1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

168 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Việc Nam, Nữ Chung Sống Với Nhau Như Vợ Chồng Mà Không Đăng Ký Kết Hôn
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy
Người hướng dẫn ThS. Trần Thị Hương
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại Khóa Luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 168
Dung lượng 2,18 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI (11)
    • 1.1. Kết hôn và đăng ký kết hôn (11)
      • 1.1.1. Kết hôn (11)
      • 1.1.2. Đăng ký kết hôn (19)
    • 1.2. Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (21)
      • 1.2.1. Khái niệm nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (21)
      • 1.2.2. Thực tiễn và nguyên nhân của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (26)
    • 1.3. Sơ lược pháp luật điều chỉnh việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực (28)
      • 1.3.1. Thời kỳ phong kiến (28)
      • 1.3.2. Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ (29)
      • 1.3.3. Giai đoạn năm 1945 đến năm 1975 ở miền Nam (30)
      • 1.3.4. Giai đoạn Luật Hôn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực (31)
      • 1.3.5. Giai đoạn Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực (31)
      • 1.3.6. Giai đoạn Luật Hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực (32)
  • CHƯƠNG 2: GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NAM, NỮ (37)
    • 2.1. Các trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (37)
      • 2.1.1. Hành vi chung sống như vợ chồng không trái pháp luật (37)
      • 2.1.2. Hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật (39)
    • 2.2. Cách thức giải quyết việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (41)
      • 2.2.1. Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn chưa phát sinh tranh chấp, yêu cầu (42)
    • 2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử và kiến nghị hoàn thiện (52)
      • 2.3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử (52)
      • 2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật (61)
  • KẾT LUẬN (35)

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI

Kết hôn và đăng ký kết hôn

C Mác khẳng định rằng gia đình là một trong ba mối quan hệ quan trọng của con người trong lịch sử, với chức năng sinh con đẻ cái, gia đình không chỉ duy trì mà còn sản sinh ra các quan hệ xã hội khác Gia đình được coi là một xã hội thu nhỏ, nơi kết nối các cá thể thành một cộng đồng Nhận thức được vai trò của gia đình trong sự phát triển cá nhân và xã hội, Đảng và Nhà nước đã đưa ra các chủ trương, chính sách nhằm xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển chung Những chính sách này được thể hiện qua các nguyên tắc cơ bản trong hệ thống văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình, góp phần điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực này, trong đó kết hôn được xem là sự kiện pháp lý cơ bản và quan trọng để hình thành gia đình.

Khái niệm kết hôn có thể khác nhau tùy thuộc vào nhận thức và góc độ tiếp cận Theo từ điển tiếng Việt, kết hôn được định nghĩa là việc nam, nữ chính thức trở thành vợ chồng Trong văn hóa Việt Nam, khi hai bên tổ chức lễ cưới theo nghi thức truyền thống, họ được coi là chính thức kết hôn Trong đời sống hàng ngày, người Việt thường dùng cụm từ “lấy vợ” hoặc “lấy chồng” để diễn tả việc kết hôn Như vậy, từ góc độ xã hội, kết hôn được xem là hình thức xác lập quan hệ vợ chồng.

Theo từ điển Luật học, kết hôn là sự liên kết giữa nam và nữ thành vợ chồng, được pháp luật công nhận Liên kết này không chỉ được điều chỉnh bởi các quy ước xã hội mà còn bởi các quy định pháp luật Do đó, từ góc độ pháp lý, kết hôn được xem là một sự kiện pháp lý được Nhà nước ghi nhận thông qua một nghi thức cụ thể.

1 Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, NXB Tp Hồ Chí Minh, tr 431

2 Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 152

Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, kết hôn được định nghĩa là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng, phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo Điều 8 của Luật HN và GĐ 2014 Để được pháp luật công nhận, việc kết hôn cần được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng trình tự và thủ tục quy định.

Tuân thủ các điều kiện kết hôn là yếu tố quan trọng để xác lập giá trị pháp lý cho mối quan hệ hôn nhân hợp pháp Do đó, cả nam và nữ khi kết hôn cần phải đáp ứng các yêu cầu nhất định để đảm bảo tính hợp pháp của mối quan hệ này.

* Điều kiện về độ tuổi: nam, nữ phải đủ tuổi kết hôn Theo quy định của luật,

Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, nam từ đủ 20 tuổi và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới được phép kết hôn Quy định này nhằm đảm bảo an toàn cho mỗi cuộc hôn nhân, đồng thời hỗ trợ sự phát triển toàn diện về tinh thần và thể chất của các cá nhân Độ tuổi tối thiểu để kết hôn đã được kế thừa và phát triển từ các luật trước đó, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam Các quy định này được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học, xem xét các yếu tố phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa, xác định rằng độ tuổi 20 cho nam và 18 cho nữ là thời điểm thích hợp để thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong hôn nhân và gia đình.

Luật Hôn nhân và Gia đình (HN và GĐ) năm 2014 đã điều chỉnh độ tuổi kết hôn của nam và nữ, xác định "tuổi đủ" nhằm phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành Cụ thể, Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 quy định người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người từ đủ 18 tuổi, và Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 cũng xác định người từ đủ 18 tuổi trở lên có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự Quy định này tiếp tục được duy trì trong các bộ luật hiện hành, trong khi đó, Luật HN và GĐ 2000 cho phép nữ được kết hôn khi bước sang tuổi 18, dẫn đến một số trường hợp pháp lý cần được xem xét.

3 Khoản 5 Điều 3 Luật HN và GĐ 2014

4 Điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HN và GĐ 2014

Người chưa đủ năng lực hành vi dân sự có thể bày tỏ ý chí muốn kết hôn Tuy nhiên, nếu sau khi kết hôn, người vợ này lại muốn ly hôn, điều này cần được xem xét kỹ lưỡng trong bối cảnh pháp luật hiện hành.

Ở tuổi 18, một cá nhân vẫn được coi là đương sự trong vụ án ly hôn, điều này cho thấy sự không nhất quán trong quy định về độ tuổi giữa Luật Hôn nhân và Gia đình với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự Sự khác biệt này có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong các vụ ly hôn.

Điều kiện về ý chí trong hôn nhân nhấn mạnh rằng "việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định," tạo nền tảng cho một hôn nhân bền vững và hạnh phúc Sự tự nguyện này không chỉ giúp duy trì mối quan hệ tiến bộ mà còn củng cố vai trò của gia đình như một nền tảng của xã hội Để xây dựng "phần móng" gia đình vững chắc, nam và nữ cần được tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời mà không bị ảnh hưởng bởi ý chí của người khác.

Việc kết hôn tự nguyện giữa nam và nữ phải được thể hiện qua hành vi đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nơi các bên có trách nhiệm bày tỏ ý chí của mình Nếu một trong hai bên không thực sự tự nguyện mà bị ép buộc kết hôn, việc đăng ký sẽ bị coi là thiếu sự tự nguyện, và cơ quan hộ tịch có quyền từ chối đăng ký Nhà nước cấm các hình thức kết hôn giả tạo, tảo hôn, cưỡng ép, lừa dối và cản trở kết hôn, đồng thời có chế tài xử phạt cho những hành vi này Các quy định pháp luật về sự tự nguyện trong kết hôn cho thấy sự quan tâm của nhà nước đối với tầm quan trọng của hôn nhân tự nguyện, giúp đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình.

5 Điểm b khoản 1 Điều 8 Luật HN và GĐ 2014

Theo quy định pháp luật, để kết hôn, cả nam và nữ phải có đủ năng lực hành vi dân sự Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 xác định rằng người mất năng lực hành vi dân sự là những người do bệnh tâm thần hoặc bệnh khác không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình Việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự phải dựa trên yêu cầu của cá nhân hoặc tổ chức có quyền lợi liên quan, và cần có quyết định của Tòa án dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần.

Quy định về năng lực hành vi dân sự trong hôn nhân nhằm bảo vệ quyền tự do kết hôn và đảm bảo hạnh phúc gia đình Những người mắc bệnh tâm thần hoặc không thể nhận thức rõ ràng sẽ gặp khó khăn trong việc xác định ý chí và trách nhiệm khi tham gia vào mối quan hệ hôn nhân Do đó, họ cần có người đại diện trong các quan hệ dân sự, nhưng quyền kết hôn không thể được thực hiện thông qua đại diện Việc hạn chế quyền kết hôn đối với những người này không chỉ bảo vệ lợi ích của họ mà còn bảo vệ quyền lợi của những người liên quan Sự tham gia của người mất năng lực hành vi dân sự vào hôn nhân có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của các thành viên trong gia đình và thực hiện nghĩa vụ gia đình Ngoài ra, quy định này cũng giúp duy trì nòi giống, tránh ảnh hưởng từ các gen di truyền của những người mắc bệnh tâm thần.

Việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện về độ tuổi, nhận thức và ý chí tự nguyện, đồng thời không được rơi vào các trường hợp cấm kết hôn theo quy định của pháp luật Điều này nhằm đảm bảo rằng quan hệ hôn nhân được thiết lập một cách hợp pháp và đúng đắn.

6 Điểm c khoản 1 Điều 8 Luật HN và GĐ 2014

Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc kết hôn chỉ được thực hiện khi không thuộc các trường hợp cấm kết hôn được nêu tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của luật này.

9 hợp với đạo đức, văn hoá truyền thống của người Việt cũng như gìn giữ những mục đích xã hội tốt đẹp

- Thứ nhất là cấm kết hôn giả tạo:

Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đang trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện nay Mặc dù các cặp đôi này thường có mối quan hệ ổn định và lâu dài, với mục đích xây dựng cuộc sống gia đình và xem nhau như vợ chồng, nhưng họ lại không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Chung sống như vợ chồng là một khái niệm gây tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau Một số người cho rằng đây là cuộc sống thử nghiệm trước hôn nhân, phổ biến trong giới trẻ, nhưng quan điểm này không phản ánh đúng bản chất của việc chung sống lâu dài và ổn định Thực tế, chung sống như vợ chồng nghĩa là nam, nữ thiết lập mối quan hệ bền vững, gắn bó qua thời gian dài, đặc biệt là thông qua con cái và tài sản chung Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng chung sống như vợ chồng diễn ra khi hai người sống chung mà không cần tổ chức hôn lễ hay đăng ký kết hôn, nhưng vẫn được gia đình và cộng đồng công nhận.

16 tính thực tiễn cao, tuy nhiên vẫn chưa bao hàm đầy đủ nội dung, đặc điểm của việc chung sống như vợ chồng

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, định nghĩa "chung sống như vợ chồng" là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng (khoản 7 Điều 3).

HN và GĐ 2014) Từ khái niệm pháp lý nêu trên, việc nam, nữ chung sống như vợ chồng phải hội tụ đủ hai điều kiện:

Nam nữ cần phải tổ chức cuộc sống chung, một hành vi có tổ chức và công khai, được nhiều người biết đến Các bên tham gia mong muốn cùng nhau xây dựng một gia đình.

Việc nam nữ “coi nhau là vợ chồng” là một khái niệm phức tạp, thể hiện qua hành vi và tình cảm giữa hai người Tuy nhiên, không phải mọi mối quan hệ sống chung đều được xem là “chung sống như vợ chồng” nếu họ không coi nhau như vậy, mà chỉ đơn thuần là “người ở cùng” hoặc “bạn tình” Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật, đặc biệt khi một bên yêu cầu Tòa án giải quyết quan hệ tài sản mà bên kia không đồng ý Việc chứng minh hai bên có “coi nhau là vợ chồng” không hề đơn giản, phụ thuộc vào điều kiện sống và quan điểm cá nhân Do đó, cần làm rõ thuật ngữ này qua các văn bản pháp luật để đảm bảo việc hiểu và áp dụng chính xác hơn.

Tác giả nhận định rằng mối quan hệ giữa nam nữ "coi nhau như vợ chồng" thể hiện qua việc sống chung, dẫn đến những hệ quả tự nhiên của một gia đình, bao gồm sự ràng buộc về con cái và tài sản.

Phân tích và đánh giá các trường hợp chung sống như vợ chồng là cần thiết để hiểu rõ những hậu quả pháp lý phát sinh từ mối quan hệ này Việc xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp, đồng thời giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả Các trường hợp này thường gặp trong xã hội hiện đại, đòi hỏi sự chú ý từ pháp luật để đảm bảo công bằng và minh bạch trong các mối quan hệ gia đình.

Bài viết của Lê Thu Trang (2020) trên Tạp chí Nghề luật đề cập đến những vấn đề tranh chấp phát sinh trong trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn Tác giả phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan và đưa ra những bình luận sâu sắc về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ này Nội dung bài viết không chỉ làm rõ những khó khăn mà các cặp đôi gặp phải khi không có sự công nhận pháp lý mà còn gợi mở hướng giải quyết cho các tranh chấp có thể xảy ra.

17 chung Ngoài ra trong các mối liên hệ xã hội họ luôn tham gia với tư cách là một gia đình

Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn được hiểu là việc nam, nữ tự tổ chức cuộc sống chung và coi nhau như vợ chồng mà không tiến hành đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc này có một số đặc điểm nổi bật, bao gồm sự tự nguyện trong mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ giữa các bên không được pháp luật công nhận như trong hôn nhân chính thức, và khả năng phát sinh các vấn đề pháp lý liên quan đến tài sản và quyền lợi của các bên trong trường hợp xảy ra tranh chấp.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, nam nữ có đủ điều kiện kết hôn có thể chung sống như vợ chồng mà không cần đăng ký kết hôn Điều này yêu cầu các bên phải đáp ứng các điều kiện về độ tuổi, sự tự nguyện, nhận thức và không vi phạm các trường hợp cấm theo Điều 8 của luật Tuy nhiên, do một số lý do khách quan và chủ quan, các bên có thể không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền Điều này phân biệt rõ ràng với các trường hợp kết hôn trái pháp luật hoặc những mối quan hệ không đủ điều kiện để đăng ký kết hôn.

Theo khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc kết hôn giữa nam và nữ phải được đăng ký và thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền Nếu không có đăng ký, hôn nhân sẽ không có giá trị pháp lý, mặc dù các điều kiện kết hôn đã được tuân thủ Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa quan hệ hôn nhân hợp pháp được Nhà nước công nhận và mối quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký.

Mục đích của quan hệ chung sống như vợ chồng giữa nam nữ là xây dựng một mối quan hệ lâu dài và ổn định, điều này tạo nên sự khác biệt rõ rệt so với các hình thức quan hệ khác.

Hôn nhân thử nghiệm, hay còn gọi là tình trạng sống thử, đang ngày càng phổ biến trong giới trẻ hiện nay Trong mối quan hệ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, cả hai bên nam nữ thường có mong muốn xây dựng một cuộc sống gia đình thực sự Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, họ phải đối mặt với nhiều thách thức và vấn đề phát sinh.

Trong mối quan hệ vợ chồng, các quyền và nghĩa vụ của hai bên rất quan trọng, đặc biệt khi họ cùng nhau tạo dựng tài sản chung và có con Nếu duy trì đúng mục đích, việc sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có thể kéo dài lâu dài và ổn định Ngược lại, các cuộc "hôn nhân thử nghiệm" thường chỉ mang tính chất tạm thời, với mục đích thử nghiệm cuộc sống chung mà không có cam kết lâu dài Những mối quan hệ này thường bắt nguồn từ nhu cầu sinh lý hoặc kinh tế và quyết định có đăng ký kết hôn hay không phụ thuộc vào sự phù hợp trong thời gian sống chung Do đó, thời gian tồn tại của các mối quan hệ này thường ngắn và không có sự ràng buộc trách nhiệm, dẫn đến việc chúng không thuộc sự điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình, trong khi quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn vẫn nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật này.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không công nhận mối quan hệ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ được Nhà nước thừa nhận, gọi là "hôn nhân thực tế".

Sơ lược pháp luật điều chỉnh việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực

1.3.1 Thời kỳ phong kiến Đất nước ta dưới thời kỳ phong kiến, mọi tầng lớp nhân dân chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo nên hệ thống pháp luật Trung Quốc chi phối khá nhiều đến pháp luật của nhà nước quân chủ Việt Nam về cả nội dung lẫn hình thức Trong thời kỳ này, vai trò của người đàn ông được đề cao hơn người phụ nữ, việc kết hôn giữa nam, nữ nhằm mục đích duy trì nòi giống, nối tiếp thờ cúng tổ tiên, ông bà Hai bộ luật tiêu biểu nhất cho hệ thống pháp luật nước ta lúc bấy giờ là Quốc triều Hình luật thời Lê (hay còn gọi là Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ ban hành dưới thời Nguyễn (hay còn gọi là Luật Gia Long)

Nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Luật nhà Lê nhấn mạnh rằng hôn nhân không tự do, cho phép đa thê và xác lập chế độ gia trưởng Quyển "Hồng Đức Hôn giá lễ nghi" được vua Lê Thánh Tông giao cho các văn thần biên soạn vào năm đó đã phản ánh rõ ràng những quy định này.

Nghi thức kết hôn truyền thống năm 1843 bao gồm bốn lễ nghi quan trọng: lễ nghị hôn (dạm mặt), lễ định thân (đính hôn), lễ nạp chứng (hành sính) và lễ thân nghinh (nghinh hôn – đón dâu) Những lễ nghi này thể hiện rõ ràng quy trình và ý nghĩa trong việc kết nối hai gia đình.

Lễ nghi cưới nhấn mạnh tầm quan trọng của sự chứng kiến từ gia đình và cộng đồng trong việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ Những trường hợp sống chung như vợ chồng mà không thực hiện đúng nghi lễ sẽ không được công nhận là hôn nhân hợp pháp Hành vi sống chung không theo quy định pháp luật sẽ bị coi là trái pháp luật và phải chịu các hình phạt nhất định Theo Luật Hồng Đức, nếu vợ cả hoặc vợ lẻ có quan hệ tình dục với người khác không phải là chồng hợp pháp, họ có thể bị phạt tù hoặc tử hình, và tài sản của họ sẽ bị tịch thu.

26 https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_H%E1%BB%93ng%C4%90%E1%BB%A9c, 06/5/2021

Theo Luật Gia Long, Điều 322 quy định hình phạt đối với người vợ thông gian và người gian phu là 100 trượng Người chồng có quyền tự ý gả bán vợ cho người khác Nếu sự thông gian dẫn đến việc có con, đứa trẻ sẽ được xác định là con của hai người thông gian, và người gian phu phải chịu trách nhiệm nuôi dưỡng đứa trẻ nếu bị phát hiện, hoặc người vợ sẽ nuôi dưỡng nếu lỗi của cô được chứng minh.

Dưới thời kỳ phong kiến, nghi lễ cưới hỏi đóng vai trò quan trọng trong việc xác nhận mối quan hệ hôn nhân giữa các cặp đôi Thời điểm này không yêu cầu thực hiện thủ tục pháp lý như đăng ký kết hôn, do đó, các quy định về việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký không được đề cập Hôn nhân hợp pháp được công nhận thông qua việc tuân thủ các nghi thức truyền thống thay vì dựa vào việc đăng ký kết hôn theo luật pháp hiện hành.

1.3.2 Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ

Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, Việt Nam đã tiếp nhận các bộ luật mới chịu ảnh hưởng từ Dân luật Pháp Bộ Dân luật giản yếu ra đời vào năm 1883, áp dụng tại Nam Kỳ, quy định việc cử hành hôn lễ theo tục lệ là giá trị của giá thú Sau đó, hai bộ Dân luật Bắc Kỳ (1931) và Dân luật Trung Kỳ (1936-1938) ra đời, mang tính chất bảo hộ và nửa bảo hộ, đã vay mượn kỹ thuật pháp lý phương Tây liên quan đến hôn nhân và gia đình Các bộ luật này đã đưa nghi thức kết hôn dân sự vào xã hội Việt Nam, yêu cầu việc kết hôn phải được khai báo với Hộ, đánh dấu bước tiến mới trong quy định về nghi thức kết hôn Cụ thể, Điều 91 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định rằng hôn nhân chỉ được công nhận sau khi đăng ký với hương hộ và nhận chứng thư giá thú, mặc dù một số trường hợp không được công nhận vẫn được đề cập trong các điều khoản khác.

Theo Điều 83 của Bộ Dân luật Bắc kỳ, nếu một người phụ nữ đã có giá thú chính thức với một người khác mà chưa được ly hôn, hoặc nếu một người đàn ông đã có vợ chính thức mà vẫn kết hôn với người vợ chính khác, thì trong cả hai trường hợp này, các quyền và nghĩa vụ về nhân thân cũng như tài sản sẽ không được công nhận.

Pháp luật về hôn nhân và gia đình trong thời kỳ này bị ảnh hưởng bởi sự chia cắt, dẫn đến việc mỗi vùng miền áp dụng các bộ luật khác nhau cho cùng một vấn đề, gây ra sự không đồng nhất trong cách giải quyết Mặc dù chưa có quy định cụ thể về việc nam, nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trong cả ba bộ Dân luật, nhưng đã xuất hiện khái niệm như “bằng chứng giá thú” và “chứng thư giá thú” để công nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp Những khái niệm này tương tự như “GCNKH” theo pháp luật hiện hành, cho thấy sự tiến bộ trong tư duy pháp lý so với thời kỳ phong kiến, khi mà việc công nhận hôn nhân hợp pháp được thực hiện thông qua thủ tục pháp lý thay vì chỉ dựa vào nghi thức truyền thống.

1.3.3 Giai đoạn năm 1945 đến năm 1975 ở miền Nam

Pháp luật về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946, tuy nhiên, do hệ thống Nhà nước còn non trẻ, việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh là chưa khả thi Do đó, pháp luật về hôn nhân và gia đình trong giai đoạn 1945-1954 chủ yếu dựa trên Hiến pháp 1946, đồng thời áp dụng một cách chọn lọc các quy định và chế định có sẵn.

Trong thời kỳ trước năm 1954, giá trị pháp lý của hôn nhân giữa nam và nữ được xác định dựa trên nghi thức kết hôn dân sự Từ năm 1954 đến 1975, đất nước bị chia cắt thành hai miền Bắc - Nam, dẫn đến sự tồn tại song song của hai hệ thống pháp luật khác nhau Ở miền Bắc, hôn nhân và gia đình được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, trong khi miền Nam áp dụng Sắc luật số 15/64 và Bộ Dân luật để quản lý các quan hệ hôn nhân và gia đình.

Vào năm 1972, quy định về hôn nhân ở miền Nam Việt Nam phản ánh sự giao thoa giữa truyền thống và ảnh hưởng phương Tây, với chế độ hôn nhân đơn hôn cho phép kết hôn chỉ khi hôn nhân trước đó không còn hiệu lực Theo ba văn bản pháp luật của chính quyền Sài Gòn, để hôn nhân được công nhận hợp pháp, các bên phải khai báo với viên chức hộ tịch và ghi vào Sổ kết hôn Mặc dù chưa có quy định rõ ràng về việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, nhưng thực trạng này đã tồn tại và đặt ra nhiều vấn đề pháp lý cần được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn.

1.3.4 Giai đoạn Luật Hôn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực

Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 không công nhận quan hệ vợ chồng giữa nam, nữ sống chung mà không đăng ký kết hôn Theo Điều 11, việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở xác nhận và ghi vào sổ kết hôn, mọi hình thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nước và ảnh hưởng của phong kiến, việc đăng ký kết hôn gặp nhiều khó khăn Để bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ hôn nhân, pháp luật thời kỳ này đã gián tiếp thừa nhận hôn nhân thực tế Thông tư liên tịch số 112/NCPL ngày 19/8/1972 quy định rằng chỉ coi là hôn nhân thực tế nếu hai bên đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng chưa thực hiện thủ tục đăng ký Đây là quy định quan trọng giúp giải quyết vấn đề pháp lý cho những cặp đôi sống chung mà không đăng ký kết hôn.

1.3.5 Giai đoạn Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực

Ngày 29/12/1986, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình mới, thay thế cho Luật Hôn nhân và Gia đình 1959, không công nhận việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 quy định rằng chỉ những cuộc hôn nhân được ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức mới có giá trị pháp lý, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ hôn nhân Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử khó khăn, "hôn nhân thực tế" vẫn được thừa nhận cho những cặp đôi đủ điều kiện kết hôn mà không đăng ký, nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em Nghị quyết số 01/NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

27 Điều 8 Luật HN và GĐ 1986

Mặc dù có nhiều trường hợp kết hôn không đăng ký, nhưng những cuộc hôn nhân này không bị coi là vi phạm pháp luật Việc không tuân thủ thủ tục đăng ký kết hôn có thể bị xem là sai sót, nhưng không làm cho hôn nhân trở thành trái pháp luật theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NAM, NỮ

Ngày đăng: 26/04/2022, 23:18

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w