Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã trải qua nhiều thay đổi từ sau chiến tranh 1975, chuyển từ thù địch sang bạn hữu Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn trong việc xây dựng lòng tin và những bài học kinh nghiệm cho tương lai Trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, có hai quan điểm chính: một là sự hoài nghi về mức độ phát triển quan hệ do các yếu tố cấu trúc và quốc gia, nhưng vẫn nhấn mạnh tầm quan trọng của một mối quan hệ toàn diện; hai là sự ủng hộ cho việc phát triển mối quan hệ quốc phòng đến mức liên minh quân sự Lê Văn Quang lập luận rằng cơ hội trong quan hệ Việt - Mỹ không chỉ do nhận định từ phía Việt Nam, mà còn do chính sách thù địch của Hoa Kỳ, như cấm vận và hỗ trợ chính quyền Khmer Rouge Edwin A Martini cũng chỉ ra rằng Mỹ vẫn tiếp tục chống lại Việt Nam qua nhiều phương thức khác nhau, đồng thời xem xét cách mà văn hóa và ký ức chiến tranh ảnh hưởng đến quan hệ hai nước.
1 Lê Văn Quang (2005), Quan hệ Việt Mỹ thời kì sau Chiến Tranh Lạnh 1990-2000, Nxb Đại học Quốc Gia thành phố
Hồ Chí Minh và Thành phố Hồ Chí Minh đã từng trải qua mối quan hệ thù địch, và di sản chiến tranh sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến các thế hệ sau, đòi hỏi Việt Nam phải có giải pháp ứng xử phù hợp Nghiên cứu của Trần Nam Tiến về quan hệ Việt - Mỹ giai đoạn 1975-2005 chỉ ra rằng mối quan hệ này vừa hợp tác vừa đấu tranh do sự khác biệt về chế độ chính trị Cả hai nước đều hướng đến việc "khép lại quá khứ" để tập trung vào lợi ích chung Các tác giả như Nguyễn Anh Cường và Bùi Thị Phương Lan cũng nhấn mạnh sự khác biệt trong hệ thống chính trị giữa Việt Nam và Mỹ, trong khi Việt Nam lại có những điểm chung với Trung Quốc, điều này khiến Mỹ lo ngại Những yếu tố này đã được đề cập khi thảo luận về mối quan hệ chiến lược giữa hai nước trong thế kỷ 21.
Kỳ giai đoạn 2003 - 2007, tác giả Đặng Đình Quý cho rằng đây là mối quan hệ giữa lợi ích
Chiến lược và lợi ích "phổ biến giá trị" trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam chịu ảnh hưởng từ nhiều nhân tố như lịch sử, văn hóa, xã hội, thể chế chính trị và di sản địa chính trị Các nhóm lợi ích trong nội bộ Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến chính sách này, dẫn đến những bất đồng về các "giá trị" giữa hai nước Những áp lực về tự do, dân chủ, nhân quyền và tôn giáo từ các nhóm này đã ảnh hưởng đến mối quan hệ Mỹ - Việt, trong khi lợi ích chiến lược của Mỹ cũng gặp phải những thách thức nhất định.
2 Martini, Edwin (2007), Invisible Enemies: The American War on Vietnam, 1975-2000, University of
3 Nguyễn Mại chủ biên (2007), Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: hướng về phía trước, Nxb Tri Thức, Hà Nội
4 Trần Nam Tiến (2010), Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: Thực trạng và Triển vọng, Nxb Thông tin và Truyền Thông,
Quá trình bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1976 đến 2006 đã được phân tích trong tác phẩm của Nguyễn Anh Cường (2015), trong khi Nguyễn Thái Yên Hương (2008) đã thảo luận về vai trò của Mỹ trong các vấn đề toàn cầu sau Chiến tranh Lạnh Các nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự thay đổi trong mối quan hệ quốc tế và ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1994 đến 2010 chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư duy địa chiến lược, trong đó việc Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập quốc tế được xem là lợi ích chiến lược của chính quyền Bush Tuy nhiên, những trở ngại như vấn đề nhân quyền vẫn là yếu tố quan trọng tác động đến hợp tác quân sự giữa hai nước Theo tác giả Lê Chí Dũng, những khác biệt này được coi là "nhân tố cơ chế/nguyên tắc" sẽ tiếp tục ảnh hưởng lâu dài tới quan hệ Việt - Mỹ.
Tác giả Vũ Thị Thu Giang nhận định rằng chính sách của Mỹ đầu thế kỷ 21 có tính hai mặt, vừa cải thiện quan hệ với Việt Nam vừa thực hiện chiến lược chuyển hóa thông qua "diễn biến hòa bình" Dưới chính quyền Tổng thống Bush, quan hệ Việt – Mỹ không có nhiều thay đổi, nhưng tiến trình bình thường hóa vẫn tiếp tục Hợp tác giữa hai nước tập trung vào khắc phục hậu quả chiến tranh, giáo dục, kinh tế, khoa học kỹ thuật và các vấn đề xã hội phát triển, phù hợp với lợi ích của Việt Nam Các lĩnh vực nổi bật trong hợp tác quốc phòng bao gồm giải quyết hậu quả chiến tranh, hợp tác đào tạo, quân y, hỗ trợ mua sắm khí tài, chống khủng bố và trao đổi quân sự Việt Nam được xem là có vai trò quan trọng trong chiến lược của Mỹ tại Đông Nam Á, với lợi ích của cả hai bên cần được đảm bảo.
7 Đặng Đình Quý (2012), Quan hệ Mỹ - Việt Nam (2003-2007), Luận án tiến sĩ Nguồn: http://luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTcFlGvQlSzK2012.1.16&e= -vi-20 1 txt-txIN%7CtxME -# (truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020)
8 Hierbert, Murray, Phuong Nguyen & Gregory B Poling (2014), “A New Era in U.S.-Vietnam Relations: Deepning Ties Two Decades after Normalization,” CSIS, tr 3
Lê Chí Dũng (2015) trong luận án tiến sĩ của mình đã phân tích quy trình hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ, đặc biệt là trường hợp xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Mỹ Tài liệu này có thể được tham khảo tại địa chỉ https://dav.edu.vn/wp-content/uploads/2016/02/Luan-an-tien-si-NCS-Le-Chi-Dung.pdf, với thông tin truy cập vào ngày 7 tháng 5 năm 2020.
Quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam từ năm 1991 đến 2006 là một chủ đề quan trọng trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, được trình bày trong luận án tiến sĩ của Vũ Thị Thu Giang (2011) Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của mối quan hệ giữa hai quốc gia trong giai đoạn này, với nhiều thông tin quý giá từ nguồn tài liệu đáng tin cậy Nghiên cứu này có thể truy cập tại địa chỉ: http://luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTcFfqzCSHwC2011&e= -vi-20 1 img-txIN -, với ngày truy cập là 7 tháng 5 năm 2020.
11 Lê Đình Tĩnh (2001), “Vài suy nghĩ về triển vọng chính sách châu Á- Thái Bình Dương của chính quyền Bush,”
Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế 1 (38), tr 24-32
12 Nguyễn Thái Yên Hương (2008), “Mỹ và các vấn để toàn cầu thời kỳ sau Chiến tranh lạnh,” Tạp chí Nghiên cứu
Trong nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, Ngô Xuân Bình (2014) chỉ ra rằng vẫn tồn tại nhiều ngờ vực giữa hai bên Chúc Bá Thuyên nhấn mạnh rằng Mỹ thường xuyên chỉ trích Việt Nam qua các báo cáo nhân quyền và hỗ trợ các tổ chức đối kháng như "Nhà nước Đề-ga độc lập" Ông cho rằng Mỹ sử dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để áp đặt giá trị của mình, từ đó ảnh hưởng đến chính trị xã hội Việt Nam Ruonan Liu và Xuefeng Sun cũng khẳng định rằng sự thận trọng của Việt Nam trước áp lực từ các giá trị dân chủ kiểu Mỹ và chủ nghĩa dân tộc chống Trung Quốc đã định hình chính sách an ninh của nước này từ sau Chiến tranh Lạnh Mặc dù có sự khác biệt, nhưng điều này chứng tỏ chính sách nhất quán và kiên định của Việt Nam, điều mà các nhà lãnh đạo nước này tự hào khi theo đuổi chiến lược đối ngoại độc lập, tránh làm thay đổi cân bằng quyền lực trong khu vực.
Sau khi bình thường hóa quan hệ, giai đoạn đầu thiếu sự chia sẻ lợi ích chiến lược, dẫn đến hợp tác an ninh, quân sự, quốc phòng rất hạn chế Tuy nhiên, tranh luận về hợp tác quốc phòng gia tăng từ khi chính quyền Tổng thống Barack Obama điều chỉnh chiến lược tại khu vực châu Á Mối quan hệ song phương, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và an ninh, ngày càng được thể hiện qua các chuyến thăm và trao đổi thường xuyên giữa hai bên.
Trong bài viết của Lê Văn Cương (2003), tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy quan hệ Việt-Mỹ trong bối cảnh mới, đồng thời đề cập đến những thách thức và cơ hội trong quá trình hợp tác Bài viết của Lê Linh Lan (2005) phân tích quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, rút ra những kinh nghiệm và bài học quý giá cho việc xây dựng mối quan hệ bền vững trong tương lai Cả hai tác phẩm đều góp phần làm sáng tỏ những bước tiến quan trọng trong quan hệ quốc tế giữa Việt Nam và Mỹ.
15 Chúc Bá Tuyên, “Nhìn lại quan hệ Việt – Mỹ: Thành tựu và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam,” Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế 1 (100), tr 203-216
16 Liu, Ruonan & Xuefeng Sun (2015), “Regime Security First: Explaining Vietnam’s Security Policies Towards the United States and China (1992-2012),” The Pacific Review 28 (5), 755-778
17 Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), “Hợp tác Việt – Mỹ trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình,” Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế 2 (97), tr 191-208
18 Hierbert, Murray, Phuong Nguyen & Gregory B Poling (2014), tlđd, CSIS, tr 3
Trong bài viết của Nguyen Phuong (2018), tác giả phân tích sự phát triển của lòng tin chiến lược trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, nêu rõ rằng mặc dù có tiến bộ trong hợp tác quốc phòng, nhưng sự hoài nghi vẫn tồn tại Quan điểm này cho rằng những yếu tố cấu trúc, đặc biệt là sự ảnh hưởng của Trung Quốc, cùng với sự lựa chọn chiến lược của hai bên, đã cản trở việc xây dựng nền tảng cho lợi ích chung Dù Việt Nam theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương và nỗ lực cân bằng mối quan hệ với các cường quốc, nhưng vẫn có sự e ngại trong việc hợp tác sâu rộng với Mỹ do khác biệt về ý thức hệ Tác giả Vũ Tường nhấn mạnh rằng Việt Nam không hoàn toàn xem Mỹ là đồng minh, trong khi vẫn phải đối mặt với các hành vi gây hấn từ Trung Quốc trên Biển Đông.
Kể từ khi Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tuyên bố "đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ" trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ năm 2013, mối quan hệ giữa hai nước đã trở thành một "đối tác chiến lược" Theo các tác giả Joseph M Siracusa, Hằng Nguyễn và Murray Hierbert, để phát triển quan hệ này, hai nước cần đầu tư nhiều hơn vào ba trụ cột chính là chính trị và an ninh, thương mại và đầu tư, cũng như ngoại giao nhân dân Ba yếu tố này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hiểu biết và xây dựng lòng tin chính trị giữa hai bên Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lĩnh vực và khoảng cách cần cải thiện để tiến tới một mối quan hệ sâu rộng hơn.
20 Hierbert, Murray, Phuong Nguyen & Gregory B Poling (2014), tlđd, CSIS, tr 1
21 Stern, Lewis M (2009), U.S.-Vietnam Defense Relations: Deepening Ties, Adding Relevance Nguồn: https://www.files.ethz.ch/isn/121075/SF246.pdf (truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2019)
22 Thayer, Carlyle (2016), “Vietnam’s Proactive International Integration: Case Studies in Defense Cooperation,”
Vietnamese National University Journal of Science 32 (1S), 25–47; Carlyle A (2017), Vietnam’s foreign policy in an era of rising Sino-US competition and increasing domestic political influence, Asian Security 13 (3), 183-199
23 Tường Vũ (2017), Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology, Cambridge University Press, New York, tr 286
24 Stern, Lewis M (2014), “The New Vietnamese Vocabulary for Foreign and Defense Cooperation,” East West
Center Nguồn: https://www.eastwestcenter.org/sites/default/files/private/apb253_1.pdf (truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2019)
25 Siracusa, Joseph M & Hằng Nguyễn (2017), “Vietnam – U.S Relations: An Unparalleled History,” Orbis 61(3), tr 404-422; Hierbert, Murray, Phuong Nguyen & Gregory B Poling (2014), tlđd, CSIS, tr vii
Tác giả Carlyle A Thayer nhấn mạnh rằng Việt Nam kiên định theo đuổi chính sách “ba không”, không tham gia liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, và không cho phép đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Mặc dù lợi ích chiến lược giữa Việt Nam và Mỹ có những điểm chung, như quan điểm về an ninh quốc tế và các vấn đề tranh chấp Biển Đông, chúng vẫn chưa hoàn toàn trùng khớp Việt Nam và Mỹ cùng chia sẻ quan điểm về tự do hàng hải, phản đối sử dụng vũ lực trong tranh chấp, và giải quyết vấn đề lãnh thổ bằng phương pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế Sự ủng hộ của Việt Nam đối với sự hiện diện của Mỹ trong khu vực không nhất thiết phản ánh mong muốn liên minh chống Trung Quốc Hợp tác quốc phòng giữa hai nước từ đầu thế kỷ 21 chủ yếu tập trung vào các vấn đề nhân đạo và cứu hộ thiên tai, được củng cố qua biên bản ghi nhớ hợp tác quốc phòng ký năm 2011 Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự khác biệt trong đánh giá mối đe dọa giữa hai bên, là yếu tố chưa hoàn toàn trùng khớp trong lợi ích của họ.
In "United States-Vietnam Relations: Strategic Convergence but Not Strategic Congruence," Thayer (2018) explores the evolving dynamics between the United States and Vietnam within the context of the Indo-Pacific region The chapter, featured in Jeffrey Wilson's edited volume "Vietnam in the Indo-Pacific: Challenges and Opportunities in a New Regional Landscape," highlights the complexities of their partnership, emphasizing areas of alignment while acknowledging the differences that persist This analysis, found on pages 56-70, provides valuable insights into the strategic interactions shaping the future of U.S.-Vietnam relations amidst regional challenges.
27 Hoàng Anh Tuấn & Đỗ Thị Thủy (2016), “U.S – Vietnam Security Cooperation: Catalysts and Constraints,”
Câu hỏi, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Việc chỉ nhìn nhận mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ góc độ lựa chọn bên hay hình thành liên minh sẽ chỉ phản ánh sự phân chia quyền lực trong hệ thống, với Hoa Kỳ chiếm ưu thế do là nước lớn hơn Tuy nhiên, theo lý thuyết bất đối xứng, mặc dù tiềm lực hai nước khác biệt, nhưng lợi ích và cách tiếp cận của mỗi bên lại có sự khác nhau, tạo nên một cấu trúc phức tạp trong quan hệ này Do đó, Việt Nam và Hoa Kỳ đang tham gia vào hai trò chơi khác nhau trong mối quan hệ của họ.
Nội dung nghiên cứu nhằm giải quyết câu hỏi về mức độ thực tế của mối quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cũng như tiêu chí để đánh giá bản chất của mối quan hệ này Để làm rõ vấn đề, nghiên cứu sẽ áp dụng chủ nghĩa Hiện thực, cụ thể là lý thuyết Quan hệ bất đối xứng của Brantly Womack (2015), nhằm lý giải mối quan hệ quốc phòng giữa hai nước Đối tượng nghiên cứu sẽ tập trung vào “mối quan hệ quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ” trong giai đoạn từ 1995, khi hai nước tuyên bố bình thường hóa quan hệ, cho đến nay.
1998 – giai đoạn chuyển giao chính quyền từ Tổng thống Mỹ Barack Obama sang Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu quan hệ Việt – Mỹ là cần thiết trong bối cảnh biến động của hệ thống và trật tự thế giới Hoa Kỳ, với vai trò là một trong những cường quốc lớn, đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam nằm trong khu vực châu Á, nơi có sự trỗi dậy và cạnh tranh với Trung Quốc Do đó, nghiên cứu này sẽ tập trung vào hai mục tiêu cụ thể để đánh giá mối quan hệ chiến lược giữa hai quốc gia.
Quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã trải qua nhiều biến chuyển từ giai đoạn bình thường hóa vào năm 1995 cho đến nay Sự hợp tác này được lý giải qua Lý thuyết quan hệ bất đối xứng, nhấn mạnh vai trò và lợi ích của cả hai bên trong việc xây dựng một mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam và Hoa Kỳ đã tăng cường hợp tác quốc phòng thông qua các hoạt động trao đổi, tập huấn và hỗ trợ kỹ thuật, nhằm nâng cao năng lực quốc phòng và bảo đảm an ninh khu vực Mối quan hệ này không chỉ góp phần củng cố an ninh quốc gia của mỗi nước mà còn thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích quan hệ bất đối xứng để nghiên cứu các yếu tố như bối cảnh thay đổi theo thời gian, chính sách của Mỹ với vai trò nước lớn, và cách Việt Nam ứng xử trong chính sách đối ngoại với tư cách nước nhỏ hơn Theo lý thuyết, tương quan giữa hai quốc gia trong mối quan hệ bất đối xứng giúp giải thích hành vi của cả hai bên, do đó việc áp dụng khung phân tích cụ thể sẽ làm rõ hành vi của cả Mỹ và Việt Nam.
Bố cục của nghiên cứu
Bố cục của nghiên cứu được chia thành năm phần, trong đó phần mở đầu trình bày tình hình nghiên cứu, câu hỏi, phương pháp và mục đích nghiên cứu Chương thứ nhất mang tên “Lý thuyết nghiên cứu”, sẽ giới thiệu quan điểm của lý thuyết quan hệ bất đối xứng của Brantly Womack, từ đó phân tích các đặc điểm của lý thuyết nhằm giải thích bản chất quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ Chương 2 sẽ áp dụng khung phân tích để xem xét hợp tác quốc phòng giữa hai nước trong giai đoạn từ 1995 đến nay.
Vào năm 2000, hai nước bắt đầu quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao và thiết lập những liên hệ quân sự đầu tiên, tạo nền tảng cho sự phát triển trong tương lai Chương 3 sẽ phân tích hợp tác quốc phòng giữa hai nước từ năm 2001 đến 2008, trùng với hai nhiệm kỳ của Tổng thống Mỹ George Bush Trong khi đó, Chương 4 sẽ xem xét hợp tác quốc phòng từ năm 2009 đến 2018, phản ánh giai đoạn của chính quyền mới.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những năm đầu tiên của Tổng thống Mỹ Donald Trump và sự ảnh hưởng của thời kỳ lãnh đạo của Barack Obama Nghiên cứu này tập trung vào sự phân kỳ giữa các đời Tổng thống nhằm làm rõ những thay đổi trong chính sách và phong cách lãnh đạo.
Trong mối quan hệ bất đối xứng giữa Mỹ và Việt Nam, Hoa Kỳ, với vai trò là nước lớn, có khả năng định hình cuộc chơi và đưa ra các lựa chọn chiến lược Nhìn từ góc độ của nước lớn, việc phân tích các chính sách của Việt Nam cho thấy sự ảnh hưởng của mối quan hệ này đến quyết định của mỗi bên Cuối cùng, bài viết sẽ tổng kết những đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa hai nước và đưa ra một số nhận xét quan trọng.
LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Giới thiệu lý thuyết quan hệ bất đối xứng
Brantly Womack phát triển lý thuyết quan hệ bất đối xứng dựa trên hai trụ cột chính: thứ nhất, là kiến thức chuyên môn của ông về mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam; thứ hai, là ảnh hưởng từ tác phẩm "National Power and the Structure of Foreign Trade" của Albert O Hirschman, xuất bản năm 1945 Hirschman lập luận rằng lợi ích không đều trong thương mại quốc tế dẫn đến tình huống mà các quốc gia hưởng lợi nhiều nhất cũng chính là những quốc gia dễ bị tổn thương nhất, từ đó tạo ra sự phụ thuộc vào các quốc gia có lợi ích thấp hơn Ông cũng chỉ ra rằng sự bất đối xứng này có thể làm giảm bớt sự phụ thuộc, đặc biệt khi mối quan hệ giữa các quốc gia nhỏ và lớn trở nên quan trọng đối với quốc gia nhỏ hơn.
56 Thucydides, “The Melian Dialogue,” History of Peloponnesian War Biên dịch và hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2013/05/23/melian-dialogue/ (truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019)
In his 2016 review, David A Baldwin discusses Brantly Womack's exploration of asymmetric relations among nations, highlighting the uneven investment concerns between two countries Womack extends this concept of asymmetry beyond trade, applying it to broader international relations, emphasizing its significance in understanding global interactions.
Womack mở rộng lý thuyết bất đối xứng, không chỉ giúp giải thích mà còn xây dựng mô hình diễn dịch để phân tích các mối quan hệ bất đối xứng, tập trung vào sự chênh lệch vật chất và ảnh hưởng của nó đến nhận thức và hành động Sự bất đối xứng thường dẫn đến khác biệt trong nhận thức rủi ro, sự chú ý và hành vi tương tác giữa các quốc gia, tạo ra vòng tròn nguy hiểm của nhận thức sai lầm Tuy nhiên, trật tự quốc tế vẫn ổn định, và các cường quốc hiếm khi sử dụng sức mạnh ép buộc của mình Lý thuyết bất đối xứng dựa trên nền tảng đàm phán nhằm tránh những nhận thức sai lầm do sự bất đối xứng gây ra, cung cấp góc nhìn mới để hiểu các hiện tượng trong quan hệ quốc tế và giải quyết nghịch lý về sự bình đẳng giữa các quốc gia theo mô hình Westphalia.
Lý thuyết bất đối xứng nhấn mạnh rằng quyền lực không phải là điều mơ hồ mà thực sự tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa các quốc gia lớn và nhỏ Sự bất đối xứng này khiến cho các quốc gia yếu hơn rơi vào tình thế nguy hiểm hơn trong các mối quan hệ quốc tế, với những khác biệt cơ bản trong nhận thức và tương tác Ví dụ, các biện pháp trừng phạt hạn chế từ quốc gia lớn có thể tạo ra tình huống khẩn cấp cho quốc gia nhỏ, đồng thời gây ra cảm giác đe dọa đến quyền tự trị và bản sắc của họ Vì vậy, lý thuyết bất đối xứng làm nổi bật thực tế về sự khác biệt quyền lực trong các mối quan hệ, phức tạp hơn so với những gì chúng ta thường nghĩ.
58 Brantly Womack (2015), Asymmetric and International Relations, Cambridge University Press, tr 2
59 Brantly Womack (2004), Asymmetric Theory and China’s Concept of Multipolarity, Journal of Contemporary
Nội dung cơ bản của lý thuyết quan hệ bất đối xứng
1.2.1 Định nghĩa “bất đối xứng”
Trong quan hệ quốc tế, khái niệm "bất đối xứng" được hiểu là sự chênh lệch lớn về khả năng và quyền lực giữa các quốc gia, những chênh lệch này thường duy trì lâu dài và ổn định Một mối quan hệ song phương bất đối xứng xảy ra khi có sự khác biệt rõ ràng và ổn định giữa năng lực của hai chủ thể Các mối quan hệ giữa các quốc gia như Mỹ và Canada, Mỹ và Cuba, Mexico và Guatemala, Brazil và Argentina, hay Đức và Áo thường phản ánh những phân loại này Khái niệm bất đối xứng trong quan hệ quốc tế mang tính chất mô tả, giúp hiểu rõ hơn về cách thức tương tác giữa các quốc gia.
Có ba chỉ số quan trọng để đo lường sự chênh lệch giữa các quốc gia: tổng thu nhập quốc dân (GNI), dân số và năng suất bình quân đầu người So sánh ba chỉ số này giúp đánh giá mức độ bất đối xứng giữa các quốc gia Womack phân loại sự bất đối xứng thành ba mức: bất cân xứng "rõ ràng" khi nước lớn có quy mô gấp rưỡi nước nhỏ, bất cân xứng "vượt trội" khi nước lớn gấp đôi nước nhỏ, và chênh lệch "áp đảo" khi nước lớn gấp 10 lần nước nhỏ Mặc dù định nghĩa này giúp hình dung rõ ràng sự chênh lệch, nhưng cũng tồn tại khuyết điểm như vấn đề "ranh giới" và câu hỏi về tính khả thi của các thước đo khác Hơn nữa, sự hạn chế của chỉ số GNI trong nghiên cứu bất đối xứng khiến cho việc tìm hiểu cơ chế tương tác giữa các chủ thể trở nên khó khăn.
Brantly Womack (2015) trình bày định nghĩa về bất đối xứng theo cách “phân tích”, khác với định nghĩa thực nghiệm trước đó Khái niệm này được hiểu sâu sắc hơn thông qua việc xem xét các yếu tố cấu thành và tác động của bất đối xứng trong các mối quan hệ.
Trong một dải quang phổ, quan hệ tương xứng nằm ở một đầu, nơi sự chênh lệch giữa các quốc gia và nhận thức trong tương tác đóng vai trò quan trọng, cho phép mỗi bên có khả năng thách thức lẫn nhau Ngược lại, đầu kia của quang phổ thể hiện sự mất tương xứng cực đoan, nơi nước nhỏ không có khả năng kháng cự trước nước lớn Sự khác biệt này cho thấy rằng quan hệ bất đối xứng không đơn thuần chỉ là sự chênh lệch mà còn ảnh hưởng đến khả năng tương tác giữa các bên.
Mối quan hệ bất đối xứng xảy ra khi nước nhỏ ở vị thế dễ bị tác động bởi nước lớn, nhưng nước lớn không thể hoàn toàn kiểm soát nước nhỏ Sự chênh lệch rõ ràng giữa hai bên khiến cho vị thế của chúng không thể hoán đổi Nước nhỏ không thể thách thức nước lớn với hy vọng chiến thắng, mặc dù trong truyền thuyết, như câu chuyện David và Goliath, có những ngoại lệ.
Trong bối cảnh quan hệ quốc tế, "bị tác động" được coi là yếu tố quan trọng hơn "tính dễ tổn thương" đối với các nước nhỏ, vì cơ hội và rủi ro trong tương tác có ý nghĩa lớn hơn Mặc dù các nước lớn có nguồn lực đáng kể, khả năng kháng cự của nước nhỏ trước các hành động đơn phương của họ thường vượt trội hơn Khi các nước lớn cố gắng thực hiện các hành động đơn phương, họ có thể gặp khó khăn và nản lòng trước sự kiên trì và kháng cự của các nước nhỏ.
Ba hệ quả cơ bản của quan hệ bất đối xứng: 63
Ba hệ quả cơ bản của lý thuyết bất đối xứng bao gồm: Thứ nhất, sự chênh lệch khả năng tương đối cố định giữa các quốc gia, với mỗi quốc gia được định vị bởi tham số riêng Mặc dù tiềm lực quốc gia có thể thay đổi, nhưng sự thay đổi này không diễn ra nhanh chóng và dễ dàng Sự chênh lệch tiềm lực này là nền tảng của bất đối xứng trong quan hệ quốc tế, điều này phổ biến trong lịch sử và thường xảy ra trong các mối quan hệ, đặc biệt khi số lượng quốc gia nhỏ gia tăng.
Theo Brantly Womack (2015), sự "bất đối xứng" không chỉ đơn thuần là tình trạng mất cân bằng tạm thời, mà nó còn phản ánh một thực tế kéo dài, cho thấy vị thế kém hơn có thể duy trì trong một khoảng thời gian dài.
Tính liên hệ giữa các quốc gia thể hiện sự khác biệt trong cách nhìn nhận và đánh giá, đặc biệt giữa nước nhỏ và nước lớn Nước nhỏ thường có nhiều lợi ích và rủi ro hơn trong mối quan hệ này, đồng thời không thể đáp trả một cách tương xứng trước những hành động của nước lớn Trong bối cảnh này, một quốc gia có thể đóng vai trò là nước nhỏ, nhưng trong các mối quan hệ khác, họ cũng có thể trở thành nước lớn.
Tiềm lực quốc gia thường ổn định trong thời gian dài, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc bên lớn hơn luôn duy trì sự áp đảo trong các mối quan hệ Bên lớn hơn thường ít có lợi ích và ít bị đe dọa hơn trong quan hệ song phương, trong khi một cuộc chiến nhỏ có thể trở thành mối đe dọa tồn vong cho bên nhỏ Mặc dù bên nhỏ không thể thách thức bên lớn hơn, khả năng chống trả của họ có thể khiến đối phương nản chí và vô hiệu hóa sự áp đặt Do đó, đàm phán trở thành giải pháp ưu việt cho các mối quan hệ bất đối xứng, dẫn đến tính dẻo dai của chúng.
1.2.2 Những đặc điểm của mối quan hệ bất đối xứng: 64
Dựa trên phân tích của Womack về tình trạng vô chính phủ theo Thomas Hobbes và mối quan hệ thứ bậc trong quan hệ quốc tế của David Lake, một số đặc điểm của quan hệ bất đối xứng sẽ được thể hiện rõ ràng.
Lý thuyết bất đối xứng phân tích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai bên, trong đó mối quan hệ này thường hình thành từ các cuộc đàm phán thay vì sự áp đặt Bên nhỏ hơn mong muốn bên lớn hơn công nhận sự tự chủ của mình, bao gồm tôn trọng lãnh thổ, bản sắc và lợi ích Để đạt được điều này, cần có sự thỏa thuận chứ không phải sự áp đặt Ngược lại, bên lớn hơn yêu cầu sự phục tùng từ bên nhỏ hơn, tin rằng bên nhỏ nhận thức và tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên, từ đó không có hành động thách thức vị trí của bên lớn Tuy nhiên, sự phục tùng không đồng nghĩa với việc yêu cầu quy phục hoàn toàn.
64 Brantly Womack (2015), tlđd, tr 15-21 nhưng kỳ vọng vào sự phục tùng cũng liên quan đến việc bên lớn hơn phải thừa nhận sự tự chủ của bên nhỏ hơn
Đàm phán và thương lượng bất đối xứng yêu cầu bên lớn hơn công nhận sự tự chủ của bên nhỏ hơn, trong khi bên nhỏ hơn cần thừa nhận sức mạnh của bên lớn hơn Để giảm thiểu sự chống trả, bên lớn hơn nên hạn chế đe dọa đối với bên nhỏ hơn, trong khi bên nhỏ hơn cần tránh đối đầu Vì vậy, mối quan hệ bất đối xứng cần được quản lý một cách khéo léo để đạt được kết quả thông qua quá trình đàm phán hiệu quả.
Lý thuyết bất đối xứng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về kỳ vọng của các chủ thể trong hệ thống Tác giả lập luận rằng trong quan hệ đối xứng, tính phản xạ là đặc điểm chính, với tiềm lực của hai bên được cân bằng, cho phép họ hành động tương tự Dù có sự khác biệt, nhưng nó không ảnh hưởng đến cách tiếp cận, dẫn đến mô hình A>B và suy ra A = B+x, trong đó x là mức độ khác biệt về tiềm lực Quan điểm này cho rằng A và B ngang nhau, nhưng sự khác biệt ở tiềm lực 'x' mang lại ưu thế cho A trong tình huống thương lượng Kết quả là B có thể phải phục tùng hoặc tìm kiếm liên minh với đối tác khác để cân bằng lại với A, lý thuyết này rất phù hợp trong bối cảnh cạnh tranh giữa các cường quốc và sự xuất hiện của đối thủ tiềm tàng.
Lý thuyết bất cân xứng chỉ ra rằng nếu A lớn hơn B (A>B), thì A không thể bằng B (A≠B) Điều này cho thấy sự khác biệt về lợi ích và cách tiếp cận giữa A và B mang tính cơ cấu A và B không thể là những chủ thể giống nhau, mà thực chất là hai chủ thể tham gia vào hai trò chơi khác nhau.
Khung phân tích của đề tài
Từ nội dung của lý thuyết bất đối xứng trên, khung phân tích của đề tài sẽ được xây dựng trên hai đặc điểm sau:
Trong nghiên cứu về hợp tác quốc phòng giữa hai nước, cần xem xét quan điểm của mỗi bên qua từng giai đoạn, đặc biệt là ảnh hưởng của bối cảnh chung và lý thuyết quan hệ bất đối xứng Tư duy của các bên có thể khác nhau do các góc nhìn về không gian và thời gian, cùng với quá khứ và trải nghiệm riêng biệt của họ Những yếu tố này không chỉ tác động đến quyết định hiện tại mà còn hình thành triển vọng tương lai mà mỗi bên mong muốn Nghiên cứu sẽ phân tích tư duy hợp tác quốc phòng thông qua các văn bản và tài liệu từ các cơ quan liên quan để làm rõ vấn đề này.
Lợi ích đạt được giữa hai bên trong mối quan hệ quốc tế là điều quan trọng, với mục tiêu lớn hơn là bên lớn đạt được mục đích ở mức độ nhất định, trong khi bên nhỏ không rơi vào tình thế bất an Nghiên cứu sẽ phân tích quá trình triển khai chính sách đối ngoại và kết quả đạt được, dù khó đánh giá bằng thang đo cụ thể Kết quả có thể thể hiện qua việc hai nước xem nhau là đối tác tin cậy, với bên lớn đánh giá cao uy tín của bên nhỏ Bên nhỏ sẽ tôn trọng quyền lực của bên lớn, đổi lại bên lớn phải công nhận bản sắc và sự tự chủ của bên nhỏ Nghiên cứu sẽ chỉ ra các chỉ số cho thấy sự gia tăng lòng tin trong hợp tác, đặc biệt là qua những thay đổi trong hợp tác quốc phòng ở giai đoạn sau.
Nghiên cứu sẽ phân tích mối quan hệ quốc phòng giữa hai nước trong bối cảnh bất đối xứng, tập trung vào các giai đoạn 1995-2000, 2001-2008.
Năm 2009 đánh dấu khởi đầu nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ Donald Trump, trong bối cảnh quan hệ giữa Mỹ và một quốc gia từng là cựu thù của mình đang có tiềm năng bất đối xứng Sự phát triển này sẽ làm sáng tỏ bản chất của mối quan hệ và đóng góp vào nghiên cứu trường hợp điển hình cho lý thuyết về quan hệ bất đối xứng.