ nhất diễn ra vào khoảng 21 giờ ngày 5 tháng 7 năm 2017, khi Điểu T điều khiển xe mô tô biển số 93F4 -7545 chở anh Nguyễn Văn S từ thị trấn Lộc Ninh đến xã Lộc Thiện để uống cà phê Đáng chú ý, Điểu T không có giấy phép lái xe hợp lệ Khi đến đoạn đường Nguyễn Tất Thành thuộc khu phố N, thị trấn N, sự việc đã xảy ra.
Vào ngày 08 tháng 11 năm 2017, Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước đã xét xử vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng liên quan đến xe mô tô biển số 93P1-59324 do anh Trần Văn Q điều khiển Tai nạn xảy ra khi xe mô tô này chạy ngược chiều và va chạm với xe của Điểu T, dẫn đến cái chết của anh Q do chấn thương ngực kín và vỡ tim, theo kết luận giám định của Bác sĩ pháp y Ngoài ra, hai người khác là Tân và Sơn cũng bị thương tích nhẹ Tài sản thiệt hại từ vụ tai nạn được định giá là 583.000 đồng Kết quả kiểm tra nồng độ cồn đối với Điểu T cho thấy nồng độ cồn là 0,686 miligam/1 lít khí thở.
Theo kết luận số 2831 ngày 18/9/2017 của Phân viện kỹ thuật hình sự, tổng cục Cảnh sát tại TP Hồ Chí Minh, mẫu máu được gửi giám định phát hiện có thành phần Ethanol với nồng độ 22,70 mg/100ml, nằm trong giới hạn cho phép theo quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ.
Cáo trạng số 73/CTr-VKS ngày 02/10/2017 của VKSND huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo Điểu T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” Hành vi của bị cáo được xem xét với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, việc điều khiển phương tiện giao thông mà không có giấy phép lái xe hợp lệ hoặc khi đang say rượu hoặc sử dụng các chất kích thích mạnh khác là hành vi vi phạm pháp luật.
Bản án số 77/2017/HSST, ban hành ngày 08 tháng 11 năm 2017, bởi Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, đã ghi nhận việc KSV rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo Điểu trong phiên tòa.
TAND huyện Lộc Ninh đã xem xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Điểu T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999, liên quan đến việc say rượu hoặc sử dụng chất kích thích mạnh Căn cứ vào việc rút một phần truy tố của Kiểm sát viên, TAND chỉ tuyên án và áp dụng hình phạt đối với Điểu T theo tình tiết còn lại là "Không có giấy phép lái xe theo quy định" theo điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999.
Vụ án thứ hai 25 : Ngày 16 tháng 10 năm 2016, Nguyễn Văn Tý điều khiển xe ô tô biển số 69A-027.15 chở vợ là Nguyễn Thị Ngọc và anh Lê Thanh Tùng đi từ
25 Bản án số: 09/2017/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng
Vào khoảng 16 giờ 10 phút ngày hôm đó, tại ấp Phương An 2, xã Hưng Phú, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xảy ra khi tài xế Tý ngủ gật và lạc tay lái sang bên trái Hậu quả là xe ô tô do Tý điều khiển đã va chạm với xe mô tô biển số 83H7 - 4411 do anh Ngô Thanh Tùng điều khiển và xe mô tô biển số 65FA-5163 do ông Nguyễn Văn Tư điều khiển chở bà Nguyễn Thị Giàu Vụ tai nạn đã khiến anh Ngô Thanh Tùng tử vong tại chỗ, trong khi ông Tư và bà Giàu bị thương Cả ba phương tiện đều bị hư hỏng nặng.
Theo kết luận giám định pháp y tử thi số 170/PY.PC45 ngày 21 tháng 10 năm 2016 từ phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, nguyên nhân tử vong của Ngô Thanh Tùng được xác định là do đa chấn thương.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 14/KLĐGTS-HĐGĐ.ĐGTS ngày 09 tháng 12 năm 2016 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Tú, xe ô tô biển số 69A-027 bị thiệt hại 138.819.160 đồng, xe mô tô biển số 83H7-4411 thiệt hại 9.875.000 đồng, và xe mô tô biển số 65FA-5163 thiệt hại 6.315.000 đồng Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại lên đến 155.009.160 đồng.
Cáo trạng số 01/KSĐT ngày 21 tháng 3 năm 2017 của VKSND huyện Mỹ
Tỉnh Sóc Trăng đã tiến hành truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tý về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” Hành vi của bị cáo được xác định có tình tiết tăng nặng là “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” theo điểm đ khoản 2 Điều luật liên quan.
Theo Điều 2 khoản 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013, hành vi gây chết người và gây thiệt hại tài sản của người khác từ 70 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng được coi là vi phạm nghiêm trọng theo quy định của BLHS năm 1999.
Bản án số 09/2017/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2017 của TAND huyện Mỹ
Tại phiên tòa ở tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên đã rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo Tý liên quan đến tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” Lý do là thiệt hại từ vụ việc lên tới 138.819.160 đồng đối với chiếc xe ô tô mà bị cáo Tý điều khiển.
Bị cáo Nguyễn Văn Tý chỉ gây thiệt hại cho phương tiện của chính mình và hai xe mô tô của người khác với tổng giá trị chưa đến 70.000.000 đồng, do đó không đủ căn cứ để áp dụng quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999 HĐXX đã xem xét và đồng ý với đề nghị của KSV về việc rút một phần truy tố, dẫn đến việc tuyên án và quyết định hình phạt đối với bị cáo Tý theo khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999.
Giải pháp nâng cao hiệu quả về rút quyết ịnh truy tố tại phiên tòa
Việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa đang thu hút sự quan tâm trong bối cảnh cải cách tư pháp theo mô hình tố tụng tranh tụng Bài viết này phân tích các vướng mắc thường gặp và tình huống thực tế, từ đó tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện quy trình này.
Kiến nghị bổ sung Điều 319 BLTTHS năm 2015 nhằm quy định quyền rút quyết định buộc tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa Cụ thể, sau khi kết thúc phiên xét xử, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, hoặc kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo.
Kiến nghị liên ngành Tư pháp Trung ương đã đưa ra hướng dẫn cho trường hợp Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố tại phiên tòa, yêu cầu Tòa án chỉ xét xử phần còn lại Đối với trường hợp Viện kiểm sát cấp trên phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm, nếu tại phiên tòa xuất hiện chứng cứ, tài liệu, đồ vật mới có khả năng thay đổi quyết định truy tố của Viện kiểm sát cấp trên, Kiểm sát viên có quyền đề nghị hoãn phiên tòa, và Hội đồng xét xử phải tuân thủ yêu cầu này.
Kiến nghị liên ngành Tư pháp Trung ương đề xuất hướng dẫn quy trình giải quyết vụ án trong trường hợp HĐXX nhận thấy việc rút quyết định truy tố của Kiểm sát viên (KSV) là không đúng Theo đó, HĐXX sẽ ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp hoặc Viện trưởng VKSND cấp trên Nếu Viện trưởng VKSND cùng cấp hoặc cấp trên xác nhận việc rút quyết định truy tố của KSV là đúng, các bước tiếp theo sẽ được thực hiện theo quy định hiện hành.
BLTTHS năm 2015 chưa phân tách rõ ràng giữa chức năng buộc tội của Viện kiểm sát (VKS) và chức năng xét xử của Tòa án, dẫn đến việc khi Kiểm sát viên (KSV) rút quyết định truy tố tại phiên tòa, HĐXX vẫn tiếp tục xét xử và tuyên án là không hợp lý Chưa có quy định cụ thể về thủ tục giải quyết vụ án trong trường hợp HĐXX nhận thấy việc rút quyết định truy tố của KSV không đúng, dẫn đến việc tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng VKSND Ngoài ra, chưa có quy định cho phép KSV rút một phần hoặc toàn bộ quyết định buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm, trong khi lại có quy định cho phép công bố quyết định khác về buộc tội Hơn nữa, việc VKS cấp trên truy tố và phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố cũng chưa được quy định rõ ràng Thực tế, KSV đã gặp phải hạn chế khi rút quyết định truy tố mà không nêu được căn cứ pháp luật Do đó, cần khắc phục những hạn chế này và hoàn thiện quy định pháp luật để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong bối cảnh hiện nay.
BLTTHS năm 2015 thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, đồng thời kế thừa và khắc phục những vướng mắc, bất cập của BLTTHS năm 2003 Luật này được xây dựng một cách khoa học, tiến bộ và có tính khả thi cao, góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp.
Năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự đã phân định rõ ràng ba chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa và xét xử, trong đó chức năng buộc tội đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại của hai chức năng còn lại Quyết định truy tố là hình thức buộc tội chính thức từ phía Nhà nước, thông qua bản cáo trạng, Viện kiểm sát đưa bị can ra xét xử trước Tòa án có thẩm quyền Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát thực hiện việc buộc tội bị cáo Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn tồn tại một số vướng mắc và khó khăn trong việc thực hiện quyền tố tụng của Viện kiểm sát trước khi mở phiên tòa và trong quá trình xét xử sơ thẩm.
1 BLTTHS năm 2015 chưa quy định về rút một phần quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa; chưa có quy định tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Kiểm sát viên được quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo Vì vậy, kiến nghị bổ sung hoàn thiện quy định của BLTTHS
2 Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố mà Tòa án vẫn tiếp tục xét xử vụ án và tuyên án là chưa hợp lý, xuất phát từ nguyên tắc không có buộc tội thì không có bào chữa và đương nhiên sẽ không có xét xử Từ đó, kiến nghị bổ sung hoàn thiện quy định của BLTTHS
3 Trường hợp trước khi mở phiên tòa hình sự sơ thẩm, Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố đối với một bị can mà cáo trạng truy tố nhiều bị can là đồng phạn của nhau, hoặc rút quyết định truy tố đối với một bị can mà cáo trạng truy tố nhiều bị can về nhiều tội danh khác nhau nhưng không có căn cứ pháp luật thì chưa có cơ chế ràng buộc Trường hợp Viện kiểm sát rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án là chưa hợp lý Do đó kiến nghị liên ngành Tư pháp Trung ương có văn bản hướng dẫn
4 Thực tiễn tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo nhưng không có căn cứ pháp luật hoặc có nêu căn cứ pháp luật nhưng không đúng Chưa có quy định cách thức, thủ tục giải quyết vụ án ở giai đoạn tiếp theo trong trường hợp khi nghị án, HĐXX xét thấy việc rút quyết định truy tố của KSV không đúng, HĐXX ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị nhưng không được chấp nhận
5 Trường hợp VKS cấp trên truy tố, ủy quyền cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, trước khi mở phiên tòa VKS cấp dưới có được rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố của VKS cấp trên hay không; và tại phiên tòa, Kiểm sát viên có được rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố của VKS cấp trên hay không Vì vậy, kiến nghị liên ngành Tư pháp Trung ương có văn bản hướng dẫn
6 Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc theo tinh thần cải cách tư pháp nên đã đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả rút quyết định truy tố
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Nghị quyết số: 08 - NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị, về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới”;
2 Nghị quyết số: 48 - NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị, “về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”;
3 Nghị quyết số: 49 - NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị, “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”;
5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, (Luật số: 19/2003/QH11), ngày 26/11/2003;
6 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, (Luật số: 101/2015/QH13), ngày 27/11/2015;
7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, (Luật số: 63/2014/QH13), ngày
8 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, (Luật số: 62/2014/QH13), ngày 24/11/2014;
9 Hồ Đức Anh (2008), “Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung chế định Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trong Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí kiểm sát;
10 Dương Thanh Biểu (2007), Tranh lu n tại phiên tòa sơ thẩm, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp;
11 Đỗ Văn Chỉnh (2012), “Cần sửa đổi, bổ sung quy định về rút quyết định truy tố”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 05, tr.15-20;