TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Điều kiện cơ sở nơi thực tập
Trại lợn Nguyễn Văn Hiệp tọa lạc tại xã Tân Kim, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên Huyện Phú Bình có vị trí địa lý thuận lợi, góp phần vào sự phát triển của ngành chăn nuôi địa phương.
Phú Bình là một huyện trung du phía đông nam tỉnh Thái Nguyên, tổng diện tích tự nhiên năm 2004 là 249,36 km 2
- Phía Bắc giáp huyện Đồng Hỷ
- Phía Đông và Nam giáp tỉnh Bắc Giang
- Phía Tây giáp thành phố Thái Nguyên và huyện Phổ Yên
Huyện hiện có 21 đơn vị hành chính, bao gồm thị trấn Hương Sơn và 19 xã, trong đó có 7 xã miền núi và 301 xóm (số liệu năm 2007) Các xã của huyện bao gồm Bàn Đạt, Bảo Lý, Dương Thành, Đào Xá, Điềm Thụy, Hà Châu, Kha Sơn, Lương Phú, Nga My, Nhã Lộng, Tân Đức, Tân Hòa, Tân Khánh, Tân Kim, Tân Thành, Thanh Ninh, Thượng Đình, Úc Kì và Xuân Phương.
Khí hậu Phú Bình mang đặc trưng của miền núi trung du Bắc Bộ với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa Huyện có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau Vào mùa hè, gió Đông Nam mang lại không khí ẩm ướt, trong khi mùa đông có gió mùa Đông Bắc, khiến thời tiết trở nên lạnh và khô.
Theo số liệu của Tổng cục Khí tượng Thủy văn, nhiệt độ trung bình hàng năm của huyện giao động khoảng 23,1 o – 24,4 o C Nhiệt độ chênh lệch
4 giữa tháng nóng nhất (tháng 6 – 28,9 o C) và tháng lạnh nhất (tháng 1 – 15,2 o C) là 13,7 o C Tổng giờ nắng trong năm giao động từ 1.206 – 1.570 giờ Lượng bức xạ 155Kcal/cm 2
Lượng mưa trung bình năm khoảng từ 2.000 đến 2.500 mm, cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1 Độ ẩm trung bình hàng năm khoảng 81
- 82% Độ ẩm cao nhất vào tháng 6, 7, 8 và thấp nhất vào tháng 11, 12
Điều kiện khí hậu và thủy văn của Phú Bình rất thuận lợi cho sự phát triển nông, lâm nghiệp, đặc biệt là các loại cây trồng và vật nuôi phù hợp với khu vực trung du.
Trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi, xa khu dân cư, thuận tiện đường giao thông
Chuồng trại có trang thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ thống nước sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi
Chủ trại năng động và có năng lực, luôn cập nhật tình hình xã hội, đồng thời chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ kỹ thuật cũng như công nhân.
Đội ngũ kỹ thuật chuyên môn vững vàng cùng với công nhân nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại.
2.1.2.2 Khó khăn Đội ngũ công nhân trong trại còn thiếu, do đó ảnh hưởng đến tiến độ công việc
Trong bối cảnh thời tiết diễn biến phức tạp và dịch bệnh khó kiểm soát trong những năm gần đây, việc chăn nuôi lợn gặp nhiều khó khăn Do đó, cần tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn tại các trại nuôi.
Trại có cơ cấu tổ chức như sau:
2.1.4 Thiết kế xây dựng, quy mô chuồng trại
Thiết kế xây dựng : Trại lợn Nguyễn Văn Hiệp được xây dựng từ năm
Vào năm 2015, trang trại đã ký kết hợp đồng gia công với công ty Dabaco và sau 4 năm hợp tác, trang trại đã kết thúc hợp đồng và chuyển sang hình thức chăn nuôi doanh nghiệp nhỏ Trang trại có diện tích gần 5 ha, được thiết kế khoa học và hiện đại với nhiều tiện nghi Tại cổng ra vào có hố sát trùng bằng vôi và nhà sát trùng, bên trong có máy phun áp lực và bình phun sát trùng tay để vệ sinh phương tiện trước khi vào Ngoài ra, còn có phòng tắm và phòng sát trùng khô bằng khí ozon cho công nhân Cách cổng 20m là khu vực để xe và các phòng chức năng như phòng khách, phòng ngủ cho công nhân, kỹ thuật, bếp và nhà vệ sinh Khu vực sản xuất bao gồm chuồng bầu, chuồng cách ly, chuồng nái đẻ, chuồng cai sữa, chuồng thịt (chưa hoạt động), ao cá, chuồng gà và vườn cây ăn quả, tất cả được bao bọc bởi tường rào an toàn.
Trang trại Nguyễn Văn Hiệp được thiết kế với các khu chuồng kín, mái lợp tôn chống nóng và trần bằng tôn Mỗi chuồng có hệ thống giàn mát và quạt hút gió, giúp lưu thông không khí sạch, duy trì nhiệt độ và độ thông thoáng, giảm mùi khí độc như NH3 và H2S Các ô cửa sổ bằng kính trong suốt không chỉ chắn gió, mưa và côn trùng mà còn đảm bảo ánh sáng tự nhiên, đặc biệt là ánh nắng buổi sáng để vật nuôi tổng hợp vitamin D, hỗ trợ hấp thu canxi và phospho Cửa sổ được thiết kế có thể mở và đóng để phòng ngừa sự cố mất điện Bên trong các chuồng được chia thành các ô chuồng, trang bị đầy đủ hệ thống điện, nước và thiết bị chăn nuôi.
Hệ thống chuồng nuôi được tổ chức theo thứ tự từ chuồng cách ly, chuồng bầu, đến các chuồng đẻ 1, 2, 3, và cuối cùng là chuồng cai sữa Bên cạnh đó, còn có hai chuồng lợn thịt chưa đi vào hoạt động.
Chuồng cách ly là khu vực nuôi lợn giống mới nhập nhằm đảm bảo an toàn sinh học và kiểm tra sức khỏe của vật nuôi trước khi cho vào đàn Chuồng được trang bị hệ thống giàn mát và 3 quạt hút gió, chia thành 5 ô riêng biệt Mỗi ô có máng ăn tự động và bể nước sâu khoảng 25 – 30 cm cho lợn tắm và vệ sinh, đảm bảo điều kiện sống tốt nhất cho vật nuôi.
7 đặt các núm uống nước tự động Trong chuồng được lắp đặt 1 tủ đựng thuốc, hệ thống đèn điện chiếu sáng
Chuồng bầu: Có 1 chuồng bầu, có hệ thống giàn mát và 10 quạt hút gió Được chia thành 8 dãy chuồng và đánh số từ 1 đến 8, có thể nhốt khoảng
Chuồng nuôi lợn được thiết kế với 600 nái, chia thành các ô lồng bằng sắt Dãy 1 và dãy 2 có ô nhốt lợn đực rộng 8m², trong khi các ô còn lại dành cho lợn nái chờ phối Từ dãy 3 đến dãy 8, mỗi dãy chứa 70 ô nái cho lợn mang thai, được sắp xếp theo tuần phối để quản lý và chăm sóc dễ dàng Đặc biệt, những nái có vấn đề được bố trí gần quạt hút gió để tiện theo dõi và điều trị, tránh lây lan bệnh Mỗi ô được trang bị núm uống tự động, với hệ thống máng ăn bằng sắt có thể di chuyển dễ dàng cho việc cho ăn và vệ sinh Sàn chuồng làm từ bê tông có lỗ, cao 30-40cm so với nền, cùng hành lang giữa hai dãy chuồng giúp tiện lợi trong việc cào phân và cho ăn Khu vực vắt tinh nằm ở đầu dãy 1, có giá nhảy và thảm chống trơn cho lợn đực Ngoài ra, chuồng còn có tủ thuốc, máy xịt áp lực để vệ sinh và xe đẩy phân Chất thải sẽ được dẫn ra hai bể biogas ngoài quạt gió.
Phòng pha chế và bảo quản tinh dịch được bố trí gần chuồng bầu, thuận tiện cho việc lấy tinh Nơi đây được lát gạch men sạch sẽ và trang bị đầy đủ các thiết bị cần thiết như cốc đong, ca vắt tinh, kính hiển vi, tủ lạnh, máy chưng nước cất, nồi hấp cách thủy, máy ép liều tinh, và máy giữ nhiệt để duy trì nhiệt độ cho cốc đựng môi trường pha tinh và liều tinh, cùng với nhiệt kế để kiểm soát nhiệt độ chính xác.
Chuồng đẻ: Gồm chuồng đẻ 1, đẻ 2 có 72 ô nái, đẻ 3 có 68 ô nái Mỗi chuồng đẻ đều được chia thành 2 ngăn A và B, mỗi ngăn có 2 dãy và đều có
8 hệ thống giàn mát và 3 quạt hút gió Nền chuồng được xây nghiêng khoảng
Chuồng nuôi lợn được thiết kế với nhiệt độ từ 20 - 30°C, giúp lợn mẹ và lợn con dễ dàng thoát phân và nước tiểu Mỗi ô chuồng có máng ăn và núm uống nước tự động, với sàn cho lợn mẹ là 2 tấm đan bê tông có lỗ, còn sàn cho lợn con được làm từ 8 tấm đan nhựa cách nhiệt Sàn lợn con còn có vị trí lắp máng tập ăn, lồng úm và bóng hồng ngoại để sưởi ấm, với lồng úm được làm bằng khung sắt và tôn xung quanh Sàn chuồng được nâng cách nền khoảng 50 - 60cm, và mỗi ô chuồng đều có dây thép để treo thẻ theo dõi và thẻ điều trị Chuồng đẻ được trang bị máy xịt áp lực để vệ sinh, cùng với dụng cụ chăn nuôi, tủ đựng thuốc, khay đựng thuốc, và dụng cụ thú y di động để thực hiện các công việc như mài nanh, bấm đuôi và thiến lợn con.
Chuồng cai sữa được thiết kế với hệ thống giàn mát và 4 quạt hút gió, giúp duy trì môi trường thoải mái cho lợn Lợn cai sữa được nuôi trên sàn bằng các tấm đan nhựa, cách nền chuồng khoảng 50 - 60cm, với nền chuồng xây nghiêng 20 - 30° để dễ dàng thoát nước và phân Chuồng được chia thành 4 dãy, mỗi dãy có 6 ô, và mỗi ô đều được trang bị núm uống tự động và máng ăn tự động Ngoài ra, chuồng còn có hệ thống điện, nước và khay đựng thuốc để đảm bảo sự chăm sóc tốt nhất cho lợn.
Cơ sở khoa học của chuyên đề
2.2.1 Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái
2.2.1.1 Sự thành thục về tính và thể vóc
* Sự thành thục về tính:
Gia súc khi phát triển đến một giai đoạn nhất định sẽ thể hiện tính dục, với con đực có khả năng sản sinh tinh trùng và con cái có khả năng sản sinh tế bào trứng Theo Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006), thành thục về tính dục là thời điểm con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả năng sinh sản, khi các bộ phận sinh dục như buồng trứng, tử cung và âm đạo đã phát triển hoàn thiện Ngoài ra, sự phát triển bên trong còn đi kèm với sự xuất hiện của các bộ phận sinh dục phụ bên ngoài, dẫn đến phản xạ tính dục và hiện tượng động dục Theo Nguyễn Mạnh Hà và cộng sự (2012), sự thành thục này không chỉ phụ thuộc vào sự điều hòa của thần kinh và thể dịch mà còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố ngoại cảnh như giống, dinh dưỡng, khí hậu, mùa vụ và sự tương tác giữa con đực và con cái.
Các giống lợn khác nhau có thời điểm thành thục tính dục khác nhau, với giống thuần hóa sớm thường thành thục sớm hơn Lợn có kích thước nhỏ thường đạt độ thành thục sớm hơn so với giống lớn Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003), lợn nội như lợn ỉ và Móng Cái có tuổi động dục lần đầu rất sớm, từ 4-5 tháng với trọng lượng 20-25 kg Trong khi đó, lợn nái lai có tuổi động dục muộn hơn, bắt đầu từ 6 tháng khi đạt 50-55 kg Lợn ngoại lại có thời điểm động dục muộn hơn so với lợn lai, vào khoảng 6-7 tháng với khối lượng 60-80 kg Thời điểm động dục lần đầu cũng phụ thuộc vào giống, điều kiện chăm sóc và quản lý.
5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi) các giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) có tuổi động dục lần đầu muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi
Chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của lợn cái Theo nghiên cứu của John Nichl (1992), lợn được chăm sóc tốt thường đạt tuổi thành thục sớm hơn so với những lợn nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém Cụ thể, lợn nái nuôi dưỡng tốt có thể thành thục ở độ tuổi trung bình 188,5 ngày với khối lượng cơ thể 80 kg, trong khi đó, nếu bị hạn chế thức ăn, tuổi thành thục sẽ kéo dài đến 234,8 ngày với khối lượng chỉ 48,4 kg Dinh dưỡng thiếu hụt làm chậm quá trình thành thục do tác động tiêu cực lên tuyến yên và sự tiết hormone, trong khi dinh dưỡng thừa cũng gây hại bằng cách tích tụ mỡ quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục, làm giảm chức năng của chúng Hơn nữa, tình trạng béo phì ở vật nuôi có thể ảnh hưởng đến nồng độ hormone oestrogen và progesterone, dẫn đến việc không đạt được mức hormone cần thiết để thúc đẩy sự thành thục.
Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng có ảnh hưởng đáng kể đến tuổi động dục của lợn nái Theo Dwane và cộng sự (1992), lợn nái hậu bị thường thành thục chậm hơn vào mùa hè so với mùa thu - đông, điều này có thể liên quan đến nhiệt độ trong chuồng nuôi và mức tăng trọng thấp trong những tháng nóng Ngoài ra, lợn được chăn thả tự do có xu hướng thành thục sớm hơn khoảng 14 ngày vào mùa xuân và 17 ngày vào mùa thu so với lợn nuôi nhốt Vào mùa đông, thời gian chiếu sáng trong ngày giảm, dẫn đến việc bóng tối làm chậm quá trình thành thục so với các mùa khác, đặc biệt là khi so sánh với ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày.
Tuổi thành thục về tính của gia súc thường đến sớm hơn so với tuổi thành thục về thể vóc Điều này có nghĩa là sau khi con vật đạt độ thành thục về giới tính, nó có thể chưa hoàn toàn phát triển về kích thước và hình thể.
Trong chăn nuôi lợn, việc chú ý đến giai đoạn sinh trưởng là rất quan trọng Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) khuyến cáo rằng không nên cho lợn phối giống ở lần động dục đầu tiên, vì lúc này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ và chưa tích tụ đủ chất dinh dưỡng để nuôi thai Để đảm bảo hiệu quả sinh sản tốt và duy trì giống lợn cái lâu bền, nên bỏ qua 1-2 chu kỳ động dục đầu tiên trước khi tiến hành phối giống.
* Sự thành thục về thể vóc:
Tuổi thành thục về thể vóc được định nghĩa là giai đoạn mà sự phát triển ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính, đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu Trong giai đoạn này, nếu cho lợn giao phối quá sớm, có thể dẫn đến việc lợn mẹ thụ thai nhưng không đủ điều kiện để phát triển thai nhi, ảnh hưởng đến chất lượng con Hơn nữa, cơ quan sinh dục, đặc biệt là xương chậu, vẫn còn hẹp, dễ gây khó khăn trong quá trình sinh nở, từ đó tác động tiêu cực đến năng suất sinh sản sau này Do đó, thời điểm phối giống hợp lý là rất quan trọng; lợn cái nội nên được cho phối khi đạt 7 - 8 tháng tuổi và khối lượng 40 - 50 kg, trong khi lợn ngoại nên phối khi đạt 8 - 9 tháng tuổi với khối lượng 100 kg.
110 kg mới nên cho phối
Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp diễn ra khi cơ thể đã phát triển hoàn chỉnh, không có bào thai và không có bệnh lý Trong buồng trứng, noãn bao phát triển, trưởng thành và thải trứng Đồng thời, cơ thể, đặc biệt là cơ quan sinh dục, trải qua nhiều biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý.
Chu kỳ tính của lợn nái, theo Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993), diễn ra trong khoảng 19 - 21 ngày Thời gian động dục kéo dài từ 3 - 4 ngày đối với lợn nội và 4 - 5 ngày đối với lợn lai, lợn ngoại Chu kỳ này được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn trước khi chịu đực, giai đoạn chịu đực và giai đoạn sau chịu đực.
Trước khi lợn nái chịu đực, chúng thường có dấu hiệu kêu la và âm hộ xung huyết, nhưng chưa được phối giống Thời gian rụng trứng của lợn ngoại và lợn nái lai dao động từ 35 đến 40 giờ, trong khi lợn nội có thời gian rụng trứng từ 25 đến 30 giờ.
Trong giai đoạn chịu đực, lợn có biểu hiện kém ăn, thường đứng yên khi được ấn tay lên lưng gần mông Âm hộ của lợn sẽ giảm độ sưng, kèm theo dịch nhờn chảy ra, có tính chất dính và đục Lợn sẽ đứng yên khi có con đực đến gần và cho phép con đực nhảy lên Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, và nếu được phối giống trong thời gian này, lợn sẽ thụ thai, với thời gian chịu đực nội ngắn hơn từ 28 đến 30 giờ.
+ Giai đoạn sau chịu đực: Lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực
Để đạt tỷ lệ thụ tinh cao và số con đẻ nhiều cho lợn nái, việc phối giống đúng thời điểm là rất quan trọng Thời gian trứng rụng và khả năng thụ thai rất ngắn, với trứng chỉ tồn tại trong tử cung từ 2 đến 3 giờ, trong khi tinh trùng có thể sống trong âm đạo lợn nái khoảng 30 giờ.
- 48 giờ Như vậy, phải cho lợn nái phối giống 10 - 12 giờ trước lúc rụng trứng tức là 20 - 30 giờ sau khi bắt đầu chịu đực
2.2.2 Quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản giai đoạn chửa, đẻ, nuôi con 2.2.2.1 Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ
Mục đích của việc chăn nuôi lợn nái đẻ là đảm bảo an toàn cho lợn mẹ trong quá trình sinh nở, nâng cao tỷ lệ sống cho lợn con và duy trì sức khỏe tốt cho lợn mẹ, giúp lợn mẹ có khả năng tiết sữa đầy đủ để nuôi con Do đó, quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng lợn nái đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con.
Theo Trần Văn Phùng và cộng sự (2004), thức ăn cho lợn nái đẻ cần có giá trị dinh dưỡng cao và dễ tiêu hóa, tránh thức ăn có hệ số choáng cao để ngăn ngừa đẻ non hoặc thai chết ngạt Một tuần trước khi lợn đẻ, cần giảm dần lượng thức ăn dựa trên tình trạng sức khỏe của lợn nái; với lợn khỏe, giảm 1/3 lượng thức ăn, còn lợn yếu thì không giảm mà thay bằng thức ăn dễ tiêu hóa Vào ngày lợn cắn ổ đẻ, nên cho ăn ít hoặc không cho ăn thức ăn tinh, chỉ cho uống nước tự do Ngày lợn đẻ có thể không cho ăn, chỉ cho uống nước ấm pha muối hoặc cháo loãng Sau khi đẻ 2-3 ngày, tăng lượng thức ăn từ từ đến ngày thứ 4-5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn, và thức ăn cần được chế biến tốt, có mùi vị hấp dẫn để kích thích sự thèm ăn của lợn nái.
Chăm sóc lợn nái mẹ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con Theo nghiên cứu của Trần Văn Phùng và cộng sự (2004), việc theo dõi sức khỏe lợn mẹ cần được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là trong 3 ngày đầu sau khi đẻ, để phát hiện sớm các bất thường như tình trạng bầu vú và thân nhiệt Điều này giúp có biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo sức khỏe cho cả lợn mẹ và lợn con.
Tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước
2.3.1 Tổng quan các nghiên cứu trong nước
Ngành chăn nuôi tại Việt Nam được nhà nước đặc biệt chú trọng và phát triển, trong đó chăn nuôi lợn là lĩnh vực nhận được nhiều nguồn đầu tư cho các dự án quy mô lớn.
27 nghiên cứu về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nói chung và lợn nái nói riêng
Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003), trước khi lợn nái sinh, cần thực hiện các bước như lau sạch, xoa vú và tắm cho nái Sau khi lợn con ra đời, nên cho con bú ngay trong vòng 1 giờ và cắt răng nanh cho lợn con Để giảm sưng và sốt ở vú, có thể chườm nước đá Ngoài ra, tiêm kháng sinh Penicillin với liều 1,5 - 2 triệu đơn vị pha với 10ml nước cất quanh vú là cần thiết Nếu nhiều vú bị viêm, cần pha loãng liều thuốc với 20ml nước cất và tiêm xung quanh các vú bị viêm trong 3 ngày liên tiếp.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [6], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50 %, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ
20 %, còn lại 80 % là viêm tử cung
Viêm tử cung là bệnh lý phổ biến ở gia súc cái sau khi sinh, gây rối loạn sinh sản và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sinh sản Trong thời kỳ mang thai, lợn cần nhiều dinh dưỡng nhưng thường ít vận động hoặc có thể mắc các bệnh truyền nhiễm như bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis) và bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis), dẫn đến sức khỏe suy yếu Hậu quả là lợn có thể gặp phải tình trạng sảy thai, đẻ non hoặc thai chết lưu, từ đó phát triển thành viêm tử cung.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [12], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn
Streptococcus và Colibacillus có thể lây nhiễm từ lợn con sang lợn mẹ qua cuống rốn, thường xảy ra trong các trường hợp đẻ khó, sảy thai hoặc khi lợn mẹ bị sát nhau Ngoài ra, việc sử dụng dụng cụ thụ tinh nhân tạo không đảm bảo vệ sinh cũng có thể gây ra tổn thương, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển và hình thành các ổ viêm nhiễm trong tử cung và âm đạo.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Thanh (2007), khảo sát trên 620 lợn nái ngoại tại một số trại ở vùng Bắc Bộ cho thấy tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, với mức biến động đáng kể.
36,57 % tới 61,07 % Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8
Chữa bệnh viêm tử cung ở lợn nái hiệu quả cao bằng cách tiêm kháng sinh vào màng treo cổ tử cung Phương pháp này sử dụng streptomycin 0,25g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml, cùng với việc bổ sung vitamin C (Smith B.B và cs, 1995).
Nghiên cứu cho thấy vi khuẩn Actinobacillus pleuropneumoniae và Pasteurella multocida có độc lực cao đối với chuột bạch và lợn, xác định chúng là nguyên nhân chính gây bệnh đường hô hấp ở lợn Kết quả này đã được sử dụng để lựa chọn chủng vi khuẩn cho chế autovắc xin phòng bệnh đường hô hấp ở lợn Đồng thời, vi khuẩn cũng cho thấy mẫn cảm cao với các loại kháng sinh như rifampicin, ceftazidin và ciprofloxacin, vì vậy nên khuyến cáo sử dụng những kháng sinh này trong điều trị bệnh cho lợn.
Actinobacillus pleuropneumoniae là một vi khuẩn gram âm, gây dung huyết mạnh và không di động Vi khuẩn này không phát triển trên môi trường Macconkey, không sinh Indol, và có phản ứng catalase, oxidase không ổn định Nó dương tính với urease và lên men các loại đường như maltose, mannitol, mannose, và mylose, trong khi lên men thất thường đối với galactose và lactose, và không lên men glucose, arabinose, sorbitol.
Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) khuyến cáo rằng khi gia súc mắc bệnh viêm tử cung ở thể viêm cơ hoặc viêm tương mạc, không nên thực hiện thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn Việc này có thể gây ra tổn thương nặng hơn, vì cơ tử cung co bóp yếu, dẫn đến việc các chất bẩn không được đẩy ra ngoài và lưu trữ trong tử cung, làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
29 nặng thêm Tác giả đề nghị nên dùng oxytocin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ
2.3.2 Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài
Chăn nuôi lợn tại châu Âu đã được phát triển mạnh mẽ từ lâu, với nhiều nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm sinh lý của lợn nái Các nghiên cứu này không chỉ tập trung vào sức khỏe mà còn đề cập đến các bệnh thường gặp và phương pháp điều trị cho lợn nái sinh sản.
Theo nghiên cứu của Urban V.P và cộng sự (1983), vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung ở lợn nái có nguồn gốc từ nước tiểu Các tác giả đã phân lập được các loại vi khuẩn như E coli, Staphylococcus aureus và Streptococcus spp từ mẫu nước tiểu của lợn nái sắp sinh.
Theo nghiên cứu của Theo Smith B.B và cộng sự (1995), cùng với Taylor D.J (1995), việc tăng cường vệ sinh chuồng trại và vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau sinh Kết quả mổ khám cho thấy 52,5% lợn vô sinh có nguyên nhân từ cơ quan sinh sản, trong khi đó lợn nái đẻ lứa đầu chiếm 32,1% và thường có biến đổi bệnh lý như viêm vòi tử cung có mủ Theo Urban V.P và cộng sự (1983), điều trị viêm vú trong thời kỳ cho sữa là cần thiết để kiểm soát bệnh này, và việc điều trị cần được thực hiện sớm để đạt hiệu quả Việc xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà còn cần xem xét các chỉ tiêu chăn nuôi và kết quả từ phòng thí nghiệm Sự hiểu biết về các phương pháp điều trị, đặc biệt là dược lực học và dược độc học, giúp cải thiện hiệu quả trong điều trị bệnh.
Theo nghiên cứu của Theo Smith B.B và cộng sự (1995), việc chữa trị viêm tử cung ở lợn nái có thể đạt hiệu quả cao bằng phương pháp tiêm kháng sinh trực tiếp vào màng treo cổ tử cung Sử dụng Streptomycin với liều lượng 0,25g và Penicillin 500.000 đơn vị đã cho thấy kết quả điều trị tích cực.
UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml + vitamin C
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
Đối tượng
Lợn nái sinh sản nuôi tại trang trại Nguyễn Văn Hiệp, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: Trại Nguyễn Văn Hiệp, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
- Thời gian tiến hành: từ ngày 28/5/2020 đến ngày 28/11/2020.
Nội dung thực hiện
- Điều tra tình hình chăn nuôi tại trại Nguyễn Văn Hiệp, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
- Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản
- Phòng và trị một số bệnh cho lợn nái sinh sản
Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện
3.4.1 Các chỉ tiêu thực hiện
- Tình hình chăn nuôi lợn tại trại Nguyễn Văn Hiệp, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong 3 năm (2017 - 2019)
- Cơ cấu của đàn nái sinh sản tại trại
- Tình hình sinh sản của lợn nái tại trại
- Biện pháp vệ sinh phòng bệnh
- Lịch tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn nái tại trại
- Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại
- Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái của trại
3.4.2 Phương pháp thực hiện Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, chúng em tiến hành thu thập thông tin từ trại thông qua việc hỏi ý kiến của cán bộ quản ký, công nhân viên của trại và qua sổ sách theo dõi của trại, kết hợp với kết quả điều tra thực tế
31 tại trang trại ở thời điểm thực tập Trên cơ sở đó rút ra nhận xét, đánh giá về tình hình chăn nuôi tại trang trại
Thực hiện theo quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng của trại
Thực hiện theo quy trình vệ sinh phòng bệnh và phác đồ điều trị bệnh của trại
Bảng 3.1: Lịch khử trùng chuồng trại của trại lợn
Phun khử trùng toàn bộ khu vực, rắc vôi lối đi và xung quanh chuồng nuôi 2 lần/tuần vào thứ 4 và chủ nhật
3 Xịt gầm và xả vôi
Xịt gầm và xả vôi
5 Xịt gầm và xả vôi
7 Xịt gầm và xả vôi
Xịt gầm và xả vôi Chủ nhật
3.4.3 Phương pháp xử lí số liệu
- Tỷ lệ lợn mắc bệnh:
Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100
- Tỷ lệ lợn con được thực hiện thao tác phẫu thuật:
∑ số con thực hiện phẫu thuật