1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Biện pháp ngăn chặn bắt người và tạm giữ trong tố tụng hình sự thực tiễn áp dụng tại tỉnh hà tĩnh

77 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Biện Pháp Ngăn Chặn Bắt Người Và Tạm Giữ Trong Tố Tụng Hình Sự. Thực Tiễn Áp Dụng Tại Tỉnh Hà Tĩnh
Tác giả Phan Thị Phương Thúy
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Thanh Bình
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Cử Nhân Luật
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 77
Dung lượng 713,57 KB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
    • 2. Tình hình nghiên cứu về đề tài (8)
    • 3. Mục tiêu, nhiệm vụ khoa học (8)
      • 3.1. Mục tiêu khoa học (8)
      • 3.2. Nhiệm vụ khoa học (8)
    • 4. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu (9)
      • 4.1. Đối tượng ngiên cứu (9)
      • 4.2. Phương pháp nghiên cứu (9)
    • 5. Ý nghĩa của đề tài (9)
    • 6. Kết cấu khoá luận (10)
  • Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ TẠM GIỮ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ (11)
    • 1.1. Khái niệm, căn cứ, tính chất và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn (11)
      • 1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn (11)
      • 1.1.2. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn (12)
      • 1.1.3. Tính chất và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn (13)
    • 1.2. Biện pháp ngăn chặn bắt người trong TTHS (14)
      • 1.2.1. Cơ sở pháp lý biện pháp ngăn chặn bắt người (14)
      • 1.2.2. Các trường hợp bắt người (15)
    • 1.3. Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong TTHS (28)
      • 1.3.1. Khái niệm và đối tượng áp dụng BPNC tạm giữ (28)
      • 1.3.2. Trường hợp áp dụng BPNC tạm giữ (29)
      • 1.3.3. Thẩm quyền tạm giữ (31)
      • 1.3.4. Thủ tục tạm giữ (32)
      • 1.3.5. Thời hạn tạm giữ (32)
  • Chương 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ TẠM GIỮ TẠI TỈNH HÀ TĨNH (35)
    • 2.1. Thực trạng áp dụng BPNC bắt người và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh (37)
      • 2.1.1. Tình hình áp dụng BPNC bắt người và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh (37)
      • 2.1.2. Thực trạng áp dụng BPNC bắt người tại tỉnh Hà Tĩnh (39)
      • 2.1.3 Thực trạng áp dụng BPNC tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh (41)
    • 2.2. Một số vấn đề tồn tại khi áp dụng BPNC bắt người và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh (43)
      • 2.2.1. Một số tồn tại khi áp dụng BPNC bắt người tại tỉnh Hà Tĩnh (44)
      • 2.2.2. Những tồn tại trong việc áp dụng BPNC tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh (48)
    • 2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong thực tiễn áp dụng BPNC bắt, tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh (53)
      • 2.3.1. Nguyên nhân thuộc về công tác xây dựng pháp luật (53)
      • 2.3.2. Nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thể áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ (54)
      • 2.3.3. Những nguyên nhân khác (56)
  • Chương 3 HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT, TẠM GIỮ TẠI TỈNH HÀ TĨNH (58)
    • 3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về BPNC bắt người và tạm giữ trong TTHS (58)
      • 3.1.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung nội dung các quy định của BLTTHS về biện pháp ngăn chặn bắt và tạm giữ (58)
      • 3.1.2. Kiến nghị về việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của (62)
    • 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt người và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh (64)
      • 3.2.1. Tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm sát, kiểm tra việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC bắt người, tạm giữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh (64)
      • 3.2.2. Tăng cường năng lực và nâng cao phẩm chất đạo đức chủ thể áp dụng BPNC bắt, tạm giữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh (66)
      • 3.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại tỉnh Hà Tĩnh (69)
      • 3.2.4. Xử lý nghiêm khắc các trườn g hợp vi phạm (70)
  • KẾT LUẬN (74)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi Nhà nước phong kiến xuất hiện cho đến khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các quy phạm pháp luật liên quan đến bắt người và tạm giữ đã được hình thành và phát triển, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 đã được sửa đổi và bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là trong việc quy định các biện pháp ngăn chặn như bắt và tạm giữ Các quy định này đã thể chế hóa các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đảm bảo ngăn ngừa hiệu quả và xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, đồng thời không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội Điều này giúp bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tham gia vào quá trình tố tụng hình sự.

Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc và ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội Trong số đó, bắt và tạm giữ là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, có thể xâm phạm quyền tự do của công dân nếu thực hiện sai Ngược lại, việc không bắt giữ tội phạm có thể dẫn đến những khó khăn trong điều tra và xử lý án, gây thiệt hại cho quyền lợi của người dân và giảm lòng tin của họ đối với Nhà nước.

Nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn bắt người và tạm giữ trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam mang ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Biện pháp ngăn chặn bắt người và tạm giữ trong tố tụng hình sự Thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hà Tĩnh” cho khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.

Tình hình nghiên cứu về đề tài

BPNC bắt người và tạm giữ là những biện pháp quan trọng trong việc xử lý kịp thời tội phạm Nhận thức rõ về vai trò của các biện pháp này, nhiều sách báo pháp lý trong nước đã tiến hành nghiên cứu và xây dựng các BPNC, với nhiều bài viết được đăng tải trên các tạp chí như Tạp chí Toà án nhân dân và Tạp chí Dân chủ và pháp luật Ngoài ra, nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, cao đẳng và trường nghề cũng đã đề cập đến các BPNC này, đồng thời chúng còn là đối tượng nghiên cứu trong các tài liệu chuyên khảo như “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”.

Bài khoá luận tốt nghiệp đại học này lần đầu tiên nghiên cứu về vấn đề BPNC bắt người và tạm giữ trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam Tác giả nhận thức rằng phần nghiên cứu còn nhiều thiếu sót và rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy cô và bạn bè Hy vọng rằng nghiên cứu này sẽ trở thành nguồn tư liệu hữu ích cho sinh viên muốn tìm hiểu sâu về chủ đề này.

Mục tiêu, nhiệm vụ khoa học

Bài viết nghiên cứu lý luận và thực tiễn về biện pháp ngăn chặn (BPNC) bắt và tạm giữ trong tố tụng hình sự (TTHS) tại Việt Nam, đặc biệt là tại tỉnh Hà Tĩnh Nghiên cứu sẽ phân tích các quy định pháp luật liên quan đến BPNC bắt và tạm giữ, đồng thời đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp này trên địa bàn tỉnh Qua đó, bài viết sẽ chỉ ra nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc giữa quy định pháp luật và thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt người và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh.

Đề tài nghiên cứu nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về biện pháp ngăn chặn (BPNC) bắt và tạm giữ trong tố tụng hình sự (TTHS) Nghiên cứu này tập trung vào việc áp dụng quy định BPNC bắt người và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh, đồng thời khái quát thực tiễn áp dụng của quy định này trong địa bàn tỉnh.

Bài viết này tập trung vào việc đánh giá các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến BPNC (bắt và tạm giữ), đồng thời đề xuất một số phương hướng nhằm hoàn thiện các quy định này Ngoài ra, bài viết cũng nêu ra các biện pháp nâng cao tính hiệu quả trong việc áp dụng các quy định pháp luật, nhằm đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong quá trình thực thi.

Đối tượng, phương pháp nghiên cứu

Khoá luận tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 của các biện pháp ngăn chặn bắt và tạm giữ

Kế thừa và phát triển từ Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã điều chỉnh và loại bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả trong việc phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người vô tội Nghiên cứu trong khóa luận này tập trung vào thẩm quyền, đối tượng áp dụng, thời hạn và thủ tục liên quan đến các biện pháp ngăn chặn như bắt người và tạm giữ.

4.2 Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài, tác giả áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, so sánh để thấy được quy định khác nhau giữa BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003, phương pháp thống kê để đưa ra số liệu thực tế về tình hình bắt người và tạm giữ, tham khảo ý kiến của các cán bộ thực tiễn

Khóa luận này được xây dựng dựa trên lý thuyết của khoa học luật hình sự và luật tố tụng hình sự, đồng thời xem xét thực tiễn thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là các biện pháp ngăn chặn bắt và tạm giữ tại Việt Nam.

Ý nghĩa của đề tài

Đề tài nghiên cứu quy định pháp luật về BPNC bắt người và tạm giữ trong TTHS, nhằm tìm hiểu thực trạng áp dụng tại tỉnh Hà Tĩnh Qua đó, đề tài đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC tại địa phương Đây là lần đầu tác giả nghiên cứu một đề tài khoa học, giúp cải thiện kỹ năng nghiên cứu và bổ sung kiến thức về BPNC Khoá luận hy vọng sẽ trở thành tài liệu hữu ích cho sinh viên và độc giả quan tâm đến BPNC trong BLTTHS Việt Nam.

Kết cấu khoá luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khoá luận gồm 3 chương

Chương 1 Lý luận về BPNC bắt người và tạm giữ trong TTHS

Chương 2 Thực tiễn áp dụng BPNC bắt và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh Chương 3 Hoàn thiện quy định của pháp luật và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt và tạm giữ tại tỉnh Hà Tĩnh.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ TẠM GIỮ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Khái niệm, căn cứ, tính chất và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn

1.1.1 Khái niệm biện pháp ngăn chặn

Chế định BPNC là một chế định quan trọng của luật TTHS Trước đây, những biện pháp này được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như: Luật

103 – SL/005 ngày 20/05/1957 và Sắc luật 002 – SLt ngày 18/06/1957 và Sắc luật 02 – SL ngày 15/03/1976 bao gồm việc bắt, giam, tha, khám xét và được coi là những biện pháp cưỡng chế [15]

BLTTHS quy định các biện pháp cưỡng chế Nhà nước do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm mục đích tố tụng cụ thể Các biện pháp này được phân loại thành cưỡng chế để ngăn chặn, cưỡng chế để điều tra, thu thập chứng cứ, và cưỡng chế phục vụ cho việc giải quyết vụ án, bao gồm cả nhóm BPNC Những biện pháp này đóng vai trò quan trọng trong TTHS, ảnh hưởng trực tiếp đến thân thể và quyền con người, đồng thời hạn chế một số quyền nhân thân của công dân Do đó, BLTTHS đã dành riêng chương VI để quy định chi tiết về các biện pháp này.

Trong lĩnh vực pháp lý Việt Nam, khái niệm BPNC được hiểu theo nhiều cách khác nhau và có sự đa dạng trong các định nghĩa Theo từ điển nghiệp vụ phổ thông, BPNC được giải thích cụ thể nhằm làm rõ nội dung và ứng dụng của nó trong thực tiễn.

Ngăn chặn trong đấu tranh phòng chống tội phạm là biện pháp chủ động nhằm đối phó kịp thời, không cho các thế lực phản cách mạng và tội phạm khác thực hiện âm mưu của chúng.

Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa BPNC là biện pháp cưỡng chế áp dụng cho bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc những người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang Mục đích của BPNC là ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội, phòng ngừa tái phạm, trốn tránh pháp luật và cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.

Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa BPNC là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần bắt trong trường hợp khẩn cấp Mục đích của biện pháp này là kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, tránh gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cũng như ngăn ngừa khả năng tiếp tục phạm tội hoặc trốn tránh pháp luật.

Cuốn “Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự” lại giải thích rằng

BPNC là các biện pháp được áp dụng bởi cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án nhằm ngăn chặn người bị tình nghi phạm tội gây khó khăn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án Các biện pháp này bao gồm bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.

BPNC là biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được áp dụng bởi cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố Mục đích của BPNC là ngăn chặn tội phạm, hạn chế việc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, cũng như ngăn ngừa hành vi phạm tội tiếp theo Các hình thức BPNC bao gồm bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.

1.1.2 Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn

Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn (BPNC) phải tuân theo các quy định pháp luật Căn cứ để áp dụng BPNC bao gồm các cơ sở pháp lý được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), cho phép người có thẩm quyền thực hiện lần đầu đối với bị can, bị cáo, người bị kết án, và trong một số trường hợp, đối với người chưa bị khởi tố.

Theo Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn (BPNC) bao gồm: Thứ nhất, cần kịp thời ngăn chặn tội phạm để không cho tội phạm đang chuẩn bị xảy ra hoặc đang thực hiện tiếp tục diễn ra Thứ hai, có căn cứ cho thấy bị can, bị cáo có thể gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố và xét xử Thứ ba, có bằng chứng chứng minh bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội Thứ tư, nhằm đảm bảo thi hành án, thực hiện các bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Các căn cứ pháp lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) cho phép người có thẩm quyền áp dụng lần đầu tiên đối với bị can, bị cáo, người bị kết án, và trong một số trường hợp, cả đối với người chưa bị khởi tố bị can Những căn cứ này phản ánh bản chất của các biện pháp ngăn chặn (BPNC) trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

1.1.3 Tính chất và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn

Biện pháp ngăn chặn (BPNC) trong tố tụng hình sự (TTHS) là những công cụ cưỡng chế nghiêm khắc, nhưng không mang tính chất trừng phạt Chúng hỗ trợ việc thực hiện trách nhiệm hình sự, ngăn chặn tội phạm và đảm bảo hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm Việc áp dụng BPNC cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời duy trì tính dân chủ trong quá trình tố tụng.

Bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn (BPNC) là tạm thời hạn chế quyền tự do cá nhân của những người bị nghi ngờ phạm tội Theo nguyên tắc pháp luật, "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực," việc áp dụng BPNC nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự Điều này giúp hạn chế tối đa các hành vi của người bị nghi ngờ, từ đó bảo đảm lợi ích của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của công dân.

Biện pháp ngăn chặn bắt người trong TTHS

1.2.1 Cơ sở pháp lý biện pháp ngăn chặn bắt người

Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn hành chính (BPNC) có tính cưỡng chế nghiêm ngặt, do đó việc thực hiện phải tuân thủ đầy đủ các căn cứ, trình tự và thủ tục theo quy định của pháp luật Hành động bắt người thường được xem là bước khởi đầu cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tiếp theo và diễn ra ngay trước khi áp dụng các biện pháp tạm giữ.

Bắt người là biện pháp ngăn chặn tội phạm được quy định trong luật Tố tụng hình sự, áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc những người chưa bị khởi tố, cũng như những người đang thực hiện hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã Biện pháp này nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Bắt hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là biện pháp trừng phạt mà còn là biện pháp ngăn chặn trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) Việc bắt đúng người và kịp thời giúp ngăn chặn các âm mưu và thủ đoạn của tội phạm, đồng thời ngăn cản họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc xác định sự thật Trong nghĩa hẹp, việc bắt giữ cá nhân là sự hạn chế một số quyền tự do, đánh dấu điểm khởi đầu của hình phạt pháp luật nếu người đó phạm tội, với thời gian tạm giữ và tạm giam được tính vào thời gian thi hành án.

Bắt người không theo quy định pháp luật, như bắt nhầm hoặc oan sai, gây ra tác hại nghiêm trọng, vi phạm các quy định pháp lý và xâm phạm quyền bất khả xâm phạm của con người, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của công dân được pháp luật bảo vệ.

Để ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và bảo vệ xã hội, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định ba trường hợp bắt giữ đối tượng Điều này nhằm đảm bảo rằng các đối tượng không gây cản trở cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, đồng thời đảm bảo sự tham gia của họ trong các hoạt động tố tụng.

- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp

- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã

Ba trường hợp nêu trên là quy định chung để xác định căn cứ áp dụng của cơ quan có thẩm quyền Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, các quy định liên quan đến người chưa thành niên và người phạm tội là người nước ngoài cần phải được xem xét kỹ lưỡng Việc áp dụng biện pháp bắt cũng phải tuân thủ các nguyên tắc chung và các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

1.2.2 Các trường hợp bắt người

* Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

Biện pháp tạm giam bị can, bị cáo là cần thiết để phát hiện và đấu tranh chống tội phạm một cách khách quan và chính xác, đồng thời đảm bảo việc đưa vụ án ra xét xử kịp thời.

Bắt bị can và bị cáo để tạm giam là biện pháp cần thiết trong việc giải quyết vụ án hình sự Các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp này như một công cụ hiệu quả nhằm phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, từ đó góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một quy định quan trọng trong luật TTHS nhằm đảm bảo xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội Mục tiêu của biện pháp này là không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội Các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được phép áp dụng biện pháp này để đảm bảo tính chính xác và kịp thời trong quá trình điều tra và xử lý vụ án.

Mặc dù Điều 80 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đã quy định rõ ràng về việc bắt bị can và bị cáo để tạm giam, nhưng lại không cung cấp định nghĩa cụ thể cho khái niệm này Điều này dẫn đến sự xuất hiện của nhiều quan điểm khác nhau xung quanh biện pháp tạm giam.

Bắt người để tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo theo lệnh của các cơ quan có thẩm quyền như Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân, và các thẩm phán cấp tỉnh hoặc quân khu.

Theo giáo trình luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội tiếp theo và tạo điều kiện cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Mục đích của việc bắt bị can và bị cáo để tạm giam là nhằm ngăn ngừa tội phạm và đảm bảo quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án diễn ra thuận lợi Đối tượng áp dụng biện pháp này bao gồm các bị can và bị cáo trong quá trình tố tụng hình sự.

Theo Điều 80 của Bộ luật Tố tụng hình sự, việc bắt bị can và bị cáo để tạm giam được thực hiện đối với những người đã bị khởi tố hình sự hoặc đã bị Toà án đưa ra xét xử Mục đích của việc tạm giam này là phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Như vậy, đối tượng của việc bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo

Bị can, bị cáo được định nghĩa tại Điều 49 và Điều 50 BLTTHS:

- Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự

- Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử

Những người chưa bị khởi tố hình sự hoặc không bị Toà án xét xử không thuộc đối tượng bị tạm giam theo Điều 80 BLTTHS Nếu họ có hành vi phạm tội, chỉ có thể bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc quả tang, không phải là bắt bị can hay bị cáo để tạm giam.

Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong TTHS

1.3.1 Khái niệm và đối tượng áp dụng BPNC tạm giữ

Trong TTHS, các cơ quan có thẩm quyền được phép áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu thập chứng cứ phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội Các biện pháp này bao gồm khám xét người, đồ vật, và chỗ ở, cũng như kê biên tài sản và tạm giữ đồ vật, tài liệu Tạm giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, được áp dụng bởi cơ quan và người có thẩm quyền đối với những người bị bắt trong các trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, hoặc người đang bị truy nã Mục đích của tạm giữ là ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện cho việc xử lý tội phạm một cách chính xác và kịp thời Điều 86 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định rõ về đối tượng, căn cứ và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ, trong đó nhấn mạnh rằng đây là quyết định tạm thời hạn chế tự do của người bị bắt trong thời gian ngắn.

Mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giữ (BPNC) là để ngăn chặn hành vi phạm tội và bảo đảm việc điều tra tội phạm được tiến hành hiệu quả Điều này giúp cơ quan chức năng có thời gian để xác định tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của người thực hiện Từ đó, họ có thể quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc áp dụng các quyết định pháp lý khác như tạm giam hoặc trả tự do cho người bị bắt Đối tượng bị tạm giữ thường là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp bắt giữ đều yêu cầu tạm giữ; nếu hành vi phạm tội nhẹ và người phạm tội có nơi cư trú rõ ràng, có thể không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giữ.

1.3.2 Trường hợp áp dụng BPNC tạm giữ

Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã” Như vậy, việc tạm giữ có thể áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang quy định tại các Điều 81và Điều 82 của BLTTHS Tức là các điều luật quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã cũng như đối với người phạm tội tự thú hoặc đầu thú Biện pháp tạm giữ “có thể” được áp dụng với các đối tượng bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã, người đầu thú, tự thú chứ không bắt buộc, nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ Khoản 1 Điều 83 quy định: “Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt” Như vậy, biện pháp tạm giữ là một BPNC độc lập, việc áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là BPNC bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người

Mục đích của việc tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc khi phạm tội quả tang, cũng như người tự thú, là để tạo điều kiện xác minh thêm hành vi phạm tội Việc này giúp làm rõ căn cứ cho việc khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với những người liên quan.

Sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội có thể không bị tạm giữ nếu các cơ quan có thẩm quyền xác định việc bắt giữ là không có căn cứ Điều này cũng áp dụng ngay sau khi có người ra đầu thú và các cơ quan đã đủ căn cứ để khởi tố vụ án hoặc khởi tố bị can Trong trường hợp này, họ có thể ra quyết định khởi tố mà không cần tạm giữ Ngoài ra, nếu đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố nhưng không cần thiết phải tạm giam, cơ quan có thẩm quyền có thể cho bị can tại ngoại mà không cần tạm giam.

Nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang, cơ quan có thẩm quyền đã gửi lệnh bắt cho Viện Kiểm sát (VKS) nhưng VKS không phê chuẩn, thì không được ra quyết định tạm giữ người bị bắt Một vấn đề quan trọng là khi một người bị truy nã bị bắt ở xa cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền, trong thời gian chờ cơ quan này đến nhận, cơ quan đã bắt có quyền ra quyết định tạm giữ hay tạm giam hay không Theo nguyên tắc, không ai có thể bị bắt, giữ mà không có quyết định từ cơ quan có thẩm quyền.

Theo quy định tại Điều 64 và Điều 65 BLTTHS 1988, khi cơ quan công an, VKS hoặc UBND bắt được người bị truy nã, họ phải lập biên bản và chuyển ngay người bị bắt đến CQĐT có thẩm quyền Sau khi lấy lời khai, CQĐT cần thông báo cho cơ quan đã ra quyết định truy nã và chuyển người đó đến trại tạm giam gần nhất Nếu trước khi hết thời hạn tạm giữ (tối đa 9 ngày) mà trại tạm giam chưa nhận được quyết định tạm giam từ VKS hoặc Tòa án, họ phải thông báo cho CQĐT nơi bắt người bị truy nã CQĐT này có trách nhiệm yêu cầu CQĐT đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt hoặc tự mình áp giải người đó đến CQĐT đã ra quyết định truy nã.

Theo Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7-01-1995, việc tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị bắt truy nã, bao gồm bị can, bị cáo và người thi hành án trốn tránh Điều này có nghĩa là biện pháp tạm giữ không chỉ giới hạn ở những trường hợp khẩn cấp hay phạm tội quả tang, mà còn áp dụng cho những người bị bắt theo lệnh truy nã Mục đích của biện pháp tạm giữ là tạo thời gian cho cơ quan có thẩm quyền nhận lại người bị bắt theo lệnh truy nã Việc tạm giữ trong trường hợp này là cần thiết và đã được bổ sung vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định: “Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ” Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm những nhóm người sau đây:

- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;

- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng;

- Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển

Những người có quyền quyết định tạm giữ không chỉ là đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng, mà còn bao gồm cả những cá nhân từ các cơ quan nhà nước khác và lực lượng vũ trang.

BLTTHS quy định rằng việc tạm giữ người cần có quyết định từ những người có thẩm quyền và không yêu cầu sự phê chuẩn của VKS trước khi thực hiện Trong vòng 24 giờ, quyết định này phải được gửi đến VKS cùng cấp Quyết định tạm giữ phải nêu rõ lý do, ngày hết hạn tạm giữ, và một bản sao phải được giao cho người bị tạm giữ.

Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ đã phát sinh thêm một số đối tượng cần được xem xét, bao gồm những người đang bị truy nã khi bị bắt, cùng với những người phạm tội tự thú hoặc đầu thú Điều này dẫn đến việc cần có thêm một chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, cụ thể là Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.

Theo Điều 87 BLTTHS, thời hạn tạm giữ không quá ba ngày đêm kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt Trong trường hợp cần thiết, có thể gia hạn tạm giữ thêm ba ngày, và trong trường hợp đặc biệt, gia hạn lần thứ hai cũng không quá ba ngày Mọi gia hạn tạm giữ đều phải được VKS phê chuẩn Nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can, người bị tạm giữ phải được trả tự do ngay Thời gian tạm giữ sẽ được tính vào thời hạn tạm giam, và không có quy định khác về thời hạn tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội.

Thời hạn tạm giữ bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định và được tính vào thời gian tạm giam, với mỗi ngày tạm giữ tương đương một ngày tạm giam Quy định này thể hiện tính nhân đạo và tư tưởng “một ngày tự nghìn thu ở ngoài” Theo Điều 33 Bộ luật Hình sự, thời gian tạm giữ và tạm giam sẽ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, đảm bảo công bằng cho người bị tạm giữ.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ TẠM GIỮ TẠI TỈNH HÀ TĨNH

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT, TẠM GIỮ TẠI TỈNH HÀ TĨNH

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
2. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
3. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (năm 2009) - NXB Lao động - Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (năm 2009)
Nhà XB: NXB Lao động - Xã hội
4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (năm 2010) - NXB Lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (năm 2010)
Nhà XB: NXB Lao động
5. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành (năm 2009), NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
7. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 03/2004/NQ- HĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất chung “Những quy định chung” của BLTTHS năm 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những quy định chung
10. Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông (1986), NXB Pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông
Tác giả: Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông
Nhà XB: NXB Pháp lý
Năm: 1986
11. Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Luật học
Tác giả: Từ điển Luật học
Nhà XB: NXB Từ điển Bách khoa
Năm: 1999
12. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (năm 2008) - NXB Công an Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Nhà XB: NXB Công an
14. Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (In lần thứ 3 sửa đổi, bổ sung), (năm 2009), GS.TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam
15. Khoa luật hình sự - Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Luật Tố Tụng hình sự (năm học 2008-2009) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập bài giảng Luật Tố Tụng hình sự
16. Khoa luật - Trường Đại học Vinh, Giáo trình đào tạo từ xa môn Luật tố tụng hình sự (năm 2011), Thạc sỹ: Mạc Giáng Châu và Nguyễn Thị Thanh Bình Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình đào tạo từ xa môn Luật tố tụng hình sự
17. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003 (năm 2009), NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
18. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.III- Các tài liệu khác Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1994
8. Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7/01/1995 của TANDTC-VKSNDTC- BNV-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố, xét xử Khác
9. Quyết định số 188/1999/QĐ-TTg ngày 17/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ Về thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ.II. Sách tham khảo Khác
13. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam Khác
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53 CT/TW ngày 24/3 của Bộ Chính trị, Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000 Khác
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị, Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới Khác
21. Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (năm 2004), Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Công an Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Căn cứ vào bảng thống kờ, cú thể thấy rằng năm 2008, với tổng số người bị bắt là 392, số người bị tạm giữ là 88 - Biện pháp ngăn chặn bắt người và tạm giữ trong tố tụng hình sự  thực tiễn áp dụng tại tỉnh hà tĩnh
n cứ vào bảng thống kờ, cú thể thấy rằng năm 2008, với tổng số người bị bắt là 392, số người bị tạm giữ là 88 (Trang 37)
Bảng 2.1: Bảng thống kờ số người bị bắt, tạm giữ trong cỏc năm từ 2008 – 2011  - Biện pháp ngăn chặn bắt người và tạm giữ trong tố tụng hình sự  thực tiễn áp dụng tại tỉnh hà tĩnh
Bảng 2.1 Bảng thống kờ số người bị bắt, tạm giữ trong cỏc năm từ 2008 – 2011 (Trang 37)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w