TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 4
Cá Măng sữa, thuộc họ cá Măng biển Chanidae, là một trong bốn họ của Bộ cá Sữa Gonorynchiformes, bao gồm 4 họ, 7 giống và 27 loài Trong số này, họ Chanidae và họ Gonorynchidae mỗi họ chỉ có một loài được phát hiện sống ở biển Ấn Độ - Thái Bình Dương, trong khi họ Phractolaemidae chỉ có một loài phân bố ở vùng nước ngọt Châu Phi nhiệt đới.
Chanidae có thể có tới 19 loài và họ Gonorynchidae có thể có 3 loài, họ
Họ Phractolaemidae bao gồm 5 loài, trong khi họ Kneriidae có 24 loài phân bố ở Châu Phi nhiệt đới và sông Nile (Nelson, 1984) Cá Măng sữa, được các nhà khoa học thuộc Hội đồng Bảo tàng Anh ghi nhận là loài hóa thạch sống duy nhất còn tồn tại của họ cá Măng sữa Chanidae (Patterson Colin, 1984) Loài cá này lần đầu tiên được mô tả bởi Petrus Forsskal vào năm 1775.
Mugil chanos; mẫu vật loại (da khô) từ Biển Đỏ hiện được đặt tại Bảo tàng Động vật học của Trường Đại học Copenhagen - Đan Mạch (Klausewitz & Nielsen, 1965)
Giống Chanos được mô tả lần đầu bởi Lacepede vào năm 1803 với tên gọi Chanos arabicus, và Kluzinger là người đầu tiên sử dụng tên Chanos chanos vào năm 1871 Cuvier và Valenciennes đã mô tả cá Măng sữa dưới 10 tên khác nhau, trong khi 15 tác giả khác đã sử dụng 18 tên đồng vật khác nhau, chủ yếu do sự khác biệt về địa lý Tuy nhiên, tên khoa học hiện được công nhận cho cá Măng sữa là Chanos chanos, do Forsskal đặt tên.
Hệ thống bậc phân loại cá Măng sữa như sau:
Ngành động vật có dây sống: Chordata
Lớp cá vây tia: Actinopterygii
Họ Cá măng biển: ChanidaeGiống cá Măng: Chanos Lacepede, 1803Loài cỏ Măng sữa: Chanos chanos (Forsskồl, 1775)Hình ảnh cá Măng sữa nghiên cứu và mô tả theo Hình 1 1
Hỡnh 1 1 Cỏ Măng sữa Chanos chanos (Forsskồl, 1775)
Tên đồng vật: Mugil chanos, Forsskal 1775; Mulgi salmoneus Forster in
Bloch and Schneider 1801; Chanos arabicus Lacepède 1803; Lutodeira indica van Hasselt 1823; Cyprinus tolo Cuvier 1829; Cyprinus pala Cuvier 1829; Leucicus zeylonicus Bennett 1833; Chanos aldrovandi Risso in Cuvier and Valenciennes
1836; Chanos orientalis Valenciennes (ex Kuhl) in Cuvier and Valenciennes 1847;
Chanos mento Valenciennes in Cuvier and Valenciennes 1847; Chanos chloropterus Valenciennes in Cuvier and Valenciennes 1847; Chanos nuchalis
Valenciennes in Cuvier and Valenciennes 1847; Chanos lubina Valenciennes in
Cuvier and Valenciennes 1847; Chanos cyprinella Valenciennes in Cuvier and
Valenciennes 1847; Butirius argenteus Jerdon 1849; Lutodeira (Chanos) mossambicus Peters 1852; Lutodeira (Chanos) elongata Peters 1859; Lutodeira
(Chanos) gardineri Regan 1902 (Theo William N Eschmeyer et al , 2010) [17]
Tên thường gọi: cá Măng sữa, cá Măng biển (Thái Thanh Dương, 2007)
Tên địa phương: cá chua
1 2 Tình hình nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh sản nhân tạo và nuôi cá Măng sữa trên Thế giới
1 2 1 Một số đặc điểm sinh học cá Măng sữa
Cá Măng sữa có hình dáng thoi dài, dẹt hai bên một cách vừa phải, không có rãnh dọc ở bụng Màu sắc của cá rất đặc trưng, với bụng và hai bên có màu bạc, trong khi lưng mang màu xanh ô liu hoặc xanh lam.
Vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi của cá có màu nhạt hoặc hơi vàng với các rìa sẫm màu Vây lưng đơn bao gồm 2 tia vây cứng và từ 13 đến 17 tia mềm, trong khi vây hậu môn ngắn cũng có 2 tia vây cứng.
Cá Măng sữa có 8-10 tia mềm gần với vây đuôi, vây đuôi lớn và xẻ thuỳ sâu với các vạt vảy lớn ở gốc ở cá trưởng thành Vây ngực thấp có vảy ở nách trong, trong khi vây bụng có vảy ở nách và 11 hoặc 12 tia vây Vảy của cá hình tròn, nhỏ và mịn, với 75-91 vảy trên đường bên Mô mỡ trong suốt bao phủ mắt, miệng nhỏ không có răng và hàm dưới có củ nhỏ khớp với rãnh ở hàm trên Không có mảng xương hàm giữa các gốc của hàm dưới, và bốn lược mang hỗ trợ mặt dưới của nắp mang với tia mang nhỏ dày và nhiều Đặc điểm hình thái của cá Măng sữa đã được nghiên cứu ở quần thể tại vùng biển Ấn Độ và Đông Nam Việt Nam.
Cá Măng sữa phân bố rộng rãi ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, từ Nam Phi đến Hawaii, California, Galapagos, Nhật Bản và Úc Chúng thường sống quanh các đảo và dọc theo thềm lục địa, ở độ sâu từ 1 đến 30 m, và thường xuất hiện trong các vùng cửa sông Đông Nam Á hiện là trung tâm phân bố chính của loài cá này, với sự hiện diện đáng chú ý tại Philippines, Indonesia, Đài Loan và dọc theo bờ biển Thái Lan.
Cá Măng sữa, được ghi nhận lần đầu bởi Thiemmedh vào năm 1955, là loài cá phổ biến ở Việt Nam (Kuronuma & Yamashita, 1962) và Miến Điện (Htin, 1969) Loài cá này cũng xuất hiện nhiều tại Sri Lanka, Ấn Độ, cùng với các quần đảo Andaman, Nicobar, Laccadive, Maldive và Chagos ở Ấn Độ Dương.
1 2 1 3 Môi trường và tập tính sống
Cá Măng sữa trưởng thành, có chiều dài từ 50-150 cm, là loài cá biển nhanh nhẹn và bơi khỏe Trong mùa sinh sản, chúng thường tập hợp thành đàn lớn và di chuyển dọc theo bờ biển, đặc biệt là ở các khu vực có bãi đá ngầm và rạn san hô Cá Măng sữa đẻ trứng nổi ở độ mặn từ 29,5 - 34 ‰, với thời gian nở từ 20-35 giờ tùy thuộc vào nhiệt độ nước (26-32 oC) Ấu trùng cá Măng sữa sống trôi nổi và dần di chuyển vào vùng biển gần bờ, phát triển thành cá giống khoảng 20 mm Cá giống được tìm thấy trong nhiều môi trường sống như đầm phá san hô, đầm phá rừng ngập mặn, cửa sông, bãi đầm lầy, và các vùng triều, nơi có nguồn thức ăn phong phú.
Dorairaj et al ,1984; Kumagai et al , 1985; Bagarinao, 1991) [27][28][29][30][16]
1 2 1 4 Thức ăn và tập tính ăn a) Thức ăn của ấu trùng cá Măng sữa
Nghiên cứu tại Philippines cho thấy ấu trùng cá bắt đầu ăn sau khi mở miệng khoảng 54 giờ sau khi nở, với thức ăn chủ yếu là động vật phù du, bao gồm luân trùng, copepod và artemia trong điều kiện ương nuôi nhân tạo Đến hai tuần tuổi, ấu trùng có khả năng sử dụng thức ăn viên tổng hợp Trong môi trường tự nhiên, ấu trùng cá ven bờ chủ yếu tiêu thụ copepod và tảo silic.
(Bagarinao, 1991) [16] b) Thức ăn của cá giống
Cá con cá Măng sữa chủ yếu sống ở tầng đáy và có chế độ ăn khác nhau tùy thuộc vào môi trường và kích thước Chúng thường tiêu thụ vi khuẩn lam, tảo silic, mùn bã hữu cơ, tảo lục và động vật không xương sống như giáp xác nhỏ và giun xung quanh Đảo Panay, Philippines Theo nghiên cứu, cá ăn khoảng 65% tảo và 35% động vật vào ban ngày, trong khi vào ban đêm, tỷ lệ này là 54% động vật và 46% tảo, phản ánh sự thay đổi về sự sẵn có của thức ăn theo chu kỳ ngày đêm Đối với cá trưởng thành, cả thực vật và động vật phiêu sinh đều xuất hiện trong chế độ ăn của chúng, với nhiều động vật phù du và ấu trùng được tìm thấy trong ruột cá Cá Măng sữa trưởng thành, giống như cá giống, là những loài ăn mồi cơ hội và có chế độ ăn đa dạng Chúng có thể được nuôi nhốt bằng thức ăn viên thương mại với hàm lượng protein 42%, được cho ăn 1,5-2% trọng lượng cơ thể hai lần mỗi ngày.
Nghiên cứu tăng trưởng của cá Măng sữa giống trong tự nhiên tại đảo đảo Naburut Philipine cho biết cá có tốc độ tăng trưởng đạt 8,7; 7,6; 7,4 và 7,0 mm
Cá giống vào đầm phá được thả vào cuối tháng 3, giữa tháng 4, giữa tháng 5 và cuối tháng 5, với tốc độ tăng trưởng tương đương cá nuôi trong ao và tự nhiên (Kumagai et al, 1985) Blake & Blake (1981) đã sử dụng dấu hiệu trên vảy và xương nắp mang để xác định tuổi cá Măng sữa giai đoạn cá con ở đầm phá ven biển Tại Mexico, cá Măng sữa có chiều dài tiêu chuẩn SLu-355 mm, với mối quan hệ giữa chiều dài tiêu chuẩn SL (mm) và chiều dài vảy (Xs, mm) hoặc xương nắp mang (Xo, mm) được xác định là: SL = 29,6 + 117,4 Xs và SL = 12,0 + 96,0 Xo (Castro-Aguirre, 1978).
Theo nghiên cứu của Kumagai (1981, 1990), có mối liên hệ giữa vòng tăng trưởng ở đốt xương sống và tuổi của cá trưởng thành, cho thấy cá cái có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cá đực Cụ thể, trong độ tuổi từ 4 đến 6, cá cái tăng trưởng khoảng 7 cm mỗi năm, trong khi cá đực chỉ tăng 5 cm mỗi năm Mặc dù chưa có thông tin cụ thể về tuổi thọ của cá, Schuster (1960) đã chỉ ra rằng cá nuôi trong ao có thể đạt trọng lượng từ 5-6 kg khi được 12 tuổi Cá sữa trưởng thành thường được thu thập quanh đảo Panay.
Tại Philippines, cá có chiều dài chạc (FL) dao động từ 60-100 cm (trung bình 75 cm) và chiều dài toàn thân (TL) từ 75-120 cm (trung bình 95 cm), với trọng lượng cơ thể (BW) từ 4-14 kg (trung bình 7 kg) Hệ số điều kiện (CF) của cá trong khu vực này là từ 14-14, được tính theo công thức CF = BW / FL x 10^3 (Bagarinao, 1991).
1 2 1 6 Đặc điểm sinh sản a) Thành thục và sinh sản
Cá Măng sữa có giới tính riêng biệt và quá trình thành thục trứng diễn ra theo từng giai đoạn trong buồng trứng (Tamaru, 1988) Tuổi và kích thước cá thành thục khác nhau tùy theo vùng địa lý, cũng như giữa cá nuôi và cá tự nhiên Tại đảo Panay, Philippines, cá nuôi trong lồng lần đầu tiên thành thục ở độ tuổi từ 3,5-5 năm, với khối lượng từ 2-5 kg và chiều dài từ 60-70 cm Trong khi đó, cá tự nhiên thành thục lần đầu ở chiều dài từ 75-85 cm và khối lượng từ 4-5 kg, nhưng tuổi cụ thể vẫn chưa được xác định (Kuo & Nash, 1979; Lam, 1984, 1986; Lacanilao).
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2 1 Thời gian, địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2017 đến tháng 12/2020
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học cá Măng sữa ngoài tự nhiên được thực hiện từ tháng 02/2017 đến tháng 6/2018
- Hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá Măng sữa thực hiện từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2020
Mẫu cá Măng sữa được thu thập từ 07 địa điểm ven biển miền Trung, bao gồm Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Khánh Hoà và Ninh Thuận.
Mẫu vật thu thập từ tự nhiên được xử lý và lưu giữ cẩn thận để phân tích các đặc điểm sinh học tại Phòng thí nghiệm cơ sở Thủy sản – Viện.
Nông nghiệp và Tài nguyên – Trường Đại học Vinh
- Địa điểm triển khai xây dựng hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá Măng sữa: Trại thực nghiệm Hải sản – Trường Đại học Vinh
Bảng 2 1 Địa điểm, thời gian thu mẫu và số lượng mẫu
Từ tháng 02/2017 đến tháng 01 năm 2018
Hình 2 1 Bản đồ các điểm thu mẫu cá Măng sữa (Trần Thị Tuyến)
2 2 1 Mẫu vật a) Mẫu vật dùng cho nghiên cứu đặc điểm sinh học
Mẫu cá Măng sữa được thu thập để nghiên cứu các đặc điểm sinh học, có thể lấy trực tiếp từ tự nhiên hoặc mua lại từ ngư dân tại các tỉnh Nghệ An, thuộc vùng biển miền Trung.
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Khánh Hoà, Ninh Thuận (Hình 2 1)
Tổng cộng có 462 mẫu cá Măng sữa được thu thập từ tự nhiên trong khoảng thời gian từ tháng 02/2017 đến tháng 01/2018 Số lượng các mẫu này được sử dụng để nghiên cứu đặc điểm sinh học và được trình bày chi tiết trong Bảng 2.
Bảng 2 2 Số lượng mẫu thu tại các địa điểm và mẫu dùng trong nghiên cứu
Phân tích đặc điểm hình thái
Phân tích đặc điểm dinh dưỡng SL: 20,05 – 40,13cm
Wt: 12,83-47,58g 38,40 – 74,36cm Wt: 50,2 – 2332g Tiêu bản mô học
8 Phân tích đặc điểm sinh sản Tuổi: 0 + -4 + 220
Wt: 3 200-4 500g SL: 18,68-72,82 cm b) Mẫu cá bố mẹ
Nguồn cá bố mẹ được tuyển chọn từ các vùng biển Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Khánh Hoà và Ninh Thuận, với khối lượng từ 3.200-4.500g Các cá bố mẹ này được đưa về nuôi thuần dưỡng và chăm sóc tại Trung tâm thực hành Hải sản trường Đại học Vinh, với tổng số lượng 135 cặp cá được đưa vào quá trình nuôi vỗ.
Trứng thụ tinh được lấy từ đàn cá bố mẹ tại Trung tâm thực hành Hải sản – Trường Đại học Vinh Sau khi cá đẻ, trứng không được thụ tinh sẽ được loại bỏ và chuyển vào bể composite để ấp với mật độ 500-900 trứng/lít Trong quá trình ấp, cần đảm bảo nước sạch và sục khí liên tục để duy trì oxy hòa tan ở mức 6mg/lít, với nhiệt độ dao động từ 28-30 độ C Sau khi nở, cá yếu sẽ được loại bỏ, và tiến hành định lượng cũng như bố trí thí nghiệm.
2 2 2 Hoá chất, dụng cụ, vật tư a) Dụng cụ vật tư nghiên cứu, thí nghiệm
- Bộ giải phẫu: bộ đồ mổ, dùi, kéo các loại, panh các loại, dao
- Khay, cốc thuỷ tinh dung tích 100ml, 200ml, 500ml
- Cân điện tử, thước palme
- Đĩa petri, lam kính, lamen, pipet
- Kính hiển vi, máy ảnh
- Xô chậu, chén sứ, ống tiêm
- Bể ương composite thể tích 0,25 m 3 , 0,5 m 3 , 2 m 3 b) Hoá chất
- Kích dục tố: HCG và não thùy
- Motilium-M (10mg domperidone) c) Thức ăn dùng trong nghiên cứu
Thức ăn dùng trong nghiên cứu được trình bày ở Bảng 2 3
Bảng 2 3 Thành phần dinh dưỡng của thức ăn cho cá Măng sữa bố mẹ
Thành phần Protein Lipid Chất tro Xơ Kích cỡ
Thức ăn tự chế cho cá bố mẹ
4-5 Thức ăn viên công nghiệp cho cá bố mẹ
Thức ăn công nghiệp cho cá bột
Nguồn thức ăn cho cá chẽm bao gồm thức ăn viên công nghiệp chuyên dụng và thức ăn tự chế như cá tạp (cá trích, cá nục), luân trùng, Artemia, và copepoda Các thông số dinh dưỡng được phân tích tại Phòng thí nghiệm cơ sở thuỷ sản, Viện Nông nghiệp và Tài nguyên – Trường Đại học Vinh Hàm lượng protein thô được xác định theo phương pháp Kjeldahl, TCVN 4331-2001; hàm lượng lipid thô được xác định bằng phương pháp chiết phân đoạn ete, TCVN 4331-2001; độ ẩm được xác định theo TCVN-4326-86 bằng phương pháp sấy ở 105 oC, trong đó độ ẩm của nguyên liệu là lượng nước mất đi trong quá trình sấy.
2 3 1 Sơ đồ khối nghiên cứu
Sơ đồ khối nghiên cứu của đề tài được thể hiện qua Hình 2 2
Hình 2 2 Sơ đồ khối nghiên cứu cá Măng sữa
2 3 2 Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh học cá Măng sữa ngoài tự nhiên
Phương pháp định loại cá Măng sữa được thực hiện dựa trên phân loại hình thái ngoài theo nghiên cứu của Pravdin (1961), được dịch bởi Phạm Thị Minh Giang (1973) Ngoài ra, các tài liệu từ Keat-Chuan et al (2017) và Nguyễn Hữu Phụng (2001) cũng cung cấp thông tin quan trọng về việc phân loại loài cá này.
2 3 2 2 Phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình thái
Mẫu cá thu tự nhiên được thu thập bằng lưới kéo và được xử lý bằng cách bất hoạt, bao gồm việc phá hủy não đối với cá lớn và gây sốc nhiệt độ 0°C cho cá nhỏ Sau đó, cá được rửa sạch, bảo quản lạnh và chuyển đến phòng thí nghiệm Kích thước cá thu dao động từ chiều dài 20,05 đến 40,13 cm và khối lượng từ 12,83 đến 47,58 g; trong khi chiều dài có thể đạt từ 38,40 đến 74,36 cm và khối lượng lên tới 50,2 đến 2332 g.
Nghiên cứu hình thái cá được thực hiện trên 64 mẫu cá có chiều dài từ 16,3 đến 64,7 cm và khối lượng từ 420 đến 3500 g Chiều dài tổng và chiều dài chuẩn được đo bằng thước panme, trong khi khối lượng được cân bằng bằng cân kỹ thuật có độ chính xác hai số lẻ Hình dạng cơ thể, hình dạng đầu, cũng như vị trí và kích thước mở miệng của các mẫu cá Măng sữa được phân tích theo phương pháp của Pravdin (1961) và Rainboth (1996).
Các chỉ tiêu số lượng đếm được như vảy, tia vây theo Holden and Raitt (1974)
[66] Các chỉ tiêu hình thái đo theo Lowe-McConnel (1971), Grant and Spain (1977) (theo Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004) [67]
Các chỉ tiêu hình thái được đo theo hướng dẫn Hình 2 3
Hình 2 3 Sơ đồ đo hình dạng cá Măng sữa Chanos chanos (Forskal, 1775)
- Số lượng tia vây lưng: D (Dorsal fin)
- Số lượng tia vây hậu môn: A (Anal fin)
- Số lượng tia vây ngực: P (Pectoral fin)
- Số lượng tia vây bụng: V (Ventral fin)
- Số lượng vảy cơ quan đường bên và vảy trên đường bên
* Các chỉ số sinh trắc (Biometric index)
- Chiều dài chuẩn/ chiều dài đầu (SL/HL)
- Chiều dài chuẩn/ Chiều cao thân (SL/BD)
- Chiều dài đầu/ đường kính mắt (HL/ED)
- Chiều dài đầu/ khoảng cách 2 mắt (HL/EK)
- Đường kính mắt/dài chuẩn (ED/SL)
- Khoảng cách 2 mắt/ Chiều dài chuẩn (EK/SL)
Sau khi tiến hành cân, đo và giải phẫu mẫu cá, nghiên cứu tập trung vào các đặc điểm hình thái của các cơ quan nội tạng, đặc biệt là hệ tiêu hóa Các cơ quan được khảo sát bao gồm miệng, răng, lược mang, thực quản, dạ dày, ruột, manh tràng và gan (Lagler et al, 1977; Bond, 1996).
2 3 2 3 Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng a) Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân (RLG)
Khảo sát ống tiêu hóa của 60 mẫu cá Măng sữa có chiều dài tổng từ 20,5 đến 74,36 cm, thu thập từ tự nhiên trong khoảng thời gian từ tháng 02/2017 đến tháng 01/2018 Chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân (RLG - Relative Length of the Gut) được tính toán theo công thức của Al-Hussainy (1949).
- Li (cm) là chiều dài ruột;
- Lt (cm) là chiều dài toàn thân cá b) Xác định phổ dinh dưỡng của cá Măng sữa
* Thu và cố định mẫu
Nghiên cứu đã tiến hành phân tích thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa của 60 mẫu cá, bao gồm 30 mẫu cá nhỏ với kích thước từ 20,05 đến 40,13 cm và trọng lượng từ 12,83 đến 47,58 g, cùng với 30 mẫu cá nhỡ và lớn có kích thước từ 38,40 đến 74,36 cm và trọng lượng từ 50,2 đến 2332 g Các mẫu cá được cố định trong dung dịch formol 4%, trong khi cá có khối lượng lớn được tiêm formol 10% vào xoang bụng Ống tiêu hóa được thu thập và bảo quản trong dung dịch formol 4% để giữ nguyên thành phần thức ăn Thành phần thức ăn trong ruột cá được phân loại theo phương pháp của Đặng Ngọc Thanh và cộng sự (1980) cũng như Mai Đình Yên và cộng sự (1979).
* Phương pháp phân tích phổ dinh dưỡng
Phổ dinh dưỡng của cá Măng sữa trưởng thành được xác định theo phương pháp tần xuất xuất hiện và phương pháp khối lượng của Biswas (1993) [74]
Phương pháp xác định tần suất xuất hiện của thức ăn được thực hiện bằng cách tính tỷ lệ phần trăm số ống tiêu hóa có chứa loại thức ăn cụ thể so với tổng số ống tiêu hóa của cá được quan sát.
Phương pháp khối lượng bao gồm việc xác định khối lượng khô của mẫu và từng loại thức ăn, sau đó tính toán tỷ lệ phần trăm so với tổng khối lượng mẫu đã quan sát.
Xác định khối lượng khô của mẫu và của mỗi loại thức ăn theo phương pháp phân tích AOAC (2000) [75]
2 3 2 4 Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh sản cá Măng sữa