1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

93 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 93
Dung lượng 839 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ (9)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản (9)
      • 1.1.1. Khái niệm biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (9)
      • 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (11)
      • 1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 10 1.2. Cơ sở quy định biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (13)
      • 1.2.1. Cơ sở lý luận (14)
      • 1.2.2. Cơ sở thực tiễn (16)
    • 1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự . 14 (17)
      • 1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (17)
      • 1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (19)
      • 1.3.3. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân (20)
    • 1.4. Phân biệt biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự với biện pháp kê biên tài sản trong các ngành luật khác (21)
  • CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN (28)
    • 2.1. Sơ lƣợc lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp kê biên tài sản (28)
    • 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp kê biên tài sản (30)
      • 2.2.3. Tài sản bị kê biên và phạm vi kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (35)
      • 2.2.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 34 2.2.5. Các trường hợp hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 39 Kết luận Chương 2 (37)
  • CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN (46)
    • 3.1. Khái quát tình hình áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (46)
    • 3.2. Những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (49)
      • 3.2.1. Về thẩm quyền kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (49)
      • 3.2.3. Về đối tượng bị kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (51)
      • 3.2.3. Về phạm vi kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (54)
      • 3.2.4. Về quản lý tài sản kê biên trong tố tụng hình sự (57)
      • 3.2.5. Về thủ tục kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (60)
      • 3.2.6. Về hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (61)
    • 3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về kê biên tài sản trong tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng (63)
      • 3.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (63)
      • 3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự (65)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản

1.1.1 Khái niệm biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan và người có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế như áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản và phong tỏa tài khoản để đảm bảo hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án Trong đó, biện pháp kê biên tài sản (KBTS) đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn bị can, bị cáo gây khó khăn cho hoạt động thi hành án hình sự.

Nghiên cứu quy định pháp luật cho thấy vấn đề kê biên tài sản (KBTS) đã được quy định rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau Cụ thể, tại khoản 6 Điều 114 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, KBTS đang tranh chấp được xác định là biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập và bảo quản chứng cứ, cũng như bảo toàn tình trạng hiện có để tránh thiệt hại không thể khắc phục Hơn nữa, trong lĩnh vực thi hành án dân sự, khoản 3 Điều 71 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung) cũng đề cập đến vấn đề này.

Năm 2014, quy định về "khoản bảo đảm thi hành án (KBTS) của người phải thi hành án, bao gồm cả tài sản đang do người thứ ba giữ" được xem là một biện pháp cưỡng chế thi hành án Trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính, KBTS được áp dụng như một biện pháp cưỡng chế hành chính nhằm bảo đảm việc thực hiện quyết định xử phạt khi cá nhân hoặc tổ chức vi phạm không tự nguyện chấp hành Biện pháp này được gọi là "KBTS có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá".

Trong tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 128 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định rằng kê biên tài sản (KBTS) là biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các vụ án có hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản, nhằm đảm bảo bồi thường thiệt hại.

Điều 86 Luật XLVPHC năm 2012 quy định rằng pháp nhân có thể bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử khi vi phạm các tội danh theo Bộ luật Hình sự, trong đó hình phạt có thể là tiền phạt hoặc nhằm đảm bảo bồi thường thiệt hại.

Mặc dù khái niệm "KBTS" đã được nhiều ngành luật, bao gồm luật tố tụng hình sự, quy định rõ ràng, nhưng vẫn thiếu một định nghĩa chính xác cho thuật ngữ này Sự thiếu sót này đã gây khó khăn trong việc giải thích và áp dụng các quy định pháp luật liên quan trong thực tiễn Theo Giáo sư Nguyễn Lân, trong Từ điển, cần có sự làm rõ hơn về ý nghĩa của "KBTS" để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

Thuật ngữ "kê biên" trong tiếng Việt, với nghĩa là ghi lại mọi thứ theo thứ tự, thường được hiểu là việc kê khai tài sản một cách thông thường Tuy nhiên, cách giải thích này chưa phản ánh đầy đủ đặc trưng và bản chất pháp lý của hoạt động kê biên.

Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học, "kê biên" được định nghĩa là việc lập danh mục tài sản liên quan đến hành vi tội phạm để chờ xử lý theo pháp luật Từ điển Luật học của Đại học Luật Hà Nội bổ sung rằng "kê biên" là ghi chép cụ thể từng tài sản, cấm tẩu tán hay phá hủy nhằm đảm bảo cho quá trình xét xử và thi hành án Mặc dù các định nghĩa này nêu rõ hình thức và tính chất pháp lý của hoạt động kê biên, nhưng chúng chủ yếu tập trung vào khía cạnh pháp luật hình sự, chưa đề cập đầy đủ đến các lĩnh vực pháp lý khác như thi hành án dân sự và xử lý vi phạm hành chính.

Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, "tài sản" được định nghĩa là của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu Tài sản có thể bao gồm nhiều hình thức khác nhau, từ bất động sản, tiền bạc đến các giá trị tinh thần như danh tiếng và uy tín.

Theo định nghĩa của Việt, "tài sản" được hiểu là của cải vật chất phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng Từ điển Bách khoa toàn thư giải thích rằng "KBTS" là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với tài sản của người vi phạm pháp luật Giải thích này bao quát nhất, không chỉ phản ánh hình thức mà còn thể hiện tính chất pháp lý và sự liên quan đến các lĩnh vực pháp luật trong hoạt động KBTS.

3Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.913.

4Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, tr.199.

5Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb phương Đông, tr.811.

6Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, tr.1483.

7Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa toàn thư Việt

Nam - Tập 2, Nxb Từ điển bách khoa, tr 467.

KBTS trong luật tố tụng hình sự được định nghĩa là biện pháp cưỡng chế nhằm bảo vệ tài sản của bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản Biện pháp này bao gồm việc kê khai và ghi lại tài sản, giao cho chủ sở hữu hoặc thân nhân bảo quản, đồng thời nghiêm cấm việc tẩu tán hoặc phá hủy tài sản để đảm bảo cho quá trình xét xử và thi hành án KBTS tạm thời cấm giao dịch, chuyển đổi, định đoạt tài sản của bị can, bị cáo, chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức phạt tiền, tịch thu hoặc bồi thường thiệt hại Mục tiêu của việc này là hạn chế lạm dụng kê biên, bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo và những người liên quan đến tài sản bị kê biên.

1.1.2 Đặc điểm của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự

Từ khái niệm về biện pháp KBTS đã được trình bày ở trên, có thể đưa ra các đặc điểm của biện pháp này như sau:

KBTS là một biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, được quy định tại Điều 128 BLTTHS năm 2015 Biện pháp này nhằm hạn chế quyền tài sản của bị can, bị cáo, buộc họ thực hiện các nghĩa vụ pháp lý để phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý hành vi vi phạm pháp luật, từ đó bảo đảm trật tự an toàn xã hội Các cơ quan và người được trao quyền có thể áp dụng biện pháp này theo thủ tục tố tụng hình sự để thực thi án hình sự.

Đối tượng áp dụng biện pháp kiểm soát tài sản bao gồm bị can và bị cáo trong các vụ án hình sự, cụ thể là những người phạm tội mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tiền hoặc có khả năng bị tịch thu tài sản.

8Hoàng Thị Minh Sơn (2009) (chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,

Tại Hà Nội, việc bồi thường thiệt hại liên quan đến các pháp nhân bị khởi tố, truy tố và xét xử theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) chỉ áp dụng cho các trường hợp có hình phạt tiền Những bị can, bị cáo không bị xử phạt tiền, không bị tịch thu tài sản, hoặc không bị buộc phải bồi thường thiệt hại sẽ không nằm trong đối tượng áp dụng biện pháp này Ngoài ra, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng không thuộc đối tượng áp dụng của biện pháp bồi thường thiệt hại.

Biện pháp kê biên tài sản (KBTS) được áp dụng đối với tài sản của bị can, bị cáo theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) liên quan đến hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại Mục đích của KBTS là đảm bảo việc thi hành án diễn ra thuận lợi, áp dụng cho tài sản của người phải thi hành án, dù tài sản đó đang do chính họ hoặc người khác chiếm giữ Việc thực hiện KBTS thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ sự bền vững trong các quan hệ xã hội Khi Tòa án ra bản án có hiệu lực thi hành, các tài sản đã được kê biên trước đó sẽ được sử dụng để thi hành án.

Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự 14

Thuật ngữ “nguyên tắc” xuất phát từ tiếng Latin "Principium", mang ý nghĩa là tư tưởng đầu tiên và tư tưởng chỉ đạo trong khoa học và pháp luật Nguyên tắc này được áp dụng trong nghiên cứu pháp luật và các chế định của nó Khi thực hiện biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự, cần tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc cơ bản để đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong quá trình tố tụng.

- Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa

- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người

Nguyên tắc pháp luật bảo vệ quyền tài sản của cá nhân và pháp nhân là những quy tắc quan trọng cần được thực hiện nghiêm túc và đồng bộ Việc tuân thủ những nguyên tắc này sẽ đảm bảo hiệu quả cao nhất khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong quá trình tố tụng hình sự.

1.3.1 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yếu tố cốt lõi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, nhấn mạnh sự tuân thủ pháp luật của Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân Theo Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 và Điều 7 BLTTHS năm 2015, nguyên tắc này yêu cầu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền con người, lợi ích của Nhà nước, cùng quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cốt lõi trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật, yêu cầu mọi biện pháp kiểm soát và xử lý phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật hình sự.

Trong quá trình thực hiện biện pháp kiểm soát tư sản (KBTS), việc tuân thủ pháp luật là điều kiện tiên quyết, bao gồm Hiến pháp, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự Điều này đảm bảo áp dụng đúng đắn và thống nhất các quy định pháp luật Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải hoạt động dựa trên chức năng và nhiệm vụ của mình, không được quản lý một cách chủ quan mà phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc pháp chế Việc thực hiện đúng các quy định pháp luật là cần thiết để bảo vệ quyền tự do và dân chủ của công dân Để nguyên tắc pháp chế được thực hiện hiệu quả, cần có những điều kiện nhất định.

Hệ thống pháp luật cần phải hoàn chỉnh và đồng bộ để đảm bảo hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền lợi của công dân Việc có một hệ thống pháp luật rõ ràng sẽ giúp tăng cường việc tuân thủ pháp luật, trong khi sự lạc hậu và chồng chéo trong các quy định, đặc biệt liên quan đến biện pháp kiểm soát, có thể tạo ra kẽ hở cho các hành vi vi phạm pháp luật Do đó, việc thực thi nguyên tắc pháp chế cần được thực hiện một cách nghiêm túc.

Thứ hai, cần tăng cường kiểm tra, giám sát để việc thực hiện biện pháp

Kiểm tra và giám sát thường xuyên là yếu tố quan trọng để đảm bảo việc thực hiện các quy định về KBTS trong tố tụng hình sự được thực hiện đúng luật và thống nhất Nếu thiếu sự giám sát, việc áp dụng các quy định này có thể dẫn đến tình trạng tùy tiện, không nhất quán, tạo điều kiện cho tiêu cực và vi phạm pháp luật, cũng như xâm phạm quyền con người Do đó, việc duy trì sự kiểm tra, giám sát là cần thiết để bảo vệ tính hợp pháp và sự nhất quán trong thực thi biện pháp KBTS.

Việc thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với các cơ quan và người có thẩm quyền trong tố tụng là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của những chủ thể bị áp dụng biện pháp kiểm soát tài sản (KBTS) Hoạt động này không chỉ giúp hạn chế sự xâm hại đến quyền con người mà còn đảm bảo rằng những quyền cơ bản của công dân được tôn trọng Bảo vệ quyền khiếu nại và tố cáo sẽ giúp các chủ thể bị KBTS nâng cao khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình.

Trong quá trình thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời (KBTS), các cơ quan tiến hành tố tụng cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định về trình tự và thủ tục tố tụng Điều này nhằm hạn chế xâm phạm và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

Hoạt động kê biên tài sản (KBTS) cần tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc pháp chế, điều này rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động tố tụng hình sự Việc thực hiện biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự phải được tiến hành một cách hợp pháp và có trách nhiệm Mọi vi phạm pháp luật liên quan đến KBTS từ các cơ quan tố tụng, tổ chức và cá nhân có liên quan cần phải được xử lý kịp thời để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình tố tụng.

1.3.2 Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân

Nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền công dân được ghi nhận tại Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948, khẳng định rằng “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền” đối với các vi phạm quyền căn bản Nguyên tắc này cũng được thừa nhận trong Hiến pháp năm 2013, trở thành nền tảng cho tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong việc công nhận và bảo vệ quyền công dân Theo Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nguyên tắc này nhấn mạnh việc tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.

Trong quá trình tố tụng, các cơ quan và người có thẩm quyền cần tôn trọng và bảo vệ quyền con người cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân Họ phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của các biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc điều chỉnh nếu phát hiện vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết Để thực hiện nguyên tắc này, các cơ quan nhà nước cần tuyệt đối tôn trọng và không được xâm phạm trái pháp luật đến các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, biện pháp kê biên tài sản chỉ áp dụng cho bị can, bị cáo phạm tội có hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại, cũng như đối với pháp nhân bị phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này không bắt buộc cho tất cả các đối tượng nêu trên, mà mang tính lựa chọn, chỉ thực hiện trong những trường hợp cần thiết và dựa trên căn cứ pháp luật Cơ quan có thẩm quyền cần xem xét cẩn thận trước khi quyết định áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong quá trình tố tụng Đối với những biện pháp đã được áp dụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của chúng, để kịp thời hủy bỏ hoặc điều chỉnh khi phát hiện vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.

KBTS (kê biên tài sản) đối với bị can và bị cáo là biện pháp tạm thời nhằm ngăn chặn giao dịch, chuyển đổi, định đoạt hoặc dịch chuyển tài sản của họ Việc kê biên chỉ áp dụng cho phần tài sản tương ứng với mức phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại, đảm bảo đủ để thực hiện thi hành án theo phán quyết của Tòa án Điều này giúp ngăn chặn tình trạng lạm dụng và tùy tiện trong việc kê biên, bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo cũng như các bên liên quan đến tài sản bị kê biên.

1.3.3 Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân

Bảo vệ quyền sở hữu là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước, được thực hiện thông qua Hiến pháp và các bộ luật như luật hình sự, luật hành chính, và luật dân sự Mục tiêu chính là đảm bảo cho chủ sở hữu quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình Theo Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 và Điều 11 BLTTHS năm 2015, quyền sở hữu tư nhân được pháp luật bảo hộ Luật dân sự cũng công nhận và bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác.

Phân biệt biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự với biện pháp kê biên tài sản trong các ngành luật khác

Biện pháp kê biên tài sản (KBTS) trong tố tụng hình sự và dân sự có sự tương đồng về hình thức, đồng thời cũng có giá trị tương ứng khi áp dụng để bán đấu giá nhằm xử phạt vi phạm.

11 Khoản 3 Điều 32 Hiến pháp năm 2013.

Hiến pháp năm 2013 quy định rằng các biện pháp hành chính đều mang tính cưỡng chế, nhằm quản lý tài sản của cá nhân và tổ chức Các cơ quan có thẩm quyền sẽ lập danh sách tài sản bị xử lý theo quy định pháp luật, từ đó hạn chế quyền hạn về tài sản của các chủ thể để buộc họ thực hiện nghĩa vụ pháp lý Tuy nhiên, về mặt pháp lý, ba biện pháp này lại có bản chất hoàn toàn khác nhau.

Biện pháp kê biên tài sản (KBTS) trong tố tụng hình sự áp dụng cho bị can, bị cáo bị xử phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản để đảm bảo bồi thường thiệt hại, cùng với các pháp nhân có liên quan Trong tố tụng dân sự, biện pháp này được áp dụng đối với người giữ tài sản tranh chấp có hành vi tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản Đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt, biện pháp KBTS có giá trị tương ứng để bán đấu giá sẽ được thực hiện Nghị định số 37/2005/NĐ-CP và Nghị định số 166/2013/NĐ-CP quy định rõ về thủ tục và đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Thứ hai, thẩm quyền áp dụng biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự gồm:

Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (KBTS) trong tố tụng dân sự thuộc về Thẩm phán trước phiên tòa và Hội đồng xét xử trong phiên tòa Đồng thời, thẩm quyền áp dụng biện pháp KBTS có giá trị để bán đấu giá được quy định cho nhiều chủ thể khác nhau theo Khoản 1 Điều.

87 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định thẩm

Nghị định số 37/2005/NĐ-CP quy định về thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, xác định các đối tượng bị kê biên tài sản bao gồm: (i) cá nhân lao động tự do không có cơ quan quản lý lương; (ii) cá nhân, tổ chức không có tài khoản hoặc số tiền gửi không đủ để khấu trừ lương hoặc thu nhập; và (iii) cá nhân, tổ chức không đủ điều kiện khấu trừ hoặc cố tình không thực hiện quyết định cưỡng chế.

14 Điều 112 BLTTDS năm 2015. quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá 15

Trong tố tụng hình sự, tài sản bị kê biên được xác định theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong khi đó, tài sản bị kê biên trong tố tụng dân sự là những tài sản đang trong tình trạng tranh chấp theo quy định của cùng bộ luật Đối với tài sản bị kê biên nhằm đảm bảo thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Điều 21 Nghị định số 37/2005/NĐ-CP quy định cụ thể hơn về các loại tài sản không được phép kê biên để bán đấu giá, bên cạnh những tài sản đã được đề cập trong Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ để kê biên trong tố tụng hình sự và dân sự là bản án, quyết định có hiệu lực của các chủ thể có thẩm quyền Trong xử phạt vi phạm hành chính, căn cứ này là Quyết định.

Thứ năm, biện pháp KBTS trong từng ngành luật sẽ được áp dụng theo trình tự, thủ tục tương ứng của từng ngành luật đó.

Theo Khoản 1 Điều 87 Luật XLVPHC năm 2012, thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản tương ứng với số tiền phạt thuộc về nhiều chủ thể, bao gồm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Trưởng đồn Công an, Giám đốc Công an cấp tỉnh, cùng các Cục trưởng của nhiều lĩnh vực như An ninh, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, và Hải quan Ngoài ra, các Chi cục trưởng như Chi cục Kiểm lâm, Chi cục Thuế, và Chi cục Quản lý thị trường cũng có thẩm quyền trong việc này Các cơ quan ngoại giao và lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài cũng được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự liên quan đến cưỡng chế tài sản.

Các chức danh quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 46 của Luật bao gồm Giám đốc Cảng vụ hàng hải, Giám đốc Cảng vụ đường thuỷ nội địa, Giám đốc Cảng vụ hàng không, Chánh án TAND cấp huyện, Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự khu vực, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Chánh toà chuyên trách TAND tối cao, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Trưởng phòng Phòng Thi hành án cấp quân khu, và Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.

Nghị định số 37/2005/NĐ-CP, ban hành ngày 18 tháng 03 năm 2005, quy định các thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính Để dễ dàng phân biệt các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tác giả đã trình bày bảng so sánh chi tiết.

Tiêu chí KBTS trong tố KBTS trong tố KBTS có giá trị tương tụng hình sự tụng dân sự ứng để bán đấu giá

Biện pháp cưỡng chế là một phương thức khẩn cấp nhằm thi hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong tố tụng cấp tạm thời.

Cơ sở Điều 128 BLTTHS Điều 120 Bộ luật Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý pháp lý năm 2015 Tố tụng Dân sự năm vi phạm hành chính năm

2015, Luật Thi hành 2012 án Dân sự năm

Thẩm Thủ trưởng và Phó Thẩm phán có thẩm quyền theo Khoản 1 Điều 87 của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, quy định quyền áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại các cấp Lệnh này xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc xử lý các vi phạm.

KBTS phải có giá trị tương ứng với số tiền phạt được thông báo trước khi thực hiện biện pháp cưỡng chế Việc bán đấu giá tài sản này cho VKS thuộc thẩm quyền cùng cấp cần được tiến hành trước khi nhiều chủ thể khác thi hành.

VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp;

Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp;

Hội đồng xét xử xem xét các đối tượng bị can và bị cáo liên quan đến vi phạm quy định về Kinh doanh và Thương mại Các cá nhân và tổ chức vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, bao gồm hình phạt tiền, nếu không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt Nghị định số 37/2005/NĐ-CP quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại cho người giữ tài sản trong trường hợp có tranh chấp Đối với các hành vi tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản, Nghị định số 166/2013/NĐ-CP quy định các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

Tài sản bị kê biên theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 được định nghĩa rõ ràng, nhằm đảm bảo tính pháp lý và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan Các quy định này hướng đến việc xác định và quản lý tài sản một cách hiệu quả, góp phần vào việc thực thi các bản án và quyết định của cơ quan nhà nước.

2015 2015 đang tranh tài sản không được kê biên chấp theo Điều 21 Nghị định số

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN

Sơ lƣợc lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp kê biên tài sản

BLTTHS Việt Nam đầu tiên được Quốc hội thông qua vào 28 tháng 6 năm

Năm 1988, Điều 121 đã quy định về việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản (KBTS) đối với bị can và bị cáo trong các vụ án hình sự, nơi mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định có thể tịch thu tài sản hoặc áp dụng hình phạt tiền Điều này cũng áp dụng cho những người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

BLTTHS năm 1988 đã thiết lập khung pháp lý cho việc áp dụng biện pháp kiểm soát tạm thời (KBTS) trong tố tụng hình sự, với các quy định rõ ràng về thẩm quyền, giới hạn, thủ tục và việc hủy bỏ KBTS Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trong quy định này, chưa làm rõ khái niệm KBTS, thời điểm áp dụng trong quá trình tố tụng hình sự, cũng như xác định người láng giềng chứng kiến và điều kiện áp dụng biện pháp này.

Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 1988, Điều

146 của BLTTHS năm 2003 đã có những sửa đổi, bổ sung sau đây:

Mở rộng thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà và Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, cũng như Hội đồng xét xử, thay vì chỉ giới hạn ở Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu trở lên như quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vào năm 1988, quy định về các chức danh lãnh đạo trong cơ quan điều tra đã được mở rộng Thay vì chỉ có Trưởng công an và Phó trưởng công an cấp huyện, Điều 62 BLTTHS năm 1988 đã bổ sung thêm Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng CQĐT ở các cấp tỉnh và quân khu trở lên.

Tài sản bị kê biên sẽ được giao cho chủ sở hữu hoặc người thân của họ để bảo quản Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 1988, người được giao bảo quản nếu có hành vi chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc huỷ hoại tài sản bị kê biên sẽ phải chịu trách nhiệm theo Bộ luật Hình sự (BLHS) Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 đã có những điều chỉnh nhất định trong quy định này.

19 Điểm c, khoản 1, Điều 80 BLTTHS năm 2003.

Theo điểm a, khoản 1, Điều 62 BLTTHS năm 1988, hành vi "tiêu dùng" được bổ sung như một hành vi mà người được giao bảo quản tài sản không được thực hiện khi tài sản đang bị kê biên.

Biên bản KBTS phải tuân thủ quy định tại Điều 121 BLTTHS năm 1988 và Điều 95 BLTTHS năm 2003, yêu cầu biên bản thống nhất trong tố tụng hình sự Theo Điều 125 BLTTHS năm 2003, điều tra viên có trách nhiệm đọc lại biên bản cho người tham gia tố tụng, giải thích quyền bổ sung và nhận xét Cả người tham gia tố tụng và điều tra viên đều phải ký tên vào biên bản; nếu ai đó không biết chữ, họ sẽ điểm chỉ vào biên bản Nếu người tham gia tố tụng từ chối ký, lý do từ chối phải được ghi rõ trong biên bản.

Ngoài ra, các quy định về giới hạn của việc KBTS; thủ tục KBTS và việc hủy bỏ KBTS vẫn được giữ nguyên giống như Điều 121 BLTTHS năm 1988.

Ngày 17 tháng 11 năm 2015, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quy định về kê biên tài sản (KBTS) và pháp luật tố tụng hình sự Bộ luật này khắc phục những hạn chế của các văn bản trước đó, khẳng định KBTS là biện pháp cưỡng chế tại Điều 128, Mục II, Chương VII Nó mở rộng thẩm quyền KBTS so với Điều 146 BLTTHS năm 2003 và quy định rõ hơn về người chứng kiến tại Điều 67 Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 yêu cầu lập biên bản thành 04 bản thay vì 03 bản như trước đây và quy định các trường hợp hủy bỏ biện pháp KBTS tại Điều 130.

Biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự đã được pháp luật quy định rõ ràng và ngày càng hoàn thiện theo thời gian, cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc cải thiện hệ thống pháp lý.

Khoản 2 Điều 121 BLTTHS năm 2003 cần được hoàn thiện nhằm cải thiện các quy định pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm giữ trong tố tụng hình sự Việc này không chỉ nâng cao tính khả thi của pháp luật mà còn bảo vệ hiệu quả hơn quyền con người và quyền công dân.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp kê biên tài sản

2.2.1 Thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự

Những người có thẩm quyền ra lệnh KBTS được quy định tại khoản 2 Điều

Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam bao gồm Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các cấp trưởng, phó của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc Hội đồng xét xử Do hoạt động kê biên tài sản (KBTS) ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của bị can, bị cáo, nên những người có quyền ra lệnh KBTS cũng phải thuộc các cấp này.

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp Lệnh KBTS do chủ thể này ban hành phải được thông báo ngay cho VKS cùng cấp trước khi thi hành.

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp.

- Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015, hoạt động kê biên tài sản (KBTS) được thực hiện trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử Để đảm bảo tính kịp thời và chính xác của việc áp dụng biện pháp KBTS, mỗi giai đoạn tố tụng cần có các chủ thể có thẩm quyền tương ứng để ra quyết định Tài sản được kê biên chỉ nhằm phục vụ cho việc điều tra, xét xử các vụ án và đảm bảo thi hành án theo đúng quy định của pháp luật.

Quyết định kê biên tài sản (KBTS) do Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng CQĐT ban hành cần được thông báo ngay cho Viện Kiểm sát (VKS) cùng cấp trước khi thực hiện Điều này là cần thiết để đảm bảo hoạt động kê biên tuân thủ đúng trình tự, thủ tục luật định và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan VKS có vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, nhưng khi đến giai đoạn truy tố, lệnh kê biên do VKS ban hành sẽ thuộc trách nhiệm của chính VKS.

So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 vừa mở rộng vừa hạn chế những người có thẩm quyền ra lệnh KBTS.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015, ngoài những người có thẩm quyền như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND, Chánh án, Phó Chánh án TAND và Hội đồng xét xử, còn có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được bổ sung vào danh sách chủ thể có thẩm quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế, bao gồm biện pháp kê biên tài sản (KBTS) Quy định này nhằm đảm bảo kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản và trốn tránh trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự đang xét xử, từ đó nâng cao tính linh hoạt, độc lập và hiệu quả trong việc giải quyết vụ án, đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Thứ hai, BLTTHS năm 2015 đã lược bỏ thẩm quyền ra lệnh KBTS đối với

Chánh tòa và Phó Chánh tòa Tòa án phúc thẩm nhân dân tối cao được quy định là các chức vụ quan trọng trong hệ thống Tòa án, tương ứng với các chức danh Chánh án và Phó Chánh án của TAND và Tòa án quân sự các cấp.

Qua nghiên cứu trên có thể thấy những đặc điểm nổi bật về thẩm quyền áp dụng biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự:

Thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản (KBTS) thuộc về cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong các giai đoạn tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử Việc quy định thẩm quyền này cho phép áp dụng biện pháp KBTS ở bất kỳ giai đoạn nào, nhằm đảm bảo thực hiện đúng quy định pháp luật và kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản của các đối tượng liên quan Hơn nữa, những cơ quan này có hiểu biết sâu sắc về tình tiết và nội dung vụ án, từ đó quyết định áp dụng biện pháp KBTS một cách chính xác và hợp lý.

Mỗi cơ quan như CQĐT, VKS và Tòa án chỉ có một số chức danh quản lý có thẩm quyền về cưỡng chế KBTS, và thẩm quyền này thuộc về những người có chức vụ trong cơ quan Quyết định cưỡng chế KBTS ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị cưỡng chế, vì vậy người có thẩm quyền cần có “tầm” và “danh phận” để đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý của quyết định, từ đó hạn chế khiếu nại và khởi kiện Các chức danh có thẩm quyền cưỡng chế thường được chọn lọc kỹ lưỡng do tính trách nhiệm cao của mỗi quyết định, buộc họ phải cân nhắc kỹ trước khi ra quyết định Trong quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế, đặc biệt là KBTS, cần sự hỗ trợ từ lực lượng Cảnh sát nhân dân hoặc các cơ quan, tổ chức khác, do đó người có thẩm quyền cũng phải có địa vị pháp lý nhất định để yêu cầu sự hỗ trợ này.

2.2.2 Đối tượng bị kê biên tài sản trong tố tụng hình sự

Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015, biện pháp kê biên tài sản (KBTS) được áp dụng cho cả bị can và bị cáo, bao gồm cả cá nhân và pháp nhân Cụ thể, tại khoản 1 Điều 128, KBTS chỉ áp dụng đối với cá nhân khi họ bị truy cứu về tội mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định hình phạt tiền, có khả năng bị tịch thu tài sản, hoặc nhằm bảo đảm bồi thường thiệt hại.

KBTS được áp dụng cho bị can và bị cáo trong các vụ án có hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) Theo khoản 1 Điều 77 BLHS năm 2015, hình phạt tiền có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với cá nhân, và là hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại (PNTM) khi phạm tội Hiện nay, BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017.

Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS 2015), tại điều 172/317 quy định rằng hình phạt tiền có thể được áp dụng như hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với cá nhân và pháp nhân thương mại (PNTM) phạm tội Do đó, khi bị can hoặc bị cáo vi phạm và bị xử phạt bằng hình phạt tiền, tài sản của họ có thể bị kê biên để đảm bảo thi hành án.

Bị can và bị cáo phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự có thể bị tịch thu tài sản Theo Điều 45 của Bộ luật Hình sự năm 2015, tịch thu tài sản là hành vi tước đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án.

Biện pháp kê biên tài sản (KBTS) có thể được áp dụng ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào như điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo việc tịch thu tài sản của người bị kết án Tịch thu tài sản chỉ áp dụng cho những người bị kết án về các tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, bao gồm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng và các tội phạm khác theo quy định của Bộ luật Hình sự Điều 46 BLHS năm 2015 định nghĩa "bồi thường thiệt hại" là biện pháp tư pháp áp dụng cho người phạm tội và người tham gia phạm tội.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và quyền lợi hợp pháp của người khác, với các yếu tố như có lỗi, hành vi gây thiệt hại là nguyên nhân trực tiếp và thiệt hại thực tế xảy ra Trong khi đó, Bộ luật Hình sự quy định rằng bồi thường thiệt hại phải được thực hiện về mặt vật chất do hành vi phạm tội gây ra Nếu hành vi phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án sẽ yêu cầu người phạm tội bồi thường vật chất và công khai xin lỗi nạn nhân.

Theo Khoản 5 Điều 170 BLHS năm 2015, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản Do đó, khi một người bị khởi tố về tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định này, biện pháp kê biên tài sản (KBTS) có thể được áp dụng.

KBTS được áp dụng cho bị can và bị cáo, nhưng không phải ai cũng đủ điều kiện, chỉ những trường hợp phạm tội có hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc liên quan đến bồi thường thiệt hại Quy định về biện pháp KBTS trong BLTTHS năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện Đối với pháp nhân thương mại phạm tội, BLHS năm 2015 đánh dấu sự phát triển trong chính sách hình sự của Nhà nước, thể hiện nhiều tiến bộ trong tư duy lập pháp.

THỰC TIỄN VÀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN

Ngày đăng: 21/04/2022, 21:20

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

hình sự phạm hành chính - Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)
hình s ự phạm hành chính (Trang 24)
Để thuận tiện cho việc phân biệt biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tác giả đưa ra bảng so sánh sau: - Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)
thu ận tiện cho việc phân biệt biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tác giả đưa ra bảng so sánh sau: (Trang 24)
thủ tục áp hình sự tại Điều dân sự (Điều 88) định số 166/2013/NĐ-CP - Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)
th ủ tục áp hình sự tại Điều dân sự (Điều 88) định số 166/2013/NĐ-CP (Trang 26)
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN - Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN (Trang 46)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w