Tính cấp thiết của đề tài
Kết hôn là việc nam nữ thiết lập mối quan hệ vợ chồng theo quy định pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn Theo khoản 1 điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc kết hôn phải được đăng ký và thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật và pháp luật về hộ tịch.
Bằng chứng kết hôn được xác nhận khi các bên thực hiện thủ tục và nhận Giấy chứng nhận kết hôn từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Giấy chứng nhận kết hôn, mặc dù nhỏ bé, nhưng mang giá trị pháp lý quan trọng, đánh dấu thời điểm mà Nhà nước chính thức công nhận hai bên là vợ chồng Từ thời điểm này, quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình được xác lập, bao gồm các mối quan hệ về nuôi dưỡng, tài sản, thừa kế và những vấn đề khác nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ.
Theo Khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nam nữ đủ điều kiện kết hôn mà sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ.
Việc nam nữ chung sống như vợ chồng đã tạo ra nhiều hiệu ứng tiêu cực đối với đời sống hôn nhân và gia đình (HN&GĐ), trong khi Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định rõ về việc giải quyết hậu quả của tình trạng này, dẫn đến tranh chấp phức tạp Hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và nam giới nước ngoài, đặc biệt là từ Hàn Quốc và Đài Loan, thường mang tính chất kinh tế và có nguy cơ liên quan đến môi giới trái phép Hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp vẫn diễn ra, vi phạm thuần phong mỹ tục và xúc phạm danh dự phụ nữ Việt Nam, gây bức xúc trong xã hội Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại trong thực thi pháp luật về hôn nhân, nhưng cần có giải pháp để ổn định quan hệ HN&GĐ và thúc đẩy phát triển xã hội Những vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về kết hôn.
Bài viết "Luật HN&GĐ - Vấn đề lý luận và thực tiễn" tập trung nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về chế định kết hôn Mục tiêu là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về kết hôn trong bối cảnh hiện nay.
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Kể từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến chế định kết hôn Các nhà khoa học đã thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này qua nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong nghiên cứu và áp dụng pháp luật Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu hiện có chỉ dừng lại ở việc phân tích và truyền đạt các quy định pháp luật hoặc chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhất định của chế định kết hôn, mà chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định kết hôn;
- Chỉ ra những điểm bất cập trong pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về kết hôn;
- Đánh giá hiệu quả điều chỉnh của chế định kết hôn đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay;
- Đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện chế định kết hôn, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với chế định kết hôn;
Phương pháp nghiên cứu
Trong báo cáo, các phương pháp chính được áp dụng bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, lịch sử, hệ thống và so sánh Những phương pháp này giúp làm rõ nội dung và cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề được nghiên cứu.
Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận án có kết cấu gồm có :
Chương 1: Giới thiệu khái quát về Phường Duy Tân
Chương 2: Nghiên cứu cơ sở lý luận trong việc xác đinh điều kiện kết hôn hôn ở phường Duy Tân – TP Kon Tum
THIỆU KHÁI QUÁT VỀ PHƯỜNG DUY TÂN
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Phường Duy Tân, được thành lập vào năm 1998, cách thành phố Kon Tum khoảng 3km về phía Bắc, có diện tích tự nhiên 550,1 ha và dân số lên tới 13.860 người, với mật độ dân số 5,5 người/km2 Đơn vị hành chính của phường gồm 10 tổ dân phố.
- Phía Đông giáp: Phường Trường Chinh
- Phía Tây giáp: Phường Ngô Mây, Quang Trung
- Phía Nam giáp: Phường Quang Trung
Khu vực phía Bắc giáp với xã Đăk Cấm và Ngô Mây, sở hữu điều kiện giao thông thuận lợi với 44 tuyến đường và 37 hẻm Trên địa bàn có 5 cơ sở giáo dục từ mẫu giáo đến trung cấp dạy nghề, cùng với 1 cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo và 1 điểm nhóm sinh hoạt đạo Tin Lành.
Là 1 phường trọng điểm về công tác qui hoạch chỉnh trang đô thị của Thành phố, Trên địa bàn phường có 2 dự án đã và đang triễn khai thực hiện
Phường có nhiều trục đường lớn và hàng chục trục đường nhỏ, chủ yếu được xây dựng bằng nhựa bê tông hóa theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" Mặc dù còn nhiều đường hẻm nối liền các khu dân cư, giao thông tại phường nhìn chung khá thuận lợi, phục vụ tốt cho việc đi lại, sản xuất kinh doanh và buôn bán của người dân Toàn phường được chia thành 10 tổ dân phố với tổng số 3.620 hộ, trong đó có 98 hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong lĩnh vực kinh tế, quy mô phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ năm sau luôn cao hơn năm trước, với tỷ lệ chăn nuôi chiếm 3% và bình quân đầu người đạt 21,7 triệu đồng/năm Sự phát triển kinh tế đã cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, với 100% hộ gia đình được sử dụng nước sạch, không còn hộ đói và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,52%.
Nhờ sự chỉ đạo của Đảng ủy và chính quyền địa phương, phường đã thành công trong công tác xã hội hóa giáo dục, huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất cho trường lớp và quỹ khuyến học Sự kết hợp giữa ba môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội đã giúp nâng cao chất lượng giáo dục Tỷ lệ học sinh lên lớp đạt 99%, 100% học sinh tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở, hàng năm có từ 80 đến 90 em thi đậu vào các trường Đại học và Cao đẳng.
Năm 2005, phường Duy Tân đã được công nhận về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở đúng Chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được chú trọng, với mạng lưới trạm y tế phường và 10/10 tổ dân phố được trang bị đầy đủ thiết bị y tế Đội ngũ y tế luôn tích cực tuyên truyền về vệ sinh phòng bệnh và triển khai các chương trình y tế, giúp không có dịch bệnh xảy ra và tỷ lệ sinh con thứ ba giảm từ 81% xuống còn 0,3% Chính sách hậu phương quân đội và đền ơn đáp nghĩa cho người có công, thương binh, gia đình liệt sĩ được thực hiện tốt, với sự đóng góp tự nguyện của người dân gần 50 triệu đồng mỗi năm để xây dựng 05 căn nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể thường xuyên tổ chức thăm hỏi, động viên và tặng quà cho các đối tượng chính sách, xã hội, người già neo đơn, người tàn tật và trẻ em mồ côi trong các dịp lễ, Tết.
Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng tại phường, lực lượng công an hàng tháng phối hợp với tổ trưởng tổ dân phố để tăng cường tuyên truyền và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng Công an, phường đội và bảo vệ dân phố luôn thực hiện tốt nhiệm vụ tuần tra và canh gác, góp phần đảm bảo an ninh trật tự.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” do Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động đã thu hút 100% hộ gia đình tham gia, với 2.629 hộ được công nhận Gia đình văn hóa liên tiếp trong 3 năm và 10/10 tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa Việc thực hiện quy chế dân chủ được nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo động lực cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng tại cơ sở, đồng thời góp phần đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu Hoạt động hòa giải và việc xây dựng hương ước, quy ước tại các tổ dân phố được chú trọng, với nội dung phù hợp thực tế như khuyến khích con em học tập, chấp hành chính sách dân số và không sinh con thứ ba, không tảo hôn và kết hôn trái pháp luật.
* Về lĩnh vực triển khai công tác tuyên truyền pháp luật liên quan đến đăng ký kết hôn, thủ tục hành chính trong đăng ký kết hôn
Công tác phổ biến và tuyên truyền pháp luật tại phường Duy Tân luôn nhận được sự quan tâm từ Đảng ủy, chính quyền và mặt trận.
Hằng năm, dựa trên hướng dẫn của Sở Tư pháp Tỉnh Kon Tum, phòng Tư pháp Thành phố và Ban tư pháp phường Duy Tân phối hợp với Ủy ban nhân dân để triển khai kế hoạch phổ biến tuyên truyền pháp luật Để tổ chức công tác này hiệu quả, phường Duy Tân chú trọng vào một số vấn đề quan trọng.
Cần nhấn mạnh vai trò trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền đoàn thể và các cán bộ tổ dân phố trong công tác tuyên truyền pháp luật Đây là nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị, với ban Tư pháp và cán bộ Tư pháp hộ tịch đóng vai trò tham mưu quan trọng.
Chủ tịch ủy ban nhân dân sẽ đảm nhiệm vai trò trưởng ban trong việc kiện toàn ban tư pháp, nhấn mạnh trách nhiệm của tất cả các thành viên, đặc biệt là cán bộ chuyên trách Tư pháp hộ tịch.
Bố trí kinh phí hợp lý phù hợp với khả năng kinh phí của phường để triển khai có kết quả công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật
Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức hòa giải là rất quan trọng Cần chú trọng đến công tác tập huấn kỹ thuật tuyên truyền pháp luật cho các hòa giải viên và tuyên truyền viên pháp luật Bên cạnh đó, việc xây dựng và tổ chức khai thác hiệu quả tủ sách pháp luật tại phường cũng cần được thực hiện để nâng cao nhận thức cộng đồng về pháp luật.
Khi có văn bản pháp luật mới hoặc các văn bản liên quan đến quyền lợi hợp pháp của người dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân phường chỉ đạo cán bộ tư pháp hộ tịch tổ chức hội nghị quán triệt cho cán bộ quân dân chính và các đoàn thể Sau hội nghị, cán bộ được phân công phối hợp với cấp ủy cơ sở và cán bộ tổ dân phố để tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng bằng nhiều hình thức phong phú và đa dạng.
TÌNH HÌNH VỀ TỔ CHỨC CÁN BỘ CỦA PHƯỜNG DUY TÂN
Ngày đầu thành lập, đội ngũ cán bộ phường chỉ có 17 người và chưa được đào tạo cơ bản, dẫn đến khó khăn trong việc thực thi nhiệm vụ Nhận thức rõ vai trò của cán bộ là rất quan trọng, trong những năm qua, cấp Ủy và chính quyền đã chú trọng lựa chọn những cán bộ trẻ, nhiệt huyết để đào tạo và bồi dưỡng Nhờ đó, đội ngũ cán bộ phường đã được bổ sung đủ về số lượng và thường xuyên nâng cao trình độ lý luận chính trị cũng như chuyên môn, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ cụ thể.
Ủy ban nhân dân phường bao gồm 01 Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch, 05 Ủy viên, cùng các cán bộ chuyên trách về Tư pháp – Hộ tịch và Địa chính, được sắp xếp theo quy định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn của Bộ Nội vụ Đặc biệt, cán bộ Tư pháp – Hộ tịch có 02 người.
1.1.2 Nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Lãnh đạo công tác của Ủy ban nhân dân bao gồm các thành viên và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, đảm bảo sự phối hợp hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm của từng thành viên.
Ủy ban nhân dân phường có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, đôn đốc và kiểm tra công tác của các cơ quan chuyên môn trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cũng như Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
- Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân phường
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính, cần áp dụng các biện pháp cải tiến quy trình làm việc, quản lý và điều hành hiệu quả Đồng thời, cần ngăn chặn và đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực như quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và lãng phí trong đội ngũ cán bộ, công chức cũng như trong chính quyền địa phương.
- Tổ chức việc tiếp dân, xét và giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân theo quy định của pháp luật
- Triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Ủy ban nhân dân
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức nhà nước theo sự phân cấp quản lý
Đình chỉ hoặc bãi bỏ các văn bản trái pháp luật do cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình ban hành, cũng như các văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân.
Chỉ đạo thực hiện các biện pháp khẩn cấp nhằm xử lý các tình huống đột xuất liên quan đến phòng, chống thiên tai, cháy nổ, dịch bệnh, an ninh và trật tự, đồng thời báo cáo kết quả lên Ủy ban nhân dân trong phiên họp sắp tới.
1.1.3 Nhiệm vụ của Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân
Ủy ban nhân dân có trách nhiệm tổ chức, quản lý và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối lượng công việc trong lĩnh vực kinh tế tài chính và văn hóa xã hội, được phân công bởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân Hầu hết người dân, đặc biệt là đoàn viên thanh niên và những người chuẩn bị xây dựng gia đình, đều nhận thức rõ ràng về ý nghĩa và giá trị pháp lý của việc đăng ký kết hôn cũng như “Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn” trong việc bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ giữa vợ chồng và các thành viên trong gia đình Người dân cũng nắm rõ quy trình và thủ tục hồ sơ cần thiết để đăng ký kết hôn, tự giác thực hiện đúng quy định của pháp luật khi lập gia đình.
Chính quyền và các tổ chức đoàn thể luôn chú trọng công tác tuyên truyền, vận động người dân thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn Họ đề cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân, cải cách hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho các cặp nam nữ trong việc đăng ký kết hôn, nhằm giải quyết nhanh chóng và chính xác các yêu cầu này.
Mặc dù có nhiều ưu điểm trong thủ tục hành chính kết hôn tại địa phương, nhưng vẫn tồn tại một số khó khăn cơ bản cần được giải quyết.
Trình độ văn hóa và dân trí của người dân không đồng đều, dẫn đến việc một bộ phận nhỏ vẫn có hiểu biết pháp luật hạn chế và ý thức chấp hành pháp luật còn thấp.
Quản lý nhân khẩu tại một số tổ dân phố gặp nhiều khó khăn do sự xuất hiện của cư dân từ nhiều nơi đến làm ăn sinh sống, chủ yếu trong các ngành nghề như buôn bán nhỏ, mua phế liệu và làm công nhân Nhiều người không tuân thủ các quy định pháp luật về cư trú, như cắt chuyển hộ khẩu, nhập khẩu và đăng ký tạm trú, dẫn đến phường gặp trở ngại trong công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn thực hiện các thủ tục hành chính, đặc biệt là trong việc đăng ký kết hôn cho những cặp đôi đã chung sống như vợ chồng.
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾT HÔN
Gia đình là tế bào của xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng con người và hình thành nhân cách Một gia đình tốt sẽ góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì gia đình là hạt nhân của xã hội Mối quan hệ giữa xã hội và gia đình là biện chứng, hỗ trợ và tác động lẫn nhau Để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước và hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, việc xây dựng gia đình bền vững và hạnh phúc là điều tối quan trọng.
Để xã hội ổn định và phát triển, việc quản lý chặt chẽ dựa trên pháp lý và đạo lý là cần thiết, trong đó gia đình được xem như một xã hội thu nhỏ Để gia đình bền vững và hạnh phúc, pháp luật cần điều chỉnh các mối quan hệ, bắt đầu từ việc kết hôn giữa nam và nữ Kết hôn không chỉ là việc thiết lập quan hệ vợ chồng mà còn là cơ sở quan trọng để hình thành gia đình, yêu cầu tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về điều kiện và đăng ký kết hôn Giấy chứng nhận kết hôn xác nhận mối quan hệ hôn nhân và là cơ sở để xác định các mối quan hệ liên quan, như cha mẹ của trẻ em Nếu không có sự điều chỉnh của pháp luật, mà chỉ dựa vào đạo đức và phong tục, gia đình sẽ gặp khó khăn, dẫn đến sự suy thoái dòng giống và bất ổn xã hội.
Khoản 2 điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình ghi rõ: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập mối quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” Đây chính là cơ sở hình thành gia đình đúng chuẩn mực đạo đức, đúng quy định của pháp luật Hôn nhân hợp pháp là hôn nhân trên cơ sở quan hệ giữa chủ thể (nam-nữ), tuân thủ đúng các quy định về điều kiện kết hôn và
Đăng ký kết hôn là bước quan trọng để xây dựng một tổ ấm gia đình hạnh phúc và bình đẳng Để đạt được mục đích này, vợ chồng cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.
ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN
Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân thủ theo các điều kiện sau đây:
2.2.1 Nam từ hai mươi (20) tuổi trở lên, nữ từ mười tám (18) tuổi trở lên
Ví dụ: Anh Trần Mạnh Hùng sinh ngày 20/01/1996 đến ngày 21/01/2016, anh Hùng đủ 20 tuổi Chị Nguyễn Thị Trúc Linh sinh ngày 01/02/1998 đến ngày 02/02/2016 chị Linh đủ 18 tuổi
Theo quy định tại khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên, không thuộc các trường hợp cấm kết hôn, có quyền kết hôn Độ tuổi được tính theo năm sinh, không phải “tuổi tròn” như trong pháp luật hình sự và các lĩnh vực khác Cụ thể, sau sinh nhật lần thứ 19 đối với nam và sau sinh nhật lần thứ 17 đối với nữ, cả hai đều đáp ứng điều kiện về độ tuổi kết hôn.
Việc quy định độ tuổi kết hôn không phải là ngẫu nhiên mà dựa trên nghiên cứu khoa học về sự phát triển tâm sinh lý con người và điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội Độ tuổi kết hôn đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại của xã hội, vì gia đình vừa là tế bào xã hội, vừa là đơn vị kinh tế Gia đình còn có chức năng duy trì nòi giống, với khả năng sinh sản của nam từ 16 tuổi và nữ từ 13 tuổi Tuy nhiên, độ tuổi này không đảm bảo cho sự ra đời của những đứa trẻ khỏe mạnh và sức khỏe của người mẹ trong thai kỳ Do đó, quy định độ tuổi kết hôn là một biện pháp cần thiết để bảo đảm sức khỏe và sự chín chắn trong quan hệ gia đình, và không thể nâng độ tuổi tối thiểu lên cao hơn vì điều đó là không khả thi trong thực tế.
2.2.2 Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào đƣợc ép buộc, lừa dối bên nào; không ai đƣợc cƣỡng ép hoặc cản trở
Nam và nữ tự nguyện quyết định nghĩa là hai người yêu nhau, đủ điều kiện kết hôn, tự nguyện đến với nhau mà không bị ép buộc.
* Một bên bị ép buộc (ví dụ: Anh An đe dọa sẽ giết hoặc uy hiếp tinh thần chị Phượng, ép buộc chị Phượng phải lấy mình)
Anh Bình đã lừa dối chị Nhi bằng cách hứa hẹn sẽ bảo lãnh chị ra nước ngoài sống nếu kết hôn với anh, mặc dù biết rõ rằng chị Nhi rất thích sống ở nước ngoài Do bị lừa, chị Nhi đã đồng ý kết hôn với anh Bình.
Cưỡng ép hôn nhân xảy ra khi một hoặc cả hai bên bị buộc phải kết hôn dưới áp lực từ người khác, như trường hợp của Lan, khi bố mẹ cô ép cô kết hôn với ông Trung để trả nợ.
Hôn nhân gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng bình đẳng và tiến bộ, nhằm xóa bỏ các tàn tích của hôn nhân phong kiến trước đây Theo quy định tại khoản 2 điều 9 luật, việc kết hôn phải do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bị ép buộc hay lừa dối Tự nguyện là yếu tố quan trọng để hôn nhân có giá trị pháp lý, phản ánh sự chân thành trong tình yêu và mong muốn xây dựng một cuộc sống gia đình hạnh phúc Để đảm bảo tính tự nguyện, các cặp đôi phải đến Ủy ban nhân dân để đăng ký kết hôn, nơi sẽ kiểm tra sự đồng ý của họ trước khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn Điều này khẳng định rằng yếu tố tự nguyện không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn là nền tảng cho sự đoàn kết và hợp lực của vợ chồng.
“Thuận vợ, thuận chồng tác biển đông cũng cạn” bảo đảm cho gia đình tồn tại lâu
Hôn nhân bền vững và hạnh phúc phải dựa trên sự tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật Những cuộc hôn nhân không tự nguyện thường chỉ tồn tại nhất thời và không thể bền lâu.
2.2.3 Cùng với các điều kiện kết hôn quy định tại điều 9, thì điều 10 luật quy định về những trường hợp cấm kết hôn Cụ thể các trường hợp sau
2.2.3.1 Người đang có vợ hoặc có chồng:
Quy định này xác định rằng nam và nữ sống chung với nhau đã đăng ký kết hôn Trong trường hợp họ đủ điều kiện để đăng ký nhưng chưa thực hiện, thì theo nguyên tắc, mối quan hệ này không được công nhận.
Trong quá trình giải quyết thủ tục đăng ký kết hôn, cần lưu ý đến vấn đề "người đang có vợ hoặc có chồng" để đảm bảo tính phù hợp với đạo đức, thuần phong mỹ tục và pháp luật Đối với các trường hợp nam, nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng ký, theo Nghị quyết 35/2000-QH10, họ cũng phải được xem là “Người đang có vợ hoặc có chồng”.
2.2.3.2 Người mất năng lực hành vi dân sự: Đó là những người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh dẫn đến không nhận thức được, không làm chủ được hành vi của mình Trên thực tế không được tùy tiện, chủ quan quy kết một người nào đó mất năng lực hành vi dân sự Để xác định một người mất năng lực hành vi dân sự phải tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật Cụ thể điều 22 bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi liên quan Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận có tổ chức giám định Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự” Như vậy, chỉ có tòa án là cơ quan duy nhất tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, tùy tiện quy kết sẽ dẫn đến xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác Sở dĩ pháp luật cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn là vì sau khi kết hôn nam, nữ có những quyền đồng thời có nghĩa vụ với nhau, với cha mẹ, với con cái … Nếu người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn, bản thân họ sẽ không thực hiện được trách nhiệm làm vợ, làm chống Hơn nữa khoa học đã chứng minh người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không làm chủ được hành vi của mình là loại bệnh có tính di truyền, do đó con cái của họ sinh ra sẽ không khỏe
Sự phát triển nòi giống có thể bị ảnh hưởng bởi 14 yếu tố mạnh, đặc biệt là tình trạng mất năng lực hành vi dân sự của một trong hai vợ chồng sau khi kết hôn Pháp luật không coi đây là lý do để hủy bỏ hôn nhân, và việc xin ly hôn trong trường hợp này cũng bị xem là hành vi vi phạm đạo đức xã hội.
2.2.3.3 Giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời:
Cùng dòng máu trực hệ bao gồm cha mẹ, ông bà, và những người có quan hệ họ hàng trong ba đời, như anh chị em và con cháu Việc cấm kết hôn giữa những người này không chỉ bảo tồn truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc mà còn có cơ sở khoa học, vì nghiên cứu cho thấy hôn nhân giữa họ có thể dẫn đến sự phát triển trí lực và thể lực kém, ảnh hưởng đến nòi giống và tương lai của cả gia đình và dân tộc.
2.2.3.4 Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố dượng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng:
Quy định này tiếp nối truyền thống đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, cho phép kết hôn giữa con đẻ và con nuôi trong cùng một gia đình, cũng như giữa hai người cùng là con nuôi của một gia đình mà không vi phạm pháp luật Điều này cần được chú ý trong thực tiễn.
2.2.3.5 Giữa những người cùng giới tính:
Việc kết hôn giữa những người cùng giới tính không chỉ ảnh hưởng đến chức năng sinh đẻ của gia đình mà còn tác động đến thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội Theo khoản 2 điều 8 của Luật hôn nhân gia đình số 52/2014/QH13, hành vi này được coi là trái pháp luật.
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ KẾT HÔN
2.3.1 Thủ tục kết hôn theo quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ, và Luật Hôn Nhân và Gia Đình
- Thẩm quyền đăng ký kết hôn:
Phù hợp với điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, điều 17 Nghị định 158/2005/NĐ-
Theo quy định của CP, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký kết hôn Nếu cả hai bên đều là công dân Việt Nam đang công tác, học tập hoặc lao động ở nước ngoài và đã cắt hộ khẩu thường trú tại Việt Nam, thì việc đăng ký kết hôn sẽ được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú trước khi một trong hai bên xuất cảnh.
- Thủ tục đăng ký kết hôn:
Cả hai bên nam và nữ cần nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và phải có mặt cùng nhau khi thực hiện việc đăng ký kết hôn, theo Khoản 1 Điều 18 của Luật Quốc tịch 2014 Điều 10 của Nghị định số 123/2015/NĐ-CP cũng quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch.
“ Điều 10 Giấy tờ nộp và xuất trình khi đăng ký kết hôn
Người yêu cầu đăng ký kết hôn cần xuất trình giấy tờ theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 của Nghị định, đồng thời nộp các giấy tờ theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 của Luật.
Khi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cần chuẩn bị hộ tịch hoặc giấy tờ theo quy định tại Khoản 1 Điều 38 của Luật Hộ tịch Đối với việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, người đăng ký cũng phải nộp bản chính Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định hiện hành.
1 Trường hợp đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà người yêu cầu đăng ký kết hôn không thường trú tại xã, phường, thị trấn nơi đăng ký kết hôn thì phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cấp theo quy định tại các Điều 21, 22 và 23 của Nghị định này
Khi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, người yêu cầu phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cấp, theo quy định tại Điều 21, 22 và 23 của Nghị định.
2 Trường hợp người yêu cầu đăng ký kết hôn đang công tác, học tập, lao động có thời hạn ở nước ngoài thì phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do
Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan đại diện) cấp.”
Để xác nhận tình trạng hôn nhân, bạn cần có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân Thẩm quyền cấp và quy trình xác nhận này được quy định tại các điều 21 và 22 của luật hiện hành.
23 của Nghị định số 123/2015/NĐ-CP của quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch
Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định của Luật Hộ tịch 2014, nếu đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình, công chức tư pháp – hộ tịch sẽ ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch và yêu cầu cả hai bên nam, nữ ký tên.
Sổ hộ tịch ghi nhận việc hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn Sau đó, công chức tư pháp – hộ tịch sẽ báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho cả hai.
Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc
Sau khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn từ cơ quan có thẩm quyền, nam và nữ được Nhà nước công nhận là vợ chồng hợp pháp Từ thời điểm này, quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng sẽ phát sinh.
Công dân Việt Nam đang sống ở nước ngoài có nhu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân trong thời gian về nước, có thể yêu cầu cơ quan Ngoại giao hoặc Lãnh sự Việt Nam tại quốc gia cư trú cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP và Luật Hôn nhân và Gia đình 2015 yêu cầu người nộp đơn phải trình bày tờ khai theo mẫu quy định Nếu người yêu cầu đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hoặc người kia đã qua đời, cần xuất trình trích lục bản án hoặc bản sao giấy tờ chứng minh Quy định này cũng áp dụng cho việc xác nhận tình trạng hôn nhân trong tờ khai đăng ký kết hôn.
Sau khi tiếp nhận đầy đủ giấy tờ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc viên chức Lãnh sự sẽ tiến hành ký và cấp xác nhận tình trạng hôn nhân.
Khi nộp tờ khai, đương sự cần phải xuất trình Giấy chứng minh nhân dân và giấy xác nhận nơi cư trú Việc này là cần thiết để xác minh danh tính và địa chỉ của đương sự.
CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN CHỨNG THỰC
Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm đăng ký kết hôn cho công dân Việt Nam trong nước Trong khi đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã có thẩm quyền thực hiện đăng ký kết hôn trong một số trường hợp cụ thể.
+ Công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài;
+ Công dân Việt Nam ở trong nước kết hôn với công dân Việt Nam ở nước ngoài;
+ Hai công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau;
+ Giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài
Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại nước ngoài có quyền đăng ký kết hôn cho công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài, khi pháp luật của nước sở tại cho phép hoặc theo các điều ước quốc tế giữa Việt Nam và nước đó.
Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam thường trú tại xã và công dân của nước láng giềng thường trú tại đơn vị hành chính tương đương cấp xã của Việt Nam.
KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG VẤN ĐỀ KẾT HÔN TẠI PHƯỜNG DUY TÂN
4.1.1 Thực trạng đăng ký kết hôn tại phường
Thống kê trong các năm từ 2010 đến tháng 12 năm 2016, Ủy ban nhân dân phường Duy Tân đã giải quyết thủ tục đăng ký kết hôn như sau:
+ Năm 2010: 75 trường hợp (cặp vợ chồng)
Theo Nghị định số 77/2001/NĐ-CP và Nghị định số 35/2000/QH10, Ủy ban nhân dân phường Duy Tân đã tổ chức đăng ký kết hôn cho 53 cặp đôi trong các năm 2010 và 2011 Những cặp đôi này, mặc dù sống chung như vợ chồng và đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
+ Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân:
4.1.2 Kiến nghị và Nhận xét chung về thực hiện thủ tục hành chính trong vấn đề kết hôn tại phường Duy Tân
Công tác tuyên truyền về quy định pháp luật liên quan đến thủ tục hành chính trong lĩnh vực kết hôn được triển khai đa dạng, bao gồm tuyên truyền miệng, hoạt động của các đoàn thể và niêm yết công khai tại trụ sở Những nỗ lực này nhằm giúp người dân hiểu rõ và thực hiện đúng các quy định pháp luật.
Nhờ vào sự chú trọng trong công tác tuyên truyền pháp luật, người dân đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn Điều này đã dẫn đến việc ngày càng nhiều nam nữ tự giác đến Ủy ban nhân dân phường để thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn khi xây dựng gia đình.
Bố trí làm việc theo cơ chế “một cửa” đã mang lại hiệu quả thiết thực trong việc tiếp dân và giải quyết thủ tục hành chính, giúp giảm phiền hà và tiết kiệm thời gian cho người dân Qua khảo sát thực tế, đại đa số người dân đều hài lòng và phấn khởi với cách thức tổ chức này tại phường.
- Đội ngũ cán bộ tại phường từ lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường, cán bộ
Cán bộ tư pháp hộ tịch tại bộ phận "một cửa" luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, gần gũi và thân thiện với nhân dân Họ có thái độ tiếp dân lịch sự, hòa nhã, không có biểu hiện hách dịch hay cậy quyền, từ đó tạo dựng được lòng tin từ cộng đồng.
Phường Duy Tân có số lượng yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính về kết hôn cao hơn so với các phường khác trong thành phố Tuy nhiên, nhờ vào sự am hiểu sâu sắc các quy định pháp luật của cán bộ Tư pháp hộ tịch, chất lượng tham mưu tại đây rất tốt Đến nay, chưa xảy ra bất kỳ sai sót lớn nào và không có trường hợp đăng ký kết hôn nào bị hủy theo quy định của pháp luật.
Công tác tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là liên quan đến thủ tục hành chính trong lĩnh vực kết hôn, đã đạt nhiều kết quả tích cực Tuy nhiên, hình thức tuyên truyền bằng miệng vẫn cần được cải thiện để nâng cao hiệu quả.
Mặc dù có 28 hình thức tuyên truyền hiệu quả, nhưng việc người dân chưa tích cực tham gia các buổi họp tổ dân phố vẫn là một thách thức lớn Tỷ lệ hộ gia đình tham gia họp để nghe phổ biến và tuyên truyền pháp luật vẫn còn thấp, điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác tuyên truyền.
Mặc dù phường đã thực hiện đăng ký kết hôn theo Nghị định số 77/2001/NĐ-CP và Nghị quyết số 35/2000/QH10, nhưng vẫn còn nhiều cặp nam nữ sống chung như vợ chồng từ sau ngày 01 tháng 03 năm 1987 chưa đăng ký kết hôn, mặc dù đủ điều kiện.
4.1.4 Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song cơ bản chủ yếu là do
Ban tư pháp phường, dù đã được cơ cấu đầy đủ theo quy định, nhưng hoạt động vẫn chưa đều Nhiều thành viên kiêm nhiệm nhiều công việc khác, dẫn đến thời gian dành cho công tác tư pháp chưa được chú trọng.
Cán bộ chuyên trách Tư pháp hộ tịch hiện chỉ có một người, trong khi nhiệm vụ của Tư pháp cơ sở ngày càng gia tăng, dẫn đến việc không đủ khả năng hỗ trợ lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường trong việc triển khai các hoạt động cần thiết.
Sau thời gian thực tập tại phường Duy Tân, tôi đã tham gia trực tiếp vào các hoạt động tư pháp và tìm hiểu thực tế Dựa trên những kết quả đạt được, cũng như những tồn tại và hạn chế mà tôi nhận thấy, tôi xin đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình.
+ Kiến nghị Đảng ủy, Ủy ban nhân dân phường Duy Tân:
Cần chú trọng và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa, đặc biệt là trong việc phân bổ kinh phí, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các thành viên trong ban tư pháp Việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ cho các thành viên sẽ giúp họ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.
Để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của việc đăng ký kết hôn, cần đẩy mạnh công tác phổ biến và tuyên truyền pháp luật Việc này sẽ khuyến khích các cặp đôi tự giác thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn khi bắt đầu cuộc sống gia đình.
Tiếp tục rà soát các cặp nam, nữ sống chung như vợ chồng, bao gồm cả những trường hợp đã có con, nhằm tổ chức đăng ký kết hôn cho những cặp đủ điều kiện nhưng chưa thực hiện Điều này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ gia đình.
+ Kiến nghị phòng Tƣ pháp Thành phố Kon Tum, Sở tƣ pháo tỉnh Kon Tum: