1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

So sánh cơ chế thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại việt nam với hoa kỳ

55 31 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề So Sánh Cơ Chế Thanh Tra, Giám Sát Hệ Thống Ngân Hàng Tại Việt Nam Với Hoa Kỳ
Tác giả Huỳnh Thị Hoài Trâm
Người hướng dẫn THS. Trương Thị Tuyết Minh
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Quản Trị - Luật
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân Luật
Năm xuất bản 2021
Thành phố Tp Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 55
Dung lượng 530,49 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ (13)
    • 1.1. Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam (13)
    • 1.2. Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ (15)
  • Chương 2: SO SÁNH MÔ HÌNH THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ (19)
    • 2.1. Các mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng trên thế giới .13 1. Phân loại theo đối tượng (lĩnh vực) được giám sát (19)
      • 2.1.2. Phân loại theo định chế chủ thể (20)
    • 2.2. Mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam (21)
    • 2.3. Mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ (22)
  • Chương 3: SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VỚI HOA KỲ (27)
    • 3.1. Quy định về chủ thể Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng (27)
      • 3.1.1. Quy định về chủ thể Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam (27)
      • 3.1.2. Quy định về chủ thể thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại (30)
    • 3.2. Quy định về đối tượng Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng (37)
      • 3.2.1. Quy định về đối tượng Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam (37)
      • 3.2.2. Quy định về đối tượng thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại (40)
    • 3.3. Quy định về nguyên tắc Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng (42)
      • 3.3.2. Quy định về nguyên tắc thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại (45)
  • KẾT LUẬN (18)

Nội dung

CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ

Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam

Trước năm 1986, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động theo mô hình tự cung tự cấp, không theo cơ chế thị trường Tuy nhiên, sau năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống ngân hàng đã có sự chuyển biến mạnh mẽ với việc phát triển từ mô hình một cấp sang hai cấp Sự thay đổi này đã nâng cao hiệu quả điều hành, quản lý và giám sát ngân hàng, đồng thời giúp hoạt động kinh doanh ngân hàng tiệm cận với cơ chế kinh tế thị trường Ngân hàng Nhà nước cũng bắt đầu xây dựng các công cụ chính sách như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản, cùng với việc thành lập bộ máy thanh tra, giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ và tín dụng, trong đó có thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng.

Trong hơn hai mươi năm phát triển, hoạt động ngân hàng tại Việt Nam đã trở thành một yếu tố then chốt trong nền kinh tế quốc gia, góp phần kiềm chế lạm phát bằng cách thu hút tiền nhàn rỗi thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay và tiền gửi Các ngân hàng cũng phát hành trái phiếu để huy động vốn trung, dài hạn, nhằm ổn định nguồn tiền trong lưu thông và ngăn chặn hiện tượng chuyển đổi tiền VND sang ngoại tệ Bên cạnh đó, hoạt động ngân hàng còn giúp duy trì ổn định tỷ giá hối đoái bằng cách điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu và thực hiện các giao dịch mua bán ngoại hối, từ đó đảm bảo cán cân tỷ giá luôn ở trạng thái cân bằng.

Trong thời kỳ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mô hình hệ thống ngân hàng một cấp cho thấy Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện mọi hoạt động ngân hàng Ngược lại, mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp cho phép NHNN chỉ đóng vai trò là Ngân hàng Trung ương và cơ quan quản lý nhà nước, trong khi các tổ chức tín dụng (TCTD) thuộc nhiều thành phần kinh tế thực hiện các hoạt động ngân hàng một cách cạnh tranh và bình đẳng.

3 Hồng Quân, “Mô hình ngân hàng hai cấp: Một cuộc cách mạng”, https://thoibaonganhang.vn/mo- hinh-ngan-hang-hai-cap-mot-cuoc-cach-mang-48288.html, truy cập ngày 27/6/2021

Hệ thống ngân hàng đã triển khai các chương trình và chính sách tín dụng nhằm cung ứng vốn kịp thời cho sản xuất thiết yếu, đáp ứng nhu cầu trong các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, xuất khẩu và an sinh xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ Các gói vay ưu đãi được thiết kế để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, đồng thời ngân hàng cũng đảm bảo thanh khoản cho toàn hệ thống bằng cách duy trì mức tối thiểu tiền mặt và thúc đẩy hoạt động bảo hiểm tiền gửi.

Hệ thống ngân hàng thường xuyên đối mặt với nhiều rủi ro trong hoạt động, bao gồm rủi ro tín dụng, thanh khoản, thị trường và hoạt động Rủi ro tín dụng phát sinh khi người vay không thực hiện nghĩa vụ thanh toán, có thể dẫn đến tổn thất lớn cho ngân hàng và ảnh hưởng đến uy tín của họ Rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu chi trả và cho vay, gây khó khăn cho người gửi tiền Rủi ro thị trường liên quan đến biến động bất lợi của lãi suất, tỷ giá và giá chứng khoán, trong khi rủi ro hoạt động có thể do nguyên nhân nội bộ hoặc bên ngoài Ngoài ra, còn có các rủi ro khác như rủi ro danh tiếng và rủi ro kinh tế vĩ mô, tất cả đều có thể đe dọa hoạt động tín dụng của ngân hàng và tác động tiêu cực đến nền kinh tế Thị trường càng sôi động, rủi ro càng gia tăng và khó phát hiện hơn.

Hoạt động ngân hàng đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế, tuy nhiên, các rủi ro phát sinh từ hoạt động này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống tài chính.

Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đóng vai trò trung gian tín dụng và cần quản trị tốt rủi ro để đảm bảo an toàn tiền gửi và tín dụng Việc ra đời của pháp luật liên quan đến thanh tra, giám sát ngân hàng là cần thiết để đánh giá mức độ an toàn và khả năng rủi ro của các tổ chức tín dụng, từ đó khuyến nghị các biện pháp khắc phục nhằm bảo vệ hệ thống tín dụng Thanh tra, giám sát ngân hàng tập trung vào việc giám sát hoạt động quản trị, các nghiệp vụ chính và các loại rủi ro như rủi ro thị trường, thanh khoản và chuyển đổi Để thực hiện hiệu quả, cần có sự tham gia của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng với quyền lực nhà nước.

Cơ sở hình thành pháp luật thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ

Thị trường tài chính Hoa Kỳ được biết đến như một trong những thị trường mạnh mẽ nhất thế giới, với hệ thống ngân hàng phát triển vượt bậc Trong lịch sử tài chính, hai mô hình thu hút đầu tư nổi bật đã hình thành: mô hình lục địa tập trung vào tài chính ngân hàng và mô hình Anglo-Saxon, đặc trưng cho thị trường tài chính Hoa Kỳ Mô hình Anglo-Saxon có tỷ lệ vốn cổ phần cao, sự tham gia hạn chế của ngân hàng trong cho vay, và sự hiện diện của nhiều quỹ đầu tư khác nhau Đặc biệt, mô hình này ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do, theo lý thuyết Bàn tay vô hình của Adam Smith Tuy nhiên, vai trò của Chính phủ trong việc kiểm soát hoạt động của nhà đầu tư và quản lý rủi ro tài chính lại thường bị xem nhẹ, dẫn đến việc thiếu sự điều tiết kịp thời và mạnh mẽ.

"Bàn tay vô hình" có thể làm cho thị trường tự do rơi vào trạng thái hỗn loạn, dẫn đến các khủng hoảng tài chính Một ví dụ điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ, thể hiện rõ ràng sự mất kiểm soát trong nền kinh tế.

(2008) là minh chứng tiêu biểu, khiến Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới phải nhìn nhận lại cơ chế giám sát hệ thống tài chính của mình

Trong nền kinh tế thị trường tự do, 4 Smith khẳng định rằng mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình, và những hành động này sẽ tự động thúc đẩy và củng cố lợi ích chung của cộng đồng thông qua một "bàn tay vô hình".

Trịnh Thị Hoa Mai (2009) trong bài viết “Vai trò của Nhà nước đối với TTTC Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ” đã phân tích vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý thị trường tài chính, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính ở Mỹ Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng này nhấn mạnh sự cần thiết của các chính sách can thiệp kịp thời và hiệu quả của Nhà nước để đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ xuất phát từ sự yếu kém trong cơ chế giám sát tài chính ngân hàng, đặc biệt là trước sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính ngân hàng và các sản phẩm tài chính phức tạp Cụ thể, các chuẩn mực cho vay đã bị xem nhẹ, dẫn đến việc ngân hàng cho vay cho những con nợ "dưới chuẩn", trong khi hệ thống giám sát ngân hàng không có những biện pháp kịp thời để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của chứng khoán hóa.

Chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện các biện pháp khắc phục tức thời để đối phó với những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính, đồng thời tiến hành rà soát lại hệ thống pháp lý và thể chế giám sát tài chính, đặc biệt là giám sát ngân hàng, nhằm ngăn chặn nguy cơ tái diễn khủng hoảng Luật pháp về tài chính và giám sát ngân hàng tại Hoa Kỳ được xem như một công cụ quan trọng để kiểm soát hoạt động của các định chế tài chính, đảm bảo rằng chúng không vượt quá khả năng kiểm soát trong bối cảnh thị trường tài chính ngân hàng phát triển nhanh chóng và phức tạp.

Để bảo vệ nền kinh tế quốc gia, việc đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng là rất quan trọng, vì nó hỗ trợ thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước Điều này phản ánh ý chí và nguyện vọng của chính phủ trong việc duy trì ổn định kinh tế.

Kỳ không nằm ngoài quy luật về sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng, theo Ủy ban Basel về GSNH, có thể đe dọa đến sự ổn định tài chính cả trong nước và quốc tế Do đó, việc nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính các quốc gia và khu vực là cấp thiết, đặc biệt là trong công tác thanh tra, giám sát ngân hàng.

Quá trình phát triển thị trường tài chính giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có sự khác biệt, dẫn đến sự khác nhau trong pháp luật và cơ chế thanh toán, cũng như giao dịch chứng khoán giữa hai quốc gia này.

6 Phan Thị Mai Trang (2014), Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động GSNH sau khủng hoảng, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 31-32

Từ ngày 30/5 đến 9/6/2007, Hoa Kỳ đã tổ chức một chương trình khảo sát với hơn 25 cuộc tọa đàm và nhiều hoạt động chuyên môn nhằm cung cấp thông tin chi tiết về cơ chế thanh tra – giám sát tài chính, bao gồm cả thanh tra giám sát ngân hàng (TT, GSNH) Chính phủ liên bang đã thành lập nhiều diễn đàn như Hội đồng kiểm tra các định chế tài chính liên bang (FFIEC) và Ủy ban hạ tầng thông tin ngân hàng (FBIIC) để thảo luận và đề xuất chính sách, với hy vọng thiết lập các chuẩn mực chung cho các cơ quan giám sát Tuy nhiên, các tổ chức này hiện vẫn chỉ hoạt động như diễn đàn và thiếu tài lực cần thiết để xây dựng chính sách chống rủi ro hiệu quả cho ngành tài chính - ngân hàng phức tạp của Hoa Kỳ.

Các nguyên tắc Basel đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra và giám sát ngân hàng Những nguyên tắc này giúp đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính, đồng thời tăng cường khả năng quản lý rủi ro cho các tổ chức tín dụng Việc áp dụng các quy định này không chỉ giúp các ngân hàng tuân thủ luật pháp mà còn nâng cao niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng Thông qua việc thực hiện các nguyên tắc Basel, các cơ quan quản lý có thể cải thiện chất lượng giám sát và giảm thiểu nguy cơ xảy ra khủng hoảng tài chính.

Thị trường ngân hàng Việt Nam đang trong quá trình phát triển, với mô hình hoạt động đa dạng phục vụ nhiều đối tượng khác nhau như nông dân, hộ nghèo và doanh nghiệp Tuy nhiên, cơ chế thanh toán và giám sát ngân hàng còn thiếu sự đồng bộ và chặt chẽ Pháp luật về thanh toán và giám sát ngân hàng được thiết lập nhằm kiểm soát rủi ro và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Ngược lại, hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ phục vụ các quốc gia thiếu vốn và doanh nghiệp lớn, với pháp luật thanh toán và giám sát ngân hàng phát triển song song, vừa bảo đảm an toàn vừa kiểm soát sự ra đời của các công cụ tài chính mới có nguy cơ tiềm ẩn.

Chương 1 khắc họa hai cơ sở khác nhau để hình thành nên pháp luật TT,GSHTNH mỗi quốc gia:

Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam ra đời nhằm quản lý rủi ro và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, chỉ mới tồn tại hơn hai mươi năm, nhưng đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ dòng chảy kinh tế - tài chính Nguyên nhân hình thành cơ chế thanh tra, giám sát ngân hàng tại Hoa Kỳ xuất phát từ sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính ngân hàng và sự ra đời của nhiều công cụ tài chính, tạo nên một hệ thống phức tạp Bên cạnh đó, cơ chế thị trường hoạt động quá tự do đã dẫn đến sự hỗn loạn, thể hiện qua các cuộc khủng hoảng kinh tế Sự thiếu chú trọng đến cơ chế thanh tra, giám sát ngân hàng đã khiến Hoa Kỳ phải xem xét lại hệ thống này sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2007-2009, khi nhiều ngân hàng lớn sụp đổ.

Hoa Kỳ không nằm ngoài quy luật rằng pháp luật TT,GSNH ra đời nhằm

Việc đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng và dòng chảy kinh tế - tài chính là điều mà Việt Nam và Ủy ban Basel đang quan tâm Tuy nhiên, sự biến đổi nhanh chóng của thực tiễn thị trường tài chính Hoa Kỳ yêu cầu hệ thống ngân hàng Việt Nam cần thích ứng linh hoạt hơn Đây là bài học quý giá cho sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng Việt Nam trong tương lai.

SO SÁNH MÔ HÌNH THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VÀ HOA KỲ

Các mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng trên thế giới 13 1 Phân loại theo đối tượng (lĩnh vực) được giám sát

2.1.1 Phân loại theo đối tượng (lĩnh vực) được giám sát:

Hệ thống tài chính được chia thành nhiều lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán, với một số quốc gia còn bao gồm hưu trí và nguyên vật liệu Giám sát tài chính bao gồm việc theo dõi hệ thống ngân hàng và các bộ phận tài chính khác, nhằm phát triển một hệ thống tài chính lành mạnh và bền vững, đồng thời bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và người gửi tiền Mỗi quốc gia sẽ có cơ chế giám sát ngân hàng phù hợp với mô hình giám sát tài chính riêng, dựa trên đặc điểm tài chính của quốc gia đó.

Mô hình giám sát thể chế, hay Mô hình cơ quan giám sát chuyên ngành, áp dụng cách tiếp cận truyền thống trong hệ thống tài chính, với mỗi lĩnh vực có cơ quan giám sát riêng nhằm đảm bảo nguyên tắc kinh doanh, bảo vệ khách hàng và ổn định hệ thống tài chính Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng trung ương (NHTW) có nhiệm vụ thanh tra và giám sát toàn bộ hệ thống ngân hàng một cách độc lập, tránh tình trạng chồng chéo trách nhiệm Hoạt động của cơ quan này được chuyên môn hóa với kỹ thuật và nghiệp vụ riêng, tuân thủ các quy định, nguyên tắc và chuẩn mực đặc thù Đồng thời, cơ quan cũng hỗ trợ NHTW trong việc dự báo và ra quyết định, như Ủy ban Quản lý NHTW Trung Quốc (CBRC) giám sát hoạt động tài chính trên toàn quốc và Bộ phận GSNH thuộc NHTW Séc.

Mô hình giám sát theo chức năng tập trung vào việc thanh tra và giám sát dựa trên hoạt động kinh doanh của thực thể, không phụ thuộc vào hình thức pháp lý của nó Điều này dẫn đến việc một tổ chức có thể phải chịu sự giám sát từ nhiều cơ quan khác nhau Sự đa dạng trong loại hình dịch vụ mà tổ chức cung cấp càng lớn, thì số lượng cơ quan giám sát càng nhiều Mô hình này thường được áp dụng tại các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển, nơi xuất hiện nhiều sản phẩm tài chính mới.

Bài viết của Nguyễn Thị Hòa trình bày về các mô hình giám sát tài chính phổ biến trên thế giới và mối liên hệ của chúng với Việt Nam Tác giả phân tích các phương thức giám sát tài chính, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các mô hình này để cải thiện hệ thống tài chính Việt Nam Bài viết có thể được truy cập tại địa chỉ https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/links/cm100?dDocName=SBV333980, với thông tin được cập nhật đến ngày 03/5/2021.

14 tài chính phức tạp, kết hợp nhiều lĩnh vực (như ngân hàng - bảo hiểm, chứng khoán

Trong lĩnh vực ngân hàng, mọi tổ chức liên quan đến hoạt động ngân hàng, dù không thuộc hệ thống ngân hàng, đều phải chịu sự giám sát của cơ quan chuyên trách về thanh tra và giám sát ngân hàng Ngân hàng Trung ương (NHTW) thường được chỉ định là cơ quan có trách nhiệm thực hiện các hoạt động này, như NHTW Italia và NHTW Pháp.

Mô hình Cơ quan giám sát hợp nhất tập trung chức năng giám sát ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán vào một cơ quan duy nhất Cơ quan này có khả năng giám sát toàn bộ hệ thống tài chính hoặc chia thành các lĩnh vực cụ thể Nhiệm vụ của cơ quan giám sát này bao gồm thanh tra và giám sát toàn bộ lĩnh vực ngân hàng Ví dụ điển hình về mô hình này là Cơ quan giám sát tài chính HFSA của Hungary và Hội đồng Tiền tệ Quốc gia CMN của Brazil.

Mô hình giám sát lưỡng đỉnh được xây dựng dựa trên nguyên tắc giám sát theo mục tiêu, chia chức năng giám sát giữa hai cơ quan độc lập Một cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, trong khi cơ quan còn lại tập trung vào giám sát giao dịch để bảo vệ lợi ích của khách hàng Các cơ quan này có quyền chủ động trong việc giám sát và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Một số quốc gia áp dụng mô hình này bao gồm Đức, Australia, Áo, Thổ Nhĩ Kỳ và Hà Lan.

2.1.2 Phân loại theo định chế chủ thể:

Ở nhiều quốc gia, việc thực hiện và giám sát thị trường ngân hàng được giao cho các cơ quan chuyên môn, thường có tên gọi khác nhau, có thể độc lập hoặc không độc lập với các cơ quan quản lý nhà nước khác Tùy thuộc vào cấu trúc tổ chức này, các quốc gia trên thế giới áp dụng các mô hình thực hiện và giám sát thị trường ngân hàng phù hợp với điều kiện và nhu cầu của mình.

Hiện nay, có ba mô hình phổ biến trong tổ chức cơ quan TT, GSNH Mô hình đầu tiên cho thấy cơ quan này là một bộ phận thuộc cấu trúc của Ngân hàng Trung ương (NHTW), và chịu sự chỉ đạo cũng như giám sát từ NHTW.

Trước năm 2000, Hungary đã thành lập Cơ quan Tài chính Nhà nước và thị trường vốn Sau năm 2000, các cơ quan này được hợp nhất cùng với Thanh tra bảo hiểm và Thanh tra Quỹ hưu trí để tạo thành Cơ quan Giám sát Tài chính Hungary.

11 Hội đồng Tiền tệ quốc gia (CMN) chịu trách nhiệm về quản lý thanh khoản, bảo vệ tiền tệ và giám sát

Một cơ quan giám sát an toàn (prudent) có trách nhiệm đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống tài chính, trong khi một cơ quan khác tập trung vào giám sát hoạt động kinh doanh (conduct-of-business) nhằm bảo vệ lợi ích của khách hàng trong các tổ chức tài chính trên thị trường.

Có ba mô hình tổ chức cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng (TT, GSNH) tại Việt Nam Mô hình đầu tiên là cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHTW), giúp NHTW thực hiện các chức năng cơ bản Mô hình thứ hai là cơ quan TT, GSNH thuộc Bộ Tài chính, kết hợp hoạt động giám sát ngân hàng với quản lý hành chính tài chính Cuối cùng, mô hình thứ ba là cơ quan TT, GSNH độc lập, tách biệt khỏi hệ thống quản lý nhà nước.

Mặc dù ba mô hình tổ chức cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng (TT, GSNH) có sự khác biệt, nhưng mục tiêu chung của chúng là đảm bảo sự ổn định và an toàn cho hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng (TCTD) và tiền gửi của người dân Mỗi quốc gia sẽ lựa chọn mô hình phù hợp dựa trên điều kiện kinh tế xã hội riêng của mình.

Mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam

Hiện nay, các lĩnh vực trong thị trường tài chính Việt Nam như chứng khoán, ngân hàng và bảo hiểm được giám sát bởi các cơ quan như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng và Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG) cũng tham gia điều phối hoạt động giám sát toàn quốc Trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam áp dụng mô hình giám sát thể chế với hai cơ quan chính: NHNN chịu trách nhiệm giám sát trực tiếp và UBGSTCQG giám sát chung Hai cơ quan này không chồng chéo mà hỗ trợ lẫn nhau, với UBGSTCQG phối hợp chặt chẽ với NHNN trong việc tư vấn cho Thủ tướng về quản lý ngân hàng, trong khi NHNN cung cấp thông tin cần thiết cho UBGSTCQG.

Cơ quan GSNH hoạt động độc lập nhưng vẫn phối hợp chặt chẽ với các cơ quan giám sát chuyên ngành khác, như NHNN và Bộ Tài chính, để quản lý và giám sát các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước.

Mô hình GSNH theo chuyên ngành là lựa chọn lý tưởng cho các quốc gia như Việt Nam, nơi hệ thống tài chính - ngân hàng đang trong giai đoạn phát triển đầu tiên Hiện nay, các tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò chủ yếu trong các hoạt động truyền thống Tuy nhiên, trong tương lai, hệ thống ngân hàng cần có sự chuyển mình để thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh tế.

Luận văn của Nguyễn Thị Ngọc Lan (2014) tập trung vào các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động thanh tra, giám sát của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước tại Hà Nội Nghiên cứu được thực hiện tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội và trình bày những phân tích sâu sắc về vai trò và hiệu quả của các hoạt động thanh tra trong lĩnh vực ngân hàng Các trang 31-33 của luận văn cung cấp những thông tin quan trọng về quy trình và thách thức trong công tác thanh tra, giám sát.

14 Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm đều thuộc Bộ Tài chính

Việc phát triển các sản phẩm liên kết đa lĩnh vực như ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm tại Việt Nam đang gặp khó khăn do mô hình hiện tại không còn phù hợp Một trong những thách thức lớn là xác định rõ trách nhiệm giám sát giữa Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan giám sát tài chính khác.

Việt Nam hiện áp dụng mô hình cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (TT,GSNH) trực thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), với ưu điểm là sự chuyên môn hóa giúp nắm bắt rõ ràng hoạt động của đối tượng thanh tra Tuy nhiên, NHNN vừa xây dựng cơ chế hoạt động cho ngân hàng, vừa thực hiện thanh tra giám sát, dẫn đến thiếu minh bạch trong phát hiện sai phạm Hệ thống giám sát hiện tại có sự chồng chéo giữa NHNN và Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG), cần có quy định rõ ràng về phối hợp giữa các cơ quan Để khắc phục nhược điểm, cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan giám sát tài chính, nâng cao vị thế của UBGSTCQG và xây dựng hành lang pháp lý riêng cho cơ quan này, đồng thời thường xuyên rà soát, kiện toàn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng.

TT,GSNH, chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao

Mô hình thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa Kỳ

Việt Nam và Hoa Kỳ có sự khác biệt rõ rệt trong cơ chế tài chính ngân hàng do đặc điểm kiểu nhà nước và hình thức nhà nước khác nhau Việt Nam theo mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi Hoa Kỳ áp dụng hệ thống tư bản Sự khác biệt này ảnh hưởng đến cách thức quản lý và phát triển lĩnh vực tài chính ngân hàng ở mỗi quốc gia.

Hoa Kỳ và Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt trong mô hình nhà nước và hệ thống tài chính do tính chất liên bang của Hoa Kỳ, yêu cầu thực thi các quy định riêng của từng bang bên cạnh các quy định chung của chính phủ Định hướng phát triển kinh tế và quá trình phát triển thị trường tài chính – tiền tệ giữa hai quốc gia cũng khác nhau về quy mô, sự đa dạng và cấu trúc ngành, dẫn đến hệ thống tài chính không giống nhau Vì vậy, mô hình thị trường và giao dịch ngân hàng của Hoa Kỳ được thực hiện theo hướng hoàn toàn khác biệt so với Việt Nam.

Mô hình giám sát ngân hàng (GSNH) tại Hoa Kỳ là một trường hợp đặc biệt, không hoàn toàn giống với các mô hình GSNH theo đối tượng khác Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính và các định chế tài chính đã tạo ra một mô hình GSNH độc đáo, kết hợp nhiều phương pháp giám sát khác nhau Trong khi hệ thống ngân hàng trung ương chỉ có một cơ quan duy nhất là FED, việc giám sát các ngân hàng thương mại lại được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, áp dụng cả phương pháp quản lý truyền thống và phương pháp đổi mới theo chức năng.

Tùy thuộc vào quy mô và tính chất của đối tượng giám sát, các cơ quan có quyền thanh tra và giám sát ngân hàng tại Hoa Kỳ được phân chia thành ba nhóm: ngân hàng lớn, trung bình và vừa Ngân hàng lớn bao gồm các ngân hàng Liên bang và NHTM cổ phần cấp quốc gia, cũng như các công ty tài chính sở hữu ngân hàng do FED cấp phép Các ngân hàng cấp quốc gia và liên bang còn lại, cũng như các ngân hàng thành viên của tập đoàn tài chính xuyên quốc gia, sẽ do OCC cấp phép và thanh tra Ngân hàng trung bình và vừa, không phải là thành viên của FED, sẽ được FDIC cấp phép và thanh tra, trong khi các quỹ và ngân hàng chuyên đầu tư bất động sản sẽ do Cục giám sát tiết kiệm (OTS) quản lý Đối với các quỹ và ngân hàng cung cấp dịch vụ tín dụng hoặc chứng khoán trong các Liên minh tín dụng, NCUA sẽ là cơ quan cấp phép và giám sát Các NHTW cấp liên bang có trách nhiệm thanh tra các ngân hàng thành viên của mình.

Cơ quan Thrift Supervision (OTS) là một phần của Bộ Tài chính Hoa Kỳ, không chịu trách nhiệm về việc ban hành và thực thi các quy định liên quan đến tiết kiệm và cho vay Vào năm 2011, OTS đã được sáp nhập với một số cơ quan khác, bao gồm Văn phòng Kiểm soát tiền tệ, Tổng công ty BHTG Liên bang (FDIC), Hội đồng quản trị dự trữ liên bang và Cục Bảo vệ tài chính tiêu dùng (CFPB).

Cơ quan Quản lý Liên minh Tín dụng Quốc gia, được thành lập bởi Quốc hội Hoa Kỳ vào năm 1970, là một cơ quan liên bang độc lập chịu trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi tại các công đoàn tín dụng Cơ quan này bảo vệ quyền lợi của các thành viên sở hữu công đoàn tín dụng và thực hiện việc điều lệ cũng như điều chỉnh các công đoàn tín dụng liên bang.

18 mình Có thể thấy, các đối tượng này chịu sự quản lý và thanh tra, giám sát của chủ thể cấp phép (theo truyền thống)

Chính phủ Hoa Kỳ và các cơ quan quản lý không can thiệp vào hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, và tổ chức cấp phép cũng không phải là cơ quan thanh tra chính của ngân hàng hay TCTD Ngân sách nhà nước Hoa Kỳ không cung cấp vốn cho bất kỳ cơ quan thanh tra nào, bao gồm cả Ngân hàng Trung ương, dẫn đến tình trạng thanh tra, giám sát ở Hoa Kỳ trở nên "vô chính phủ" Đặc biệt, điều lệ ngân hàng có thể ảnh hưởng đến hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra và giám sát ngân hàng tại Hoa Kỳ.

Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng (TT, GSNH) tại Hoa Kỳ được quy định trong hệ thống giám sát tài chính, cho phép một định chế tài chính có thể bị giám sát bởi nhiều cơ quan khác nhau Quyền thanh tra và giám sát được chia sẻ giữa các cơ quan quản lý tùy thuộc vào tính chất và quy mô sản phẩm Ví dụ, các ngân hàng kinh doanh đa năng sẽ chịu sự thanh tra của cơ quan GSNH đối với dịch vụ phi ngân hàng quy mô nhỏ, trong khi các dịch vụ phi ngân hàng có doanh thu lớn (trên 20% tổng doanh thu) sẽ được giám sát bởi các công ty thanh tra chuyên ngành khác, với điều kiện phải tổ chức hoạch toán riêng hoặc thành lập công ty con.

Hệ thống thanh tra và giám sát ngân hàng tại Hoa Kỳ cho phép các tổ chức được quản lý bởi cả liên bang và tiểu bang, có thể thuộc về FED hoặc không FED cùng với các cơ quan quản lý liên bang khác và các bộ phận ngân hàng của từng bang chia sẻ trách nhiệm trong việc giám sát và quản lý các ngân hàng trong nước.

Để xác định chủ thể thanh tra, giám sát của ngân hàng thương mại (NHTM) hay tổ chức tín dụng (TCTD) tại Hoa Kỳ, cần xem xét liệu định chế tài chính đó có thuộc đối tượng thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý và cấp phép hay không Ngoài ra, cần kiểm tra xem định chế này có phải là thành viên của Cục Dự trữ Liên bang (FED) và tuân thủ theo pháp luật tiểu bang hay liên bang Cấu trúc giám sát dịch vụ tài chính - ngân hàng tại Hoa Kỳ được đánh giá là phức tạp, phản ánh nhiều yếu tố khác nhau.

17 Nguyễn Đại Lai (2008),“Mô hình thanh tra-giám sát tài chính của Mỹ và kiến nghị đối với Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 20(10/2008), tr.40

18 Nguyễn Đại Lai (2008), tlđd (14), tr 39-40

Liên bang Hoa Kỳ có 19 chi nhánh, có khả năng ứng phó hiệu quả với các cuộc khủng hoảng tài chính Các chi nhánh này cung cấp giải pháp cho những vấn đề cụ thể và thể hiện nỗ lực hiện đại hóa hệ thống tài chính theo thời gian.

Hoa Kỳ hiện áp dụng Mô hình thứ ba trong định chế chủ thể, với các cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng hoạt động độc lập và cạnh tranh quyền giám sát lẫn nhau, tách bạch khỏi các cơ quan quản lý nhà nước khác Mô hình này đảm bảo tính độc lập và công bằng trong hoạt động thanh tra, giám sát, góp phần bảo vệ nền kinh tế - tiền tệ quốc gia Ưu điểm của mô hình hiện tại là sự thông suốt trong hoạt động giám sát giữa cơ quan cấp phép và tổ chức tín dụng, đồng thời cho phép giám sát hiệu quả các tổ chức nhỏ hoặc chỉ cung cấp dịch vụ hạn chế Với cấu trúc nhiều lớp và xu hướng đa giám, mô hình này phù hợp với sự đa dạng của các công cụ tài chính và chủ thể tham gia trên thị trường, từ đó hạn chế rủi ro tiềm ẩn cho an ninh tài chính quốc gia, bao gồm cả khủng hoảng tài chính.

Việc xác định liệu hoạt động của một TCTD có thuộc sự quản lý của cơ quan chuyên trách về thanh tra và giám sát ngân hàng của Hoa Kỳ hay không là rất khó khăn Hơn nữa, sự thiếu can thiệp của chính phủ trong cơ chế thanh tra và giám sát đã dẫn đến tình trạng các chủ thể trong lĩnh vực giám sát ngân hàng cạnh tranh lẫn nhau thay vì hợp tác, gây ra sự chồng chéo và thiếu thống nhất Trong bối cảnh đó, tốc độ phát triển của ngành ngân hàng tại Hoa Kỳ ngày càng gia tăng.

Hệ thống ngân hàng đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, nhưng sự phức tạp của nó khiến các cơ quan quản lý thường phải đối mặt với rủi ro thay vì ngăn chặn Các hội nghị của lãnh đạo cơ quan GSNH thường chỉ được tổ chức khi các định chế tài chính đã đạt đến mức nguy cơ cao Do đó, Hoa Kỳ cần củng cố hệ thống tài chính và GSNH của mình, đặc biệt là tăng cường sự phối hợp giữa các bên liên quan, để phù hợp với sự phát triển của thị trường Điều này không chỉ quan trọng cho chính Hoa Kỳ mà còn có tác động lớn đến thị trường tài chính toàn cầu.

Bài viết của Phạm Thị Ánh Phượng đề cập đến các mô hình giám sát tài chính trên thế giới và những hàm ý quan trọng đối với Việt Nam Tác giả phân tích các phương pháp giám sát tài chính hiện đại, nhấn mạnh sự cần thiết phải áp dụng những mô hình hiệu quả để cải thiện hệ thống tài chính quốc gia Nội dung bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức mà các quốc gia khác thực hiện giám sát tài chính, từ đó rút ra bài học quý giá cho Việt Nam trong việc nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của quản lý tài chính.

Chương 2 phân tích và so sánh mô hình TT,GSHTNH của Việt Nam với Hoa Kỳ:

SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ THANH TRA, GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM VỚI HOA KỲ

Quy định về chủ thể Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng

3.1.1 Quy định về chủ thể Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam

Trước cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và cơ quan Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng Cơ sở pháp lý cho hoạt động này được quy định trong Luật NHNN năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) và các luật liên quan như Luật các tổ chức tín dụng, Luật Thanh tra, cùng với Nghị định 91/1999/NĐ-CP, tạo nền tảng cho việc nâng cao hiệu quả của thanh tra ngân hàng Hoạt động giám sát ngân hàng về BHTG được quy định tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 109/2005/NĐ-CP.

Chức năng thanh tra, giám sát ngân hàng (TT, GSNH) chủ yếu thuộc về Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và được giao cho cơ quan chuyên môn là Thanh tra Ngân hàng (TTNH) Kể từ khi Luật NHNN được ban hành năm 1997, TTNH đã trở thành đơn vị thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về ngân hàng, hỗ trợ Thống đốc NHNN trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo quy định của pháp luật Chánh thanh tra NHNN là người điều hành hoạt động của TTNH, cơ quan này có con dấu riêng để sử dụng Hệ thống TTNH bao gồm Thanh tra NHNN, giám sát toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng nhà nước, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và các tổ chức tín dụng liên doanh, cùng với Thanh tra chi nhánh NHNN tại các tỉnh, thành phố, thực hiện giám sát đối với các tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân.

21 Điều 1 đến Điều 3 Quyết định 1675/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của TTNH do Thống đốc NHNN ban hành

22 của TCTD phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân khu vực, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 22

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện chức năng giám sát thông qua việc kiểm tra và thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng, cũng như giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng NHNN có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

Trong giai đoạn này, hoạt động Giám sát Ngân hàng (GSNH) chưa được chú trọng và quy định rõ ràng, vai trò của GSNH còn mờ nhạt, chỉ là một phần "kiêm nhiệm" của cơ quan Thanh tra Ngân hàng (TTNH) Nguyên nhân một phần do Luật Ngân hàng mới ra đời và thị trường ngân hàng Việt Nam còn ở giai đoạn khởi đầu, khiến các nhà lập pháp chưa lường trước được rủi ro thực tiễn Thực tế đã chứng minh điều này qua hàng loạt vụ án ngân hàng và hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, buộc họ phải xem xét và điều chỉnh quy định về hoạt động TT và GSH của ngân hàng.

Sau năm 2007, hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng tại Việt Nam đã có nhiều thay đổi quan trọng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Mô hình hoạt động này ngày càng được hoàn thiện, với sự chú trọng vào các quy định trong bối cảnh hội nhập kinh tế thị trường Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 đã sửa đổi và bổ sung nhiều nội dung liên quan đến giám sát và thanh tra so với luật năm 1997, đặc biệt là các quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Đồng thời, nhiều văn bản dưới luật như Nghị định 26/2014/NĐ-CP và Thông tư 03/2015/TT-NHNN cũng đã được ban hành để điều chỉnh hoạt động thanh tra, giám sát ngành ngân hàng, góp phần tạo ra khung pháp lý rõ ràng và hiệu quả hơn.

CP do Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành 25; Quyết định 20/2019/QĐ-TTg quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Tương tự giai đoạn trước 2007, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã giao chức năng thanh tra, giám sát ngân hàng cho một cơ quan chuyên trách, gọi là cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng Cơ quan này thuộc hệ thống thanh tra Nhà nước và được tổ chức thành hai nhánh.

22 Phan Thị Mai Trang (2014), tlđd (4), tr.51-52

Điểm 23 khoản 1 Điều 5 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 và điểm c khoản 5 Điều 2 Nghị định 52/2003/NĐ-CP quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, góp phần tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng trong nước.

24 Được sửa đổi bởi Nghị định 43/2019/NĐ-CP

25 Được sửa đổi bởi Thông tư 08/2019/TT-NHNN; Văn bản hợp nhất 17/VBHN-NHNN năm 2019 hợp nhất Thông tư hướng dẫn Nghị định 26/2014/NĐ-CP

Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng (TT,GSNH) trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là đơn vị tương đương Tổng cục, có tư cách pháp nhân độc lập Vai trò của Cơ quan TT,GSNH bao gồm thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, đồng thời tham mưu cho Thống đốc NHNN trong việc quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính quy mô nhỏ Cơ quan này cũng thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền theo quy định pháp luật Các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan TT,GSNH được quy định chi tiết trong Quyết định số 20/2019/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Theo quy định mới, Cơ quan TTNH và GSNH hiện nay phối hợp chặt chẽ, đảm nhiệm trách nhiệm ngang nhau trong việc thực hiện chức năng của mình.

UBGSTCQG, một tổ chức mới được thành lập ở Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007, có vai trò quan trọng trong việc giám sát lĩnh vực ngân hàng Hoạt động giám sát ngân hàng (GSNH) sẽ được chỉ đạo thống nhất bởi Thủ tướng Chính phủ, do đó, UBGSTCQG và Cơ quan TT, GSNH của NHNN Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ để tư vấn cho Thủ tướng về các chính sách và quy chế liên quan đến giám sát ngân hàng.

Giai đoạn sau năm 2007 chứng kiến sự thay đổi lớn trong cơ chế giám sát hoạt động ngân hàng, đặc biệt là về mặt chủ thể Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống TCTD về quy mô, số lượng vốn và tài sản đã yêu cầu cải thiện các quy định pháp luật liên quan đến giám sát ngân hàng Bài học từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế giám sát, dẫn đến sự ra đời của hai chủ thể quan trọng: cơ quan TT, GSNH và UBGSTCQG, chuyển đổi cơ chế giám sát từ đơn thành kép Tuy nhiên, UBGSTCQG thực hiện quyền giám sát chung cho toàn bộ thị trường tài chính, dễ dẫn đến chồng chéo thông tin và chức năng giữa các lĩnh vực Hiện nay, chưa có quy định cụ thể nào điều chỉnh vấn đề giám sát của UBGSTCQG, do đó cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý rõ ràng để phân định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan trong hệ thống giám sát, đồng thời quy định chặt chẽ hơn về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này.

26 Điều 6 Nghị định 26/2014/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 43/2019/NĐ-CP)

3.1.2 Quy định về chủ thể thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Hoa

Thanh tra và giám sát của các cơ quan GSNH đã có mặt từ sớm tại Hoa Kỳ, với nhiều tổ chức quan trọng như Cục Dự trữ Liên bang (FED), Cục Kiểm soát Tiền tệ Liên bang (OCC), Văn phòng Giám sát Quỹ Tiết kiệm (OTS) và Công ty BHTG Liên bang (FDIC) Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích ba cơ quan GSNH chủ chốt tại Hoa Kỳ, bao gồm OCC, FED và FDIC.

Sự ra đời và vị thế trước năm 2007

Cục Kiểm soát Tiền tệ Liên bang (OCC) được thành lập theo Đạo Luật Tiền tệ Quốc gia năm 1863 và Đạo luật Ngân hàng Quốc gia năm 1864, với mục tiêu giám sát hệ thống ngân hàng quốc gia mới ra đời và đảm bảo tuân thủ các quy định liên bang OCC hoạt động dưới sự lãnh đạo của một Comptroller do Tổng thống bổ nhiệm, và có trách nhiệm phối hợp với các ngân hàng để khắc phục vi phạm Mặc dù cơ chế này giúp đảm bảo tính thanh toán và khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nhưng vẫn không thể ngăn chặn khủng hoảng do sự phụ thuộc vào sự chấp thuận nội bộ của ngân hàng trong công tác thanh tra Quản trị rủi ro nội bộ không đủ mạnh để phòng ngừa các cuộc khủng hoảng tài chính.

Trước năm 2007, OCC hoạt động như một văn phòng độc lập thuộc Bộ Tài chính Hoa Kỳ, đảm nhận vai trò điều hành, quản lý và giám sát chính trong lĩnh vực tài chính.

Quy định về đối tượng Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng

3.2.1 Quy định về đối tượng Thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng tại Việt Nam Đối tượng của hoạt động TT,GSHTNH tại Việt Nam là những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý là Cơ quan TT,GSNH; bao gồm đối tượng thanh tra và đối tượng giám sát của Cơ quan TT,GSNH Đối tượng TTNH theo quy định pháp luật bao gồm 35 :

Cơ quan, tổ chức và cá nhân nằm trong phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), ngoại trừ các đối tượng được quản lý bởi các chi nhánh của NHNN theo sự phân công của Thống đốc NHNN.

- Đối tượng TTNH được quy định tại Điều 52 Luật NHNN Việt Nam, bao gồm cả ngân hàng chính sách và công ty con của TCTD, cụ thể 37 :

Tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, cùng với các tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng, đều phải có trụ sở đặt tại địa bàn nơi có Cục Thanh tra, Giám sát Ngân hàng Trong những trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thanh tra hoặc phối hợp thanh tra đối với các công ty con và công ty liên kết của tổ chức tín dụng.

Khoản 1 Điều 2 Nghị định 26/2014/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng, đã được sửa đổi bởi Nghị định 43/2019/NĐ-CP, nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả trong công tác thanh tra và giám sát, bảo đảm sự minh bạch và ổn định cho hệ thống ngân hàng.

Điểm 36, khoản 1, Điều 4 của Thông tư 03/2015/TT-NHNN, hướng dẫn Nghị định 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng, do Thống đốc NHNN ban hành và được sửa đổi bởi Thông tư 08/2019/TT-NHNN, quy định các nguyên tắc và quy trình thanh tra, giám sát nhằm đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả của hệ thống ngân hàng.

37 Điều 52 “Đối tượng TTNH” - Luật NHNN Việt Nam 2010

38 Điểm d, h khoản 1 Điều 4 Thông tư 03/2015/TT-NHNN

Các tổ chức hoạt động ngoại hối, kinh doanh vàng, cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng và dịch vụ trung gian thanh toán không phải ngân hàng cần có trụ sở tại khu vực có Cục Thanh tra, Giám sát Ngân hàng.

Ba là cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến tiền tệ và ngân hàng, thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

- Doanh nghiệp nhà nước do Thống đốc NHNN quyết định thành lập; (Ví dụ: Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam 40 )

Đối tượng báo cáo chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, được quy định trong pháp luật về phòng, chống rửa tiền.

Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm tuân thủ các quy định pháp luật trong các lĩnh vực mà Ngân hàng Nhà nước quản lý.

Đối tượng của thanh tra ngân hàng (TTNH) bao gồm tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD), hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải TCTD được Ngân hàng Nhà nước (NHTW) cho phép, và việc thực hiện các quy định pháp luật về tiền tệ và ngân hàng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân Tất cả các đối tượng này đều có điểm chung là thực hiện các hoạt động ngân hàng, cần được thanh tra để đảm bảo an toàn do tính nhạy cảm và rủi ro cao liên quan đến tiền tệ Nếu rủi ro vượt quá ngưỡng cho phép, nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Theo quy định pháp luật, đối tượng giám sát ngân hàng (GSNH) bao gồm 41 trường hợp cụ thể.

Đối tượng GSNH được quy định tại Điều 56 Luật NHNN Việt Nam bao gồm ngân hàng chính sách và các công ty con của tổ chức tín dụng Cụ thể, NHNN thực hiện GSNH cho mọi hoạt động của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài Trong những trường hợp cần thiết, NHNN có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát hoặc phối hợp giám sát các công ty con và công ty liên kết của tổ chức tín dụng.

39 Điểm n khoản 1 Điều 4 Thông tư 03/2015/TT-NHNN

40 Điểm k khoản 1 Điều 4 Thông tư 03/2015/TT-NHNN

41 Khoản 2 Điều 2 Nghị định 26/2014/NĐ-CP

42 Điều 56 “Đối tượng GSNH” - Luật NHNN Việt Nam 2010

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát công ty con và công ty liên kết của tổ chức tín dụng nhằm ngăn chặn rủi ro sở hữu chéo Điều này cho thấy NHNN đang tăng cường thanh tra giám sát các tập đoàn tài chính, với công ty mẹ là tổ chức tín dụng Trước đây, hoạt động của các tập đoàn tài chính đã làm gia tăng vấn đề sở hữu chéo, xung đột lợi ích, và tiềm ẩn rủi ro lây lan Hệ thống thanh tra giám sát hiện tại còn hạn chế trong việc phát hiện và điều chỉnh các vấn đề tiềm ẩn rủi ro hệ thống, tạo ra khoảng trống pháp lý lớn, đe dọa an toàn hệ thống tài chính.

- Đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền;

- Đối tượng khác theo quy định của pháp luật

Thông tư 03/2015/TT-NHNN, do Thống đốc nhà nước ban hành, cung cấp hướng dẫn chi tiết về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng Thông tư này liệt kê rõ ràng các đối tượng giám sát ngân hàng của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đều thuộc diện thanh tra ngân hàng của cơ quan này.

Cơ quan TT, GSNH thực hiện giám sát an toàn vĩ mô đối với toàn bộ hệ thống các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài Ngoài ra, một số đối tượng không thuộc GSNH như văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài có hoạt động ngân hàng, tổ chức ngoại hối, kinh doanh vàng, và tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải ngân hàng cũng được theo dõi Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh sẽ theo dõi các đối tượng này tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt trụ sở của NHNN chi nhánh, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.

Thanh tra giám sát ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính Việc tăng cường các biện pháp giám sát không chỉ giúp phát hiện sớm các rủi ro mà còn bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và duy trì sự ổn định của nền kinh tế Hệ thống ngân hàng cần được cải thiện để đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn cao hơn, từ đó tạo niềm tin cho người dân và nhà đầu tư.

44 “Quy định về đối tượng TTNH,GSNH”, https://ndh.vn/ngan-hang/quy-inh-ve-oi-tuong-thanh-tra- ngan-hang-giam-sat-ngan-hang-1226420.html, truy cập ngày 08/5/2021

Ngày đăng: 25/04/2022, 11:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (Luật số 46/2010/QH12) ngày 16/6/2010 Khác
2. Luật các Tổ chức tín dụng (Luật số 47/2010/QH12) ngày 16/6/2010 Khác
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng (Luật số 17/2017/QH14) ngày 20/11/2017 Khác
4. Nghị định số 26/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/4/2014 quy định về Tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng Khác
5. Nghị định số 43/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2014/NĐ-CP Khác
6. Thông tư số 03/2015/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 20/3/2015 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 26/2014/NĐ-CP Khác
7. Thông tư số 08/2019/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04/7/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 03/2015/TT-NHNN Khác
8. Văn bản hợp nhất số 16/VBHN-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 27/5/2019 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng Khác
9. Quyết định số 1675/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 23/12/2004 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng Khác
10. Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/5/2009 quy định Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w