1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

187 69 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nguyên Tắc Cung Cấp Chứng Cứ Và Chứng Minh Trong Tố Tụng Dân Sự
Tác giả Trà Thảo Vân Linh
Người hướng dẫn ThS. Phan Nguyễn Bảo Ngọc
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại Khóa Luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 187
Dung lượng 14,34 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ (13)
    • 1.1. Khái quát về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự (13)
      • 1.1.1. Khái niệm về nguyên tắc (13)
      • 1.1.2. Đặc điểm về nguyên tắc (16)
      • 1.1.3. Ý nghĩa về nguyên tắc (20)
    • 1.2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh với các nguyên tắc khác trong Tố tụng dân sự (24)
      • 1.2.1. Mối liên hệ với nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (24)
      • 1.2.2. Mối liên hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (26)
      • 1.2.3. Mối liên hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (26)
      • 1.2.4. Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (27)
    • 1.3. Nội dung của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam (28)
      • 1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, giao nộp chứng cứ và chứng minh (30)
      • 1.3.2. Quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (42)
      • 1.3.3. Trách nhiệm của Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ (45)
    • 2.1. Đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện, đương sự khi thu thập, giao nộp chứng cứ và chứng minh (51)
      • 2.1.1. Tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện (51)
      • 2.1.2. Phương thức thực hiện nghĩa vụ thu thập, cung cấp tài liệu chứng cứ của người khởi kiện, đương sự (56)
      • 2.1.3. Thời hạn giao nộp tài liệu chứng cứ (59)
    • 2.2. Đảm bảo trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự thu thập, xác minh chứng cứ (61)
      • 2.2.1. Thực tiễn (61)
      • 2.2.2. Kiến nghị (64)
    • 2.3. Đảm bảo quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, giao nộp tài liệu chứng cứ của đương sự và Tòa án (65)
      • 2.3.1. Thực tiễn (65)
      • 2.3.2. Kiến nghị (67)
  • PHỤ LỤC (78)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Khái quát về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự

1.1.1 Khái niệm về nguyên tắc

Theo triết học Hy Lạp, thuật ngữ "nguyên tắc" (Archê) được Platon định nghĩa là "cái không được sinh ra" và là "cái hiện hữu đầu tiên" từ đó phát sinh nhiều tồn tại khác Trong từ điển tiếng Việt, "nguyên tắc" được hiểu là điều cơ bản cần tuân theo trong một loạt các hoạt động.

Nguyên tắc là những quy định cơ bản và bắt buộc trong các hoạt động của con người Để đạt được kết quả trong bất kỳ hoạt động có mục đích nào, các cá nhân cần xác định và tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc liên quan.

Mỗi lĩnh vực đều có những nguyên tắc riêng, đóng vai trò là kim chỉ nam cho việc xây dựng và thực hiện các quy định liên quan Trong lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là ngành luật Tố tụng dân sự (TTDS), nguyên tắc là những tư tưởng pháp lý quan trọng, hướng dẫn hoạt động của ngành Tuy nhiên, các tư tưởng pháp lý chỉ có giá trị bắt buộc khi được thể hiện dưới hình thức quy phạm pháp luật Do đó, nguyên tắc của một ngành luật thường được quy định trong các văn bản pháp luật, tạo nền tảng cho việc áp dụng và thực thi luật.

Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, hay còn gọi là Plato) là nhà triết học nổi tiếng người Athen, sống vào khoảng 428/427 hoặc 424/423 - 348/347 TCN Ông là người sáng lập trường phái tư tưởng Platon và Học viện, cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở phương Tây Platon được xem là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử triết học phương Tây và Hy Lạp cổ đại, bên cạnh người thầy Socrates và học trò nổi tiếng Aristotle.

Platon (245 TCN) trong tác phẩm "Phèdre" đã trình bày những khái niệm triết học sâu sắc về tình yêu và bản chất của linh hồn Tác phẩm này không chỉ khám phá mối quan hệ giữa tình yêu và tri thức mà còn nhấn mạnh vai trò của lý trí trong việc dẫn dắt con người đến chân lý Thông qua các cuộc đối thoại, Platon khuyến khích người đọc suy ngẫm về giá trị của tình yêu như một động lực thúc đẩy sự phát triển tinh thần và trí tuệ.

3 Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.694

Luật Tố tụng dân sự (TTDS) là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, mang những đặc điểm tương tự như các ngành luật khác Nguyên tắc của ngành luật TTDS được xác định là những tư tưởng pháp lý cơ bản, đóng vai trò định hướng cho việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật Những nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự, với mỗi nguyên tắc cơ bản được quy định tại một điều luật riêng, thể hiện nội dung và ý nghĩa đặc trưng của từng nguyên tắc.

Trong ngành luật Tố tụng Dân sự (TTDS) Việt Nam, việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa các đương sự là rất quan trọng Đương sự có quyền và nghĩa vụ chứng minh yêu cầu của mình trước Tòa án và các bên tham gia tố tụng khác, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình Để thực hiện điều này, các chủ thể phải chỉ ra cơ sở và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự, bao gồm quy định pháp luật, thông tin hoặc dấu vết của các tình tiết, sự kiện Tất cả những yếu tố này tạo thành chứng cứ, vì vậy cung cấp chứng cứ và chứng minh được coi là nguyên tắc cơ bản trong luật TTDS Việt Nam.

Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) được kế thừa từ các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trước đây Những quy định này đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình xét xử, giúp các bên liên quan có cơ hội trình bày chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình Việc tuân thủ nguyên tắc này là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng và hiệu quả của hệ thống tư pháp.

Vào năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế được ban hành, tiếp theo là Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1994 và 1996 Tuy nhiên, các quy định trong những pháp lệnh này dường như đã đồng nhất nghĩa vụ chứng minh với nghĩa vụ cung cấp chứng cứ Khái niệm chứng minh chỉ đơn thuần yêu cầu rằng đương sự phải xuất trình các bằng chứng cần thiết.

4 Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tr.35

Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản năm 2017 bởi Nxb Công an nhân dân, định nghĩa rằng nguyên tắc của luật tố tụng dân sự là những tư tưởng pháp lý có vai trò chỉ đạo và định hướng trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự, và những nguyên tắc này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật liên quan.

6 Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Số 27-LCT/HĐNN8) ngày 07/12/1989

7 Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế (Số 31-L/CTN) ngày 29/3/1994

8 Điều 5 Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (Số 48-L/CTN) ngày 11/4/1996

Khi đưa ra yêu cầu, các bên cần trình bày chứng cứ để chứng minh tính hợp lý của yêu cầu đó trước Tòa án Điều quan trọng không chỉ nằm ở việc chứng minh mà còn ở việc cung cấp chứng cứ Nếu các đương sự chỉ xuất trình chứng cứ một cách khách quan, thì việc chứng minh sẽ không còn cần thiết, vì Tòa án có thể tự tìm ra sự thật khách quan của vụ án thông qua hoạt động điều tra và thu thập chứng cứ của mình.

Việc đồng nhất hai nghĩa vụ trong tố tụng là không hợp lý, vì cung cấp chứng cứ chỉ là một phần trong quá trình chứng minh Chứng minh trong tố tụng là một quá trình toàn diện, bao gồm thu thập, cung cấp và sử dụng chứng cứ để làm rõ các yêu cầu pháp lý và thực tế của các bên Do đó, vai trò thu thập và cung cấp chứng cứ của đương sự chưa được chú trọng, dẫn đến việc không nhận thức đầy đủ về vai trò chứng minh của họ, và không có cơ chế hiệu quả để họ thực hiện nghĩa vụ, từ đó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Cùng với sự phát triển của trình độ lập pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi là BLTTDS 2004) và BLTTDS năm

Luật tố tụng dân sự 2015 đã khắc phục những hạn chế trước đó, chuyển giao trách nhiệm điều tra, xác minh và thu thập chứng cứ từ Tòa án sang các đương sự Theo quy định mới, các bên liên quan không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ chủ động thu thập và giao nộp chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là hợp pháp Điều này được cụ thể hóa tại Điều 6 BLTTDS, nhấn mạnh rằng việc cung cấp chứng cứ là quyền và nghĩa vụ của cả đương sự lẫn các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) của Cộng hòa Pháp xác định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự là nguyên tắc cơ bản trong TTDS Nghiên cứu cho thấy trước thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật Việt Nam không phân biệt rõ ràng giữa dân sự và hình sự, dẫn đến các quy định về thủ tục TTDS chưa được xác định một cách cụ thể.

9 Ngô Vĩnh Bạch Dương (2015), “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7

10 Điều 6 BLTTDS 2015 và Điều 6 BLTTDS 2004

Tục tố tụng riêng biệt chính thức được du nhập vào miền Nam Việt Nam dưới thời Pháp thuộc qua Nghị định ngày 16/3/1910, tiếp theo là Bộ dân sự tố tụng Bắc Kì năm 1917 và Bộ hộ sự thương sự tố tụng Trung Việt năm 1942 Các quy định về tố tụng dân sự (TTDS) của Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ pháp luật TTDS Pháp, dẫn đến sự giao thoa giữa hai nền pháp luật Trong Bộ luật TTDS Pháp, chế định cung cấp chứng cứ và chứng minh được quy định tại Mục 4 Chương I Thiên 1 Quyển thứ nhất, nêu rõ những quy tắc chỉ đạo hoạt động TTDS Chương này thiết lập các nguyên tắc định hướng, là cơ sở nền tảng mà các chủ thể tham gia tố tụng phải tuân thủ.

Mối liên hệ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh với các nguyên tắc khác trong Tố tụng dân sự

Trong triết học, các nhà duy vật biện chứng cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, nơi mọi sự vật và hiện tượng đều có mối liên hệ và tác động qua lại Đối chiếu với các nguyên tắc trong pháp luật Tố tụng dân sự (TTDS), mỗi nguyên tắc có vai trò độc lập nhưng chỉ phát huy đầy đủ ý nghĩa khi được xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các nguyên tắc khác Để hiểu sâu sắc nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh, việc đánh giá mối liên hệ với các nguyên tắc khác là cần thiết Mặc dù nguyên tắc này liên quan đến tất cả các nguyên tắc cơ bản trong Chương 2 BLTTDS 2015, tác giả sẽ chỉ phân tích một số nguyên tắc có mối liên hệ mật thiết với nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh, bao gồm: nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4), nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5), nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 8) và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24).

1.2.1 Mối liên hệ với nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Khi xây dựng hệ thống pháp luật, Nhà nước cần thiết lập cơ chế để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ, và pháp luật dân sự Việt Nam cũng cần tuân thủ nguyên tắc này.

28 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học, Đoàn Quang Thọ (Chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị,

29 Trường đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 26

Bài viết của Nguyễn Thị Thu Hà và Vũ Hoàng Anh (2020) trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp đề cập đến nguyên tắc "quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự" Nội dung bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong hệ thống tư pháp, đồng thời phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến quyền yêu cầu của đương sự trước tòa án.

18 nhiều phương thức giải quyết tranh chấp dân sự, và đương nhiên, trong đó có cả phương thức yêu cầu Tòa án bảo vệ 31

Theo Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp quốc gia, đảm bảo công lý và bảo vệ quyền con người TAND có trách nhiệm tiếp nhận và xem xét các đơn khởi kiện từ cá nhân, cơ quan, tổ chức khi họ cần được bảo vệ quyền lợi hợp pháp Việc này diễn ra trong khuôn khổ phân công, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Quyền con người chỉ có thể thực thi trong thực tiễn khi có sự can thiệp từ các cơ quan công quyền, đóng vai trò điều chỉnh các quy tắc xã hội Mọi quyền con người và quyền công dân cần có những yếu tố bảo trợ về thủ tục và thiết chế để có thể tồn tại thực sự Tòa án, với vai trò đại diện cho công quyền, không chỉ điều khiển quá trình tố tụng mà còn đảm bảo quyền tố tụng cho đương sự Mối liên hệ giữa việc cung cấp chứng cứ và trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự là rất quan trọng, đặc biệt theo quy định tại khoản 3 Điều 6 BLTTDS 2015 Nguyên tắc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phép đương sự yêu cầu sự hỗ trợ khi họ đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không thể thu thập chứng cứ.

Hiện nay, bên cạnh việc yêu cầu Tòa án bảo vệ, các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự bao gồm tự bảo vệ, hòa giải, thương lượng và trọng tài.

Bài luận án của Nguyễn Thị Thúy Hằng (2019) nghiên cứu về việc bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong lĩnh vực tố tụng dân sự Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan trong quá trình xét xử, nhằm nâng cao tính công bằng và minh bạch của hệ thống pháp luật Nghiên cứu này được thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội và có giá trị tham khảo cao cho các nhà nghiên cứu và thực hành pháp luật.

1.2.2 Mối liên hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc chủ đạo trong pháp luật Tố tụng dân sự (TTDS), phản ánh đặc trưng riêng biệt của lĩnh vực này và phân biệt với các ngành luật tố tụng khác Nguyên tắc này có nguồn gốc từ các nguyên tắc giao lưu dân sự, trong đó các quan hệ dân sự được thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt dựa trên sự tự nguyện, tự thỏa thuận và bình đẳng giữa các bên, nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nguyên tắc này được quy định tại Điều 5, nhấn mạnh quyền tự quyết của các đương sự trong quá trình tố tụng.

Đương sự có quyền tự quyết định về quyền lợi và lợi ích của mình, bao gồm việc lựa chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền lợi đó Điều này cho phép đương sự quyết định tham gia tố tụng, điều chỉnh nội dung yêu cầu (bao gồm thay đổi, bổ sung hoặc chấm dứt yêu cầu), cũng như quyền thỏa thuận và hòa giải với các bên liên quan.

Trong mối quan hệ biện chứng với nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự bao gồm cả quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh Đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, nhưng để Tòa án thụ lý, họ phải đưa ra chứng cứ và tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp PGS.TS Phạm Hữu Nghị cũng đồng quan điểm và đã phân chia quyền này một cách rõ ràng.

Quyền tự định đoạt của đương sự bao gồm nhiều khía cạnh quan trọng như quyền khởi kiện, quyền đưa ra và bổ sung chứng cứ, quyền thay đổi yêu cầu cũng như rút đơn khởi kiện, và quyền thương lượng, hòa giải Điều này cho thấy rằng chứng cứ và chứng minh là những nội dung thiết yếu trong quyền tự định đoạt của đương sự.

1.2.3 Mối liên hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự

Quyền bình đẳng của mọi công dân được ghi nhận trong pháp luật, tạo nên thước đo chuẩn mực cho sự bình đẳng Pháp luật là nền tảng quan trọng, thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người trong xã hội.

33 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (4), tr.46 - 47

34 Phạm Hữu Nghị (2000), “Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong Tố tụng dân sự”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, số 12, tr.39 – 40

Mục tiêu của tự do và bình đẳng là rất quan trọng, nhưng nếu pháp luật chỉ ghi nhận sự bình đẳng giữa các cá nhân và tổ chức mà không có quy định cụ thể về quyền bình đẳng với Nhà nước, thì việc thực hiện sự bình đẳng vẫn gặp khó khăn Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu đã chỉ ra rằng quyền lợi được luật pháp công nhận không đủ để đảm bảo người dân hưởng dụng, vì quyền lợi có thể bị xâm phạm Do đó, pháp luật cần thiết lập các thiết chế đặc biệt để bảo vệ sự bình đẳng trước pháp luật, và Tòa án là một trong những thiết chế quan trọng này Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã khẳng định rằng mọi người đều bình đẳng trước các toà án và có quyền được xét xử công bằng, độc lập và không thiên vị để xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong các vụ kiện dân sự.

Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự được ghi nhận tại Điều 8 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, đảm bảo rằng các đương sự có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh Điều này có nghĩa là khi đưa ra yêu cầu hoặc phản đối, các đương sự đều phải cung cấp chứng cứ hợp pháp cho Tòa án mà không bị phân biệt về vị trí tố tụng, địa vị xã hội, giới tính, dân tộc, hoặc tôn giáo Nhờ đó, Tòa án bảo đảm sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ tố tụng, tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách công bằng.

1.2.4 Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử

Tranh tụng trong tố tụng dân sự là quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án thông qua việc trao đổi chứng cứ, căn cứ pháp lý và lập luận giữa các bên liên quan.

35 Nguyễn Huy Đẩu, Nguyễn Văn Lượng (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Sài Gòn, Nxb Bộ Tư pháp, tr.03

Nội dung của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS được quy định một cách minh thị tại Điều 6 của BLTTDS 2015, với những nội dung cụ thể:

Đương sự có quyền và nghĩa vụ thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án, đồng thời chứng minh rằng yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện và yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người khác, đồng thời có nghĩa vụ thu thập và cung cấp chứng cứ, chứng minh như một đương sự.

36 Bùi Thị Huyền (2016), “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Luật học, số 4/2016, tr.50

Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự là một yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật, giúp đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình xét xử Theo Đinh Quốc Trí (2012), việc tuân thủ nguyên tắc này không chỉ tạo ra trách nhiệm cho các bên liên quan mà còn góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã phân tích sâu sắc về vai trò và ý nghĩa của nguyên tắc này trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.

2 Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”

Theo đó, so với quy định của BLTTDS 2004, nội dung của nguyên tắc đã có những thay đổi lớn 38 sau:

Thứ nhất, BLTTDS 2015 đã xác định lại quyền và nghĩa vụ của đương sự là

Trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ chủ động thu thập và giao nộp chứng cứ cho Tòa án, khác với quy định của BLTTDS 2004 chỉ nêu quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ Chứng cứ là phương tiện quan trọng để xác định sự thật trong vụ việc dân sự, nơi đương sự phải chủ động yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Tòa án chỉ có trách nhiệm xem xét và đánh giá chứng cứ theo quy định pháp luật, không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ thay cho đương sự Sự thành công trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự phụ thuộc vào khả năng thực hiện nghĩa vụ thu thập chứng cứ của họ Nếu đương sự từ chối giao nộp chứng cứ, Tòa án có quyền giải quyết vụ việc dựa trên chứng cứ đã có trong hồ sơ, và điều này sẽ là căn cứ để Tòa án cấp trên không hủy bản án hoặc quyết định của Tòa cấp dưới do thiếu chứng cứ.

Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ, mặc dù đương sự có nghĩa vụ chủ động thực hiện việc này Trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án không mang tính chất bắt buộc và không phải lúc nào cũng phải thực hiện Cơ sở để Tòa án nhân dân thực hiện nhiệm vụ này là nhằm đảm bảo quá trình tố tụng được công bằng và minh bạch.

38 Tham khảo tại: Nguyễn Thị Hoài Phương (2016), Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr.41 – 43

Tòa án có trách nhiệm xem xét đề nghị hỗ trợ thu thập chứng cứ từ đương sự, nhưng quyền quyết định cuối cùng thuộc về Tòa Tòa có thể từ chối hỗ trợ nếu lý do của đương sự không thuyết phục Hơn nữa, pháp luật cho phép Tòa án chỉ dựa vào chứng cứ mà các bên đương sự cung cấp để giải quyết vụ án và đưa ra phán xét.

BLTTDS 2015 đã ra mắt với những cải tiến đáng kể về nguyên tắc cung cấp chứng cứ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đương sự trong việc thu thập và giao nộp chứng cứ Luật mới không chỉ tăng cường tính chủ động cho các bên liên quan mà còn thể hiện tính nhân văn khi Tòa án hỗ trợ trong quá trình thu thập chứng cứ Điều này quan trọng vì không phải lúc nào các đương sự cũng có khả năng tự thu thập chứng cứ, và mục tiêu cuối cùng của cả các bên tham gia tố tụng và Tòa án là đảm bảo việc giải quyết vụ việc một cách chính xác, khách quan và nhanh chóng.

1.3.1 Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, giao nộp chứng cứ và chứng minh

Quan hệ pháp luật dân sự được hình thành từ sự tự do, tự nguyện và bình đẳng trong cam kết và thỏa thuận giữa các chủ thể Việc giải quyết tranh chấp dân sự tập trung vào các quan hệ "riêng tư" của những chủ thể có quyền và nghĩa vụ ngang nhau Một trong những quy định quan trọng của Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) liên quan đến vấn đề này.

Năm 2015, nhằm đảm bảo sự bình đẳng về địa vị pháp lý trong tố tụng dân sự, các đương sự được quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình Khi đưa ra yêu cầu, đương sự phải chứng minh tính hợp pháp và có căn cứ của yêu cầu đó Yêu cầu này được hiểu rộng rãi, bao gồm cả việc công nhận đúng hoặc sai, và chính là đề ra đối tượng chứng minh Các yêu cầu của đương sự có thể bao gồm yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập của bị đơn, cũng như yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

40 Trường đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.30

41 Đinh Quốc Trí (2012), tlđd (37), tr.11

Khi một cá nhân đưa ra yêu cầu Tòa án giải quyết, họ có trách nhiệm cung cấp chứng cứ và thực hiện các hoạt động chứng minh liên quan đến yêu cầu đó.

Và việc cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự được diễn ra hầu như trong

“toàn bộ” quá trình TTDS: a Trong giai đoạn khởi kiện, yêu cầu và thụ lý vụ việc dân sự

Khởi kiện vụ án dân sự là bước đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự Để phát sinh nghĩa vụ thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án, các chủ thể cần tuân thủ đầy đủ các điều kiện khởi kiện, yêu cầu về hình thức khởi kiện và tạm ứng án phí.

Khi nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện cần xuất trình tài liệu và chứng cứ để chứng minh quyền khởi kiện đối với một chủ thể trong quan hệ pháp luật cụ thể Giai đoạn khởi kiện là bước đầu tiên trong quá trình tố tụng, do đó việc cung cấp chứng cứ là điều cần thiết Tùy thuộc vào từng loại vụ việc và quan hệ tranh chấp, người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện các chứng cứ và tài liệu cần thiết ban đầu.

Pháp luật yêu cầu người khởi kiện cung cấp các chứng cứ cần thiết ban đầu, điều này giúp Tòa án có căn cứ để thụ lý vụ việc Tuy nhiên, người khởi kiện không bắt buộc phải nộp toàn bộ chứng cứ cùng một lúc khi nộp đơn.

Các điều kiện khởi kiện bao gồm: (i) Chủ thể khởi kiện cần có tư cách pháp lý phù hợp; (ii) Vụ việc chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cũng như quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ các trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; (iii) Yêu cầu khởi kiện phải được thể hiện qua đơn khởi kiện, đảm bảo đầy đủ các nội dung theo quy định.

Đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện, đương sự khi thu thập, giao nộp chứng cứ và chứng minh

2.1.1 Tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện a Thực tiễn

Dựa trên phân tích ở Chương 1, yêu cầu khởi kiện chỉ hợp lệ khi đáp ứng các điều kiện về tư cách chủ thể, hình thức khởi kiện, tài liệu chứng cứ và nộp cho Tòa án có thẩm quyền Nếu không thỏa mãn các điều kiện này, Tòa án sẽ không thụ lý và trả lại đơn theo Điều 192 BLTTDS 2015 Trong thực tiễn, mỗi điều kiện đều có những vướng mắc, nhưng tác giả sẽ chỉ tập trung vào vấn đề “tài liệu chứng cứ kèm theo”.

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến sự gia tăng tính đa dạng và phức tạp trong các quan hệ dân sự Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thiếu hướng dẫn cụ thể về tài liệu chứng cứ cần nộp kèm theo đơn khởi kiện, khiến các Tòa án phải "tùy cơ ứng biến" trong việc yêu cầu tài liệu cần thiết cho từng vụ án Điều này tạo ra sự không đồng bộ trong quy trình tiếp nhận và giải quyết đơn khởi kiện tại các địa phương, dẫn đến những yêu cầu khác nhau từ các nhân sự phụ trách Tại TAND thành phố Hồ Chí Minh, ví dụ, trong việc tiếp nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ chủ nợ, yêu cầu cung cấp chứng cứ xác định nơi có trụ sở doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản lại không thống nhất.

Theo thông báo sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu số 765/TB-TA ngày 08 tháng 5 năm 2019 của TAND thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án yêu cầu Công ty TNHH TP (chủ nợ có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản) bổ sung tài liệu, chứng cứ để xác định Công ty Cổ phần GH sở hữu bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh khác nhau hoặc có chi nhánh, văn phòng đại diện tại nhiều địa điểm.

45 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau hay không và cung cấp chứng cứ chứng minh”

Theo Thông báo sửa đổi bổ sung đơn yêu cầu số 2450/TB-TA ngày 02 tháng 12 năm 2019, TAND thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu bà Lê Đào Phương T, chủ nợ trong vụ việc yêu cầu mở thủ tục phá sản, phải bổ sung các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình.

“+ Chứng minh doanh nghiệp có nhiều chi nhánh tại nhiều quận huyện thuộc các tỉnh thành phố khác nhau hay không?

+ Chứng minh doanh nghiệp có nhiều bất động sản tại nhiều quận, huyện thuộc các tỉnh, thành phố khác nhau hay không?

+ Chứng minh vụ việc phá sản có người tham gia ở nước ngoài hoặc có tài sản ở nước ngoài”

Qua hai văn bản này, có thể thấy rằng mặc dù cùng một bộ phận tiếp nhận đơn khởi kiện tại TAND thành phố Hồ Chí Minh và cùng một vụ việc liên quan đến yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, nhưng các yêu cầu đưa ra lại khác nhau Đặc biệt, yêu cầu đối với bà Lê Đào Phương T, người yêu cầu mở thủ tục phá sản, có phần khắt khe và vượt quá khả năng cung cấp tài liệu của bà Việc chứng minh doanh nghiệp có nhiều bất động sản tại các tỉnh, thành phố khác nhau hay có tài sản ở nước ngoài phải do doanh nghiệp tự thực hiện, không thể yêu cầu chủ nợ chứng minh ngay từ lúc nộp đơn yêu cầu, điều này là vô lý.

Nếu việc hoàn thành hồ sơ khởi kiện theo quy định tại Tòa án vẫn gặp khó khăn, người khởi kiện có thể thực hiện đơn khởi kiện trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử.

88 Nguyễn Thị Thu Sương (2021), “Bàn về thời điểm thụ lý vụ án trong Tố tụng dân sự”, Tạp chí Pháp luật

Việc thu thập và giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hiện nay gặp nhiều khó khăn do quy định chưa đầy đủ, đặc biệt là tại một số Tòa án không có hướng dẫn rõ ràng cho người dân Cần thiết phải công khai danh mục tài liệu chứng cứ như TAND thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để người dân dễ dàng tiếp cận và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã có hiệu lực từ 01/01/2017, nhiều Tòa án vẫn áp dụng quy định của Bộ luật cũ, cho thấy trách nhiệm trong việc tiếp nhận và xử lý yêu cầu khởi kiện còn thấp, đặc biệt là đối với hình thức khởi kiện không trực tiếp Nếu được củng cố, hình thức khởi kiện điện tử sẽ giảm chi phí và thời gian, đồng thời giúp hạn chế tập trung đông người tại Tòa án trong bối cảnh dịch Covid-19.

Khi đề cập đến tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, cần lưu ý khoản 5 Điều 189 BLTTDS 2015, quy định rằng trong trường hợp khách quan, người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, họ vẫn phải nộp đơn khởi kiện cùng chứng cứ hiện có để chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm Trái ngược với quy định của khoản 5 Điều 189 BLTTDS 2004, nơi yêu cầu người khởi kiện phải gửi tài liệu chứng cứ để chứng minh yêu cầu là hợp pháp, nhưng không đưa ra hướng xử lý cho trường hợp không thể cung cấp đầy đủ tài liệu ngay tại thời điểm khởi kiện, dẫn đến nhiều khó khăn cho người khởi kiện.

Theo khoản 1 Điều 190 BLTTDS 2015, người khởi kiện có thể gửi đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có thẩm quyền qua ba phương thức: nộp trực tiếp tại Tòa án, gửi qua dịch vụ bưu chính, hoặc gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

Quy định tại BLTTDS 2015 đã mang đến những cải cách tích cực cho quyền khởi kiện, giúp giảm bớt khó khăn và bất lợi cho đương sự Tuy nhiên, khi so sánh với các quy định khác về nghĩa vụ cung cấp tài liệu chứng cứ, quy định này vẫn chưa thực sự hiệu quả và thiếu sự liên kết với thực tiễn, đặc biệt là việc xác định “lý do chính đáng” vẫn chưa được ghi nhận rõ ràng trong bất kỳ văn bản nào Do đó, cần có những kiến nghị cụ thể để cải thiện tình hình này.

Người khởi kiện là chủ thể khởi động quá trình giải quyết vụ việc tại Tòa án, vì vậy họ cần chủ động thu thập và giao nộp chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình Tuy nhiên, việc liệt kê cụ thể tài liệu và chứng cứ ngay từ khi nộp đơn khởi kiện là khó khăn do mỗi tranh chấp có hoàn cảnh và sự kiện khác nhau Dù vậy, qua việc nghiên cứu tài liệu và bản án, có thể thấy rằng các chứng cứ quan trọng để Tòa án tiếp nhận và xử lý yêu cầu khởi kiện chủ yếu tập trung vào ba loại chính.

Thứ nhất, là những tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ tranh chấp mà người khởi kiện yêu cầu giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa án;

Để chứng minh năng lực chủ thể hoặc tư cách pháp lý của người yêu cầu, cần cung cấp các tài liệu như chứng minh nhân dân, căn cước công dân, sổ hộ khẩu, hộ chiếu cho cá nhân; hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh cho pháp nhân, tổ chức khác Trong trường hợp không có các tài liệu này ngay tại thời điểm yêu cầu, có thể sử dụng các tài liệu khác có giá trị thay thế.

Người khởi kiện cần cung cấp các tài liệu và chứng cứ chứng minh quyền lợi của mình bị xâm phạm, bao gồm các tài liệu xác nhận sự tồn tại của quan hệ dân sự giữa các bên liên quan.

91 Nguyễn Thị Thu Sương, tldđ(12), tr.44

48 tranh chấp (hợp đồng, nội dung thỏa thuận, di chúc,…), tài liệu chứng minh tranh chấp giữa các bên và quyền lợi của người khởi kiện bị xâm phạm,

Người khởi kiện cần chuẩn bị ba loại tài liệu, chứng cứ bắt buộc để nộp kèm theo đơn khởi kiện, trong khi các tài liệu, chứng cứ khác có thể bổ sung sau Các nhà làm luật nên xem xét quy định thống nhất về yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ khởi kiện để tạo sự đồng bộ cho các Tòa án Tuy nhiên, việc thực thi quy định này phụ thuộc vào sự chủ động và linh hoạt của từng cấp Tòa án Nếu kiến nghị được thực hiện, các hướng dẫn chi tiết về tài liệu, chứng cứ sẽ được củng cố trên các trang thông tin điện tử của Tòa án, hiện tại chỉ có một số ít trang có quy định rõ ràng về thủ tục khởi kiện Việc thống nhất tài liệu, chứng cứ sẽ giúp Tòa án cập nhật thông tin chi tiết trên cổng thông tin điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự và làm cho quy trình tiếp nhận, xem xét, thụ lý của Tòa án trở nên hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, về quy định “lý do chính đáng” tại khoản 5 Điều 189 BLTTDS

Năm 2015, việc xây dựng nội dung hướng dẫn cụ thể là rất cần thiết, bởi nếu không có, việc xem xét lý do có chính đáng hay không sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Thẩm phán Điều này có thể dẫn đến sự tùy tiện, thiếu minh bạch và công bằng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Tác giả đề xuất rằng các nhà làm luật nên dựa vào tinh thần tại khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng.

Đảm bảo trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự thu thập, xác minh chứng cứ

Trách nhiệm của Tòa án trong việc thu thập và chứng minh chứng cứ trước đây rất rộng, dẫn đến tâm lý ỷ lại của đương sự Hiện nay, mặc dù pháp luật đã khẳng định vai trò hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do ảnh hưởng của mô hình tố tụng thẩm vấn Vai trò của đương sự vẫn phụ thuộc nhiều vào quyết định của Tòa án về thủ tục và giá trị chứng cứ Điều này thể hiện rõ qua các quy định về hậu quả khi đương sự không cung cấp đủ chứng cứ Dù pháp luật TTDS xác định nguyên tắc cung cấp chứng cứ là đặc thù và trao quyền cho đương sự, nhưng việc đánh giá cuối cùng vẫn thuộc về Tòa án, gây khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Tác giả nhấn mạnh rằng không phản bác nguyên tắc cung cấp chứng cứ theo Điều 6 BLTTDS 2015, vì quan hệ dân sự mang tính chất tư nhân, trong đó quyền tự quyết thuộc về các đương sự Việc xác định vai trò của Tòa án theo nguyên tắc cơ bản của BLTTDS là một bước tiến quan trọng Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc chỉ tập trung vào quyền và nghĩa vụ của đương sự mà không tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể của Tòa án sẽ không đảm bảo tính toàn diện trong quá trình xét xử.

Sự hỗ trợ này chỉ tồn tại ở góc độ văn bản và không có giá trị thực thi, hoặc nếu có, chỉ dựa vào sự "nhiệt tình" của Tòa án Điều này dẫn đến nhiều bản án không chính xác, không đảm bảo quyền lợi cho đương sự, thậm chí có thể bị hủy do Tòa chỉ dựa vào tài liệu chứng cứ mà đương sự cung cấp, làm cho việc thu thập và đánh giá chứng cứ không đầy đủ Một số vụ án có thể được xem xét để minh họa cho vấn đề này.

Bà Trần Thị X sở hữu phần đất 858m² thuộc thửa 251 tờ bản đồ số 13, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 19/4/1995 và đổi vào ngày 09/10/2001 Từ năm 2008, ông Nguyễn Thanh H đã tự ý cắm cọc lấn chiếm 70m² đất của bà X, dẫn đến việc bà X khởi kiện yêu cầu ông H tháo dỡ hàng rào và trả lại đất Trong quá trình giải quyết, ông H cho rằng gia đình ông đã sử dụng đất tranh chấp từ trước năm 1975 Tuy nhiên, các bản đồ hiện trạng không xác định rõ ràng về hàng rào Tòa án sơ thẩm không tiến hành thẩm định hiện trạng, dẫn đến việc bản án phúc thẩm số 1148/2018/DS-PT tuyên hủy bản án sơ thẩm do vi phạm thủ tục tố tụng và thiếu chứng cứ.

Vụ án thứ hai 99 liên quan đến ông Vũ Văn B (nguyên đơn) và ông Trần Văn V (bị đơn), trong đó hai bên đã ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 01/2017/HĐHTKD để thực hiện các công việc theo thỏa thuận.

99 Tham khảo tại: Nguyễn Thị Thu Sương, tldđ(12), tr.59-60

Hợp tác đầu tư kinh doanh khai thác cát theo Giấy phép do UBND tỉnh Tây Ninh cấp cho doanh nghiệp tư nhân P, với giá trị quyền khai thác lên tới 10 tỷ đồng.

B đã chuyển tiền cho chi nhánh H vào ngày 03/7/2017 và ngày 9/12/2017 Ngày 22/12/2017, ông B và chi nhánh H ký thêm biên bản thỏa thuận, với nội dung: Ông

Ông B đã chuyển cho chi nhánh H 3 tỷ đồng với điều kiện trong 60 ngày chi nhánh H phải chuyển nhượng quyền khai thác cát cho ông Sau khi hoàn tất, chi nhánh H sẽ chuyển 2 tỷ đồng còn lại Tuy nhiên, chi nhánh H và doanh nghiệp tư nhân P không thực hiện đúng cam kết, dẫn đến việc ông B khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ Tòa án nhân dân huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh đã ra bản án số 01/2018/KDTM-ST ngày 05/12/2018, chấp nhận yêu cầu của ông B và xác nhận rằng hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa ông V và ông B dựa trên biên bản thỏa thuận ngày 02/10/2016 và giấy cam kết ngày 26/6/2017 là có giá trị pháp lý, được chứng minh bằng các tài liệu có chữ ký và dấu của doanh nghiệp tư nhân P.

Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa ra nhận định chủ quan và thiếu căn cứ khi chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, mặc dù tài liệu được cung cấp chủ yếu từ phía bị đơn và có sự thừa nhận từ người có quyền lợi liên quan Hơn nữa, các bản khai giữa các đương sự có nhiều mâu thuẫn, nhưng Tòa án không tiến hành thủ tục cần thiết để làm rõ Vụ việc sau đó đã được TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét và ban hành Quyết định số 33/2019/KDTM-GĐT ngày 06/11/2019, tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm do Tòa án không tiến hành giám định chữ ký trong giấy chuyển nhượng ngày 26/6/2017, cho thấy yêu cầu của nguyên đơn thiếu căn cứ vững chắc.

Hay trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng A - Chi nhánh

Tòa án cấp sơ thẩm đã không đưa các con của ông Đại Văn T1 và bà Nguyễn Thị P 101 vào tham gia tố tụng, mặc dù họ có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Hơn nữa, tòa án cũng không làm rõ công sức đóng góp của các con đối với tài sản tranh chấp.

101 Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/KDTM-GĐT ngày 11/9/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (Phụ lục số 01)

Quyết định giám đốc thẩm đã hủy toàn bộ quyết định công nhận thỏa thuận giữa các đương sự do việc thu thập và đánh giá chứng cứ không đầy đủ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng Tình trạng các Thẩm phán không nghiên cứu và đánh giá chứng cứ một cách toàn diện vẫn diễn ra phổ biến, dẫn đến việc giải quyết vụ việc dân sự không chính xác, kéo dài qua nhiều cấp xét xử, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Tác giả đề xuất rằng để hoàn thiện quy định về chế định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), cần có sự điều chỉnh và hướng dẫn cụ thể hơn về trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự thu thập và cung cấp chứng cứ Cụ thể, cần ban hành văn bản hướng dẫn rõ ràng về các trường hợp mà Tòa án có nghĩa vụ áp dụng biện pháp pháp lý để thu thập tài liệu, chứng cứ, bao gồm cả những trường hợp mà đương sự không yêu cầu nhưng thông tin, tài liệu cần thu thập lại có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án.

Hiện nay, các quy định về chế tài xử lý vi phạm tố tụng tại Tòa án chưa rõ ràng và cụ thể, dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan và chính xác Chế tài nặng nhất thường chỉ là hình thức khiển trách, kỷ luật nội bộ, không đủ sức ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các Tòa án Tác giả kiến nghị nhà lập pháp cần thiết lập các chế tài pháp lý hiệu quả dựa trên từng chủ thể vi phạm, hành vi vi phạm, tính chất, mức độ và hậu quả của vi phạm tố tụng dân sự.

Để cải thiện tình trạng các Thẩm phán đánh giá chứng cứ chưa khách quan, cần nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho họ Việc bồi dưỡng và tập huấn cho các Thẩm phán cần được thực hiện thường xuyên và liên tục Đồng thời, cần tạo ra các diễn đàn để Thẩm phán có thể trao đổi thẳng thắn, góp ý xây dựng về những khiếm khuyết và sai sót cần khắc phục trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, từ đó bảo đảm quyền và lợi ích của người dân.

Đảm bảo quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, giao nộp tài liệu chứng cứ của đương sự và Tòa án

Pháp luật TTDS quy định rằng đương sự có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu hợp lệ Tuy nhiên, sự thiếu ràng buộc giữa quyền yêu cầu và nghĩa vụ cung cấp thông tin dẫn đến nhiều trường hợp đương sự gặp khó khăn Họ thường phải bỏ ra nhiều công sức và thời gian để yêu cầu cung cấp, nhưng lại nhận được phản hồi từ chối, không đầy đủ hoặc không đúng thời hạn theo quy định.

Thái độ làm việc và ý thức chấp hành pháp luật kém của các chủ thể liên quan không chỉ gây khó khăn cho đương sự mà còn làm nản lòng Tòa án Ví dụ, trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H và chị L, bà H khẳng định rằng chữ ký trong hợp đồng là giả mạo Dù đã yêu cầu Tòa án thu thập hồ sơ từ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Q để giám định chữ ký, nhưng Tòa án không nhận được phản hồi Sau nhiều lần hỏi trực tiếp, Tòa án chỉ nhận được thông tin rằng hồ sơ đã bị thất lạc Tuy nhiên, khi Tòa án thông báo sẽ kiến nghị xử lý trách nhiệm về việc mất hồ sơ, ngay lập tức, bà H nhận được "lời mời" đến nhận hồ sơ.

Vụ tranh chấp về tư cách góp vốn của các thành viên Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ E đã được TAND tỉnh Đồng Nai thụ lý từ năm 2015 Tuy nhiên, đến nay vụ việc vẫn chưa được xét xử sơ thẩm, chủ yếu do các bên liên quan đang giữ tài liệu chứng cứ quan trọng.

102 Phạm Thái Quí, “Thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự còn gian nan”, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/05/03/4812/, truy cập ngày 17/6/2021

Công ty E được thành lập với hai thành viên là bà Nguyễn Thị Loan A và bà Nguyễn Thị L, với tổng vốn 4.050.000.000 đồng Bà A khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh Đồng Nai không công nhận tư cách thành viên của bà L, cho rằng bà L không góp vốn và ủy quyền cho bà Nguyễn Thị T chiếm đoạt con dấu công ty Ngược lại, bà L phản tố, khẳng định bà A không góp vốn và chỉ đứng tên trên danh nghĩa, đồng thời yêu cầu không công nhận bà A là thành viên công ty và hủy Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh giả do cấp sai.

Vào ngày 28/10/2016, TAND tỉnh Đồng Nai đã phát hành Công văn số 399/CV, vì hồ sơ của các đương sự cung cấp chưa đủ cơ sở để giải quyết.

Vào ngày 29/11/2016, Tòa án nhận được Công văn phúc đáp số 49/PC 46 từ Phòng Cảnh sát Công an tỉnh Đồng Nai, thông báo rằng vụ án tranh chấp con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh giữa các thành viên Công ty A đã được giải quyết Tòa án đã yêu cầu Phòng Cảnh sát cung cấp toàn bộ lời khai của các bên liên quan, nhưng đến ngày 17/01/2017, không nhận được bất kỳ phản hồi nào Tiếp tục, vào ngày 01/3/2017, TAND tỉnh Đồng Nai đã phát hành công văn số 88/CV-TA yêu cầu cung cấp chứng cứ, nhưng vẫn không có hồi âm Điều đáng chú ý là Tòa án đã quy định rõ thời hạn cung cấp chứng cứ và yêu cầu lý do nếu không thực hiện được Sự chậm trễ và thiếu thiện chí này đã dẫn đến việc vụ án bị trì hoãn, kéo dài, và chưa có phán quyết cuối cùng.

So với Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã có những cải tiến nhất định, như quy định rằng các cơ quan, tổ chức không cung cấp thông tin cho Tòa án mà không có lý do chính đáng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự Tuy nhiên, BLTTDS 2015 lại không quy định cụ thể về hình phạt áp dụng và thiếu chế tài đối với hành vi cản trở đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ Do đó, mặc dù có sự bổ sung được coi là “bước tiến mới”, nhưng thực tế vẫn thiếu rõ ràng và đầy đủ để có thể thực thi hiệu quả.

Mặc dù Điều 498 của BLTTDS năm 2015 có quy định về việc xử lý vi phạm, nhưng các quy định tại Điều 21, 48 của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và chế tài hình sự hiện hành còn thiếu tính khả thi và cụ thể trong thực tiễn áp dụng, không đảm bảo nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh Điều này khác biệt với quy định của BLTTDS Liên bang Nga, nơi mà khoản 3 Điều 57 quy định chế tài nặng nề đối với những người không thông báo hoặc không thực hiện yêu cầu của Tòa án, với mức phạt tiền lên đến 10 lần lương tối thiểu Pháp luật TTDS Nga đã đưa ra các chế tài rõ ràng và chi tiết, điều này là một điểm tiến bộ mà Việt Nam có thể tham khảo để cải thiện hệ thống pháp lý của mình.

106 Điều 383 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu

107 https://tailieu.vn/doc/tim-hieu-bo-luat-to-tung-dan-su-lien-bang-nga-phan-1-1810371.html, truy cập ngày 01/7/2021

Nghiên cứu pháp luật về chế tài xử lý hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản là rất quan trọng Việc này giúp đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình xử lý vụ án, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan Các quy định pháp lý cần được áp dụng nghiêm túc để nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết vụ việc phá sản.

Điểm g khoản 2 Điều 65 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP, quy định rằng công chức TAND các cấp có trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi được nêu từ Điều 54 đến Điều 64 của Chương VI Đồng thời, Điều 70 của Nghị định cũng quy định rõ thẩm quyền và hình phạt mà TAND có thể áp dụng.

Theo Điều 55 của Luật Phá sản năm 2014, hành vi không cung cấp đầy đủ, kịp thời hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ không chính xác liên quan đến vụ việc phá sản trong thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận yêu cầu từ các bên liên quan sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đến 3.000.000 đồng, trừ khi có lý do chính đáng.

Tác giả đề xuất rằng Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) hiện hành cần tham khảo các quy định liên quan khi xác định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự Các nhà lập pháp cần đánh giá mối tương quan giữa trách nhiệm cung cấp chứng cứ, hành vi vi phạm, hậu quả của vi phạm, đặc điểm của từng đối tượng và tính chất quan trọng của tài liệu yêu cầu Điều này nhằm đưa ra mức xử phạt vi phạm hành chính hoặc hình sự phù hợp, tạo cơ chế rõ ràng cho các Tòa án áp dụng, tránh tình trạng thiếu minh bạch và chung chung như hiện nay.

- Tách hai hình phạt là xử phạt hành chính và xử phạt hình sự được quy định một cách chung chung tại Điều 106 BLTTDS;

Trong trường hợp các chủ thể có thẩm quyền không cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ, đúng hạn theo yêu cầu của đương sự, có thể áp dụng các điều luật 106, 489, 495 và các quy định liên quan để xử phạt hành chính Cần quy định rõ mức phạt cho từng hành vi vi phạm trong Bộ luật Tố tụng Dân sự hoặc Luật Xử lý Vi phạm Hành chính, cũng như các văn bản pháp lý khác Đề xuất bổ sung một điều luật mới để cụ thể hóa quy định này.

Nghị định 108/2013/NĐ-CP được ban hành vào ngày 24 tháng 9 năm 2013 bởi Chính phủ, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp và hợp tác xã.

“Điều … Xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu của đương sự về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự

1 Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của đương sự về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang quản lý, lưu giữ mà không có lý do chính đáng thì theo yêu cầu của đương sự, Tòa án có thể xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật

Lý do chính đáng là …

Ngày đăng: 26/04/2022, 23:18

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

PHỤ LỤC SỐ 03. BẢNG THỐNG KÊ QUY ĐỊNH HỒ SƠ KHỞI KIỆN CỦA MỘT SỐ TỈNH/THÀNH - Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
03. BẢNG THỐNG KÊ QUY ĐỊNH HỒ SƠ KHỞI KIỆN CỦA MỘT SỐ TỈNH/THÀNH (Trang 80)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w