GIỚI THIỆU
Lý do nghiên cứu
Đề án cơ cấu lại hệ thống các Tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015, được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012, đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực cho ngành ngân hàng Việt Nam Mục tiêu là phát triển hệ thống TCTD theo hướng hiện đại, an toàn và hiệu quả Trong đó, tái cấu trúc các TCTD thông qua sáp nhập và hợp nhất, cả tự nguyện lẫn theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, là một trong những giải pháp được khuyến khích.
Việc tái cấu trúc các TCTD yêu cầu đánh giá tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của họ Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng để phân tích tình hình tài chính và hiệu quả trước và sau khi hợp nhất, sáp nhập Do đó, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của TCTD là cần thiết để hiểu rõ những vấn đề trong cơ cấu tài chính và hoạt động kinh doanh, từ đó hỗ trợ cho nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh, lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu của các chủ sở hữu và toàn xã hội Mỗi năm, khi các ngân hàng công bố chỉ tiêu tài chính, mức lợi nhuận đạt được luôn thu hút sự chú ý từ các thành phần trong nền kinh tế Việc hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận giúp chủ sở hữu xác định các lĩnh vực cần tác động để duy trì hoặc gia tăng lợi nhuận Đồng thời, thông qua những yếu tố này, nhà đầu tư có thể đánh giá tính ổn định của lợi nhuận hiện tại cũng như tiềm năng phát triển của tổ chức tín dụng.
Trên thế giới, có nhiều công trình nghiên cứu về lợi nhuận của ngành ngân hàng thông qua phương pháp định lượng Điển hình là các nghiên cứu của:
Valentina và ctg (2009), Roman (2012), Atiya (2013), Ongore (2013), Kenya
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về lợi nhuận của ngân hàng thường được thực hiện thông qua phương pháp định tính Gần đây, tác giả Nguyễn Việt Hùng
Nghiên cứu năm 2008 đã áp dụng phương pháp định lượng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng Tuy nhiên, mô hình được xây dựng vẫn còn hạn chế lớn, đó là chưa đánh giá được tác động của các biến vĩ mô đến lợi nhuận hoạt động của ngân hàng và chưa xây dựng được mô hình tối ưu nhất.
Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) là loại hình ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hệ thống tổ chức tín dụng tại Việt Nam Tuy nhiên, nghiên cứu về lợi nhuận của các NHTMCP từ góc độ phân tích định lượng vẫn còn hạn chế Để bổ sung cho các nghiên cứu khoa học liên quan đến lợi nhuận của NHTMCP tại Việt Nam, tôi đã chọn đề tài “Yếu tố tác động đến lợi nhuận hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp cao học của mình.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Khái quát tình hình lợi nhuận của các NHTMCP đƣợc nghiên cứu trong giai đoạn 2005-2014
Xác định mô hình phù hợp để thể hiện các yếu tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) là rất quan trọng Đánh giá ảnh hưởng của những yếu tố này sẽ giúp hiểu rõ hơn về cách thức chúng tác động đến lợi nhuận của ngân hàng, từ đó đưa ra các chiến lược cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo phát huy tiềm năng gia tăng lợi nhuận của các đối tƣợng đƣợc nghiên cứu.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu đã trình bày tại mục 1.2, các câu hỏi chính đƣợc thiết lập trong đề tài bao gồm:
- Lợi nhuận của các NHTMCP hiện nay nhƣ thế nào?
- Những yếu tố nào tác động đến lợi nhuận của NHTMCP?
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Các NHTMCP tại Việt Nam trong giai đoạn 2005-
Đến ngày 31/12/2014, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam có 34 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Để thực hiện nghiên cứu, tác giả đã thu thập báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các NHTMCP Hiện có 25 NHTMCP công bố báo cáo tài chính trong giai đoạn 2005-2014, do đó, phạm vi nghiên cứu bao gồm 25 NHTMCP (Phụ lục 1).
- Đối tƣợng nghiên cứu: Lợi nhuận của NHTMCP và yếu tố tác động đến lợi nhuận của các NHTMCP trong giai đoạn 2005-2014.
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu được thực hiện theo hướng kết hợp giữa phương pháp định tính và phương pháp định lượng Trong đó:
Phương pháp định tính được áp dụng để đánh giá thực trạng lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm toán, qua đó tác giả tổng hợp và thống kê nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp định lượng được áp dụng để xây dựng và đánh giá mô hình xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Để thực hiện nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phần mềm Stata 11 cho việc hồi quy mô hình.
Ý nghĩa đề tài
- Tổng hợp khung cơ sở lý thuyết, các chỉ tiêu đo lường và các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTMCP
Bài viết phân tích lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam giai đoạn 2005-2014, cho phép đánh giá xu hướng biến động lợi nhuận qua việc phân nhóm các NHTMCP theo quy mô Tác giả chỉ ra những tồn tại và vướng mắc ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTMCP, đồng thời so sánh lợi nhuận của họ với các lĩnh vực kinh doanh khác trong nền kinh tế Việt Nam và với các ngân hàng ở Đông Nam Á, Châu Á và Mỹ Qua đó, bài viết đánh giá hiệu quả kinh tế của ngành ngân hàng tại Việt Nam so với các lĩnh vực khác và so sánh hiệu quả của các NHTMCP với ngân hàng ở các quốc gia khác.
Mô hình được xây dựng nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) giúp nhà quản trị so sánh lợi nhuận của ngân hàng mình với các ngân hàng cùng quy mô Qua đó, họ có thể xác định các yếu tố tạo nên sự khác biệt và nhận biết những yếu tố có thể điều chỉnh để gia tăng lợi nhuận.
Kết cấu luận văn
Đề tài nghiên cứu gồm có 05 chương và được trình bày như sau:
Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết về lợi nhuận cùng với các nghiên cứu thực nghiệm trước đây liên quan đến đề tài Nội dung chính của chương này là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, từ đó cung cấp nền tảng cho việc phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính.
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Đề tài trình bày các bước thực hiện việc nghiên cứu sẽ được sử dụng nhằm có được kết quả tại chương 4
Chương 4 của bài viết tập trung vào phân tích dữ liệu và kết quả nghiên cứu, nhằm làm rõ thực trạng lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam Bài viết xây dựng mô hình để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTMCP, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh trong ngành ngân hàng.
Chương 5 của đề tài trình bày kết luận và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo, trong đó mô hình xây dựng được sử dụng để giải thích ảnh hưởng của các yếu tố đến lợi nhuận Đề tài cũng đưa ra các chính sách nhằm gia tăng lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) trong khi vẫn đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh Ngoài ra, các ví dụ cụ thể được cung cấp để minh họa cách ứng dụng mô hình vào quản trị ngân hàng hiệu quả.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LỢI NHUẬN NGÂN HÀNG
Lợi nhuận của ngân hàng
2.1.1 Khái niệm về lợi nhuận ngân hàng
Theo chủ nghĩa Mác, sự phát triển của mối quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến nhu cầu đi vay và cho vay, hình thành nên vốn cho vay và lợi tức cho vay Ban đầu, quan hệ tín dụng chỉ đơn giản và trực tiếp giữa nhà tư bản cho vay và nhà tư bản đi vay Tuy nhiên, với sự phát triển xã hội, các quan hệ tín dụng trở nên phức tạp hơn, từ đó xuất hiện ngân hàng như một tổ chức trung gian giữa người vay và người cho vay Ngân hàng thực hiện chức năng này qua hai nghiệp vụ chính: nhận tiền gửi và cho vay Khi nhận tiền gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi, và khi cho vay, ngân hàng thu lợi tức từ người vay Lợi nhuận ngân hàng được hình thành từ chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi, sau khi trừ các chi phí cần thiết và cộng với các khoản thu nhập khác từ hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và chi phí, phản ánh hiệu quả tài chính của ngân hàng Nếu thu nhập không đủ bù đắp chi phí, ngân hàng có thể đối mặt với nguy cơ phá sản Do đó, ngân hàng chỉ có thể tồn tại và phát triển khi tạo ra lợi nhuận, điều này cần thiết để trang trải chi phí vốn và lao động Hơn nữa, lợi nhuận còn giúp ngân hàng củng cố sức mạnh tài chính, tái đầu tư và mở rộng quy mô hoạt động khi cần thiết.
2.1.2 Cách xác định lợi nhuận của ngân hàng
2.1.2.1 Nguồn thu của ngân hàng
Theo Nguyễn Thị Loan (2012), nguồn thu của ngân hàng bao gồm thu từ hoạt động kinh doanh và thu từ các hoạt động khác Chi tiết nhƣ sau:
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng bao gồm nhiều nguồn khác nhau như thu từ tín dụng, lãi tiền gửi, dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn, mua cổ phần, và thu từ hoạt động mua bán nợ cùng chênh lệch tỷ giá Trong số này, thu từ hoạt động tín dụng đóng góp tỷ trọng lớn nhất vào tổng nguồn thu của ngân hàng.
Các nguồn thu khác của ngân hàng bao gồm những khoản thu không được dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít khả năng thực hiện, cũng như các khoản thu không thường xuyên Những nguồn thu này có thể là từ việc nhượng bán và thanh lý tài sản cố định, thu từ các khoản vốn đã xử lý bằng dự phòng rủi ro, kinh phí quản lý từ các công ty thành viên độc lập, và tiền phạt do khách hàng vi phạm hợp đồng.
2.1.2.2 Các khoản chi phí của ngân hàng
Theo Nguyễn Thị Loan (2012), chi phí ngân hàng là các khoản chi phí hợp lý phát sinh trong kỳ, bao gồm chi phí hoạt động kinh doanh và các chi phí khác.
Chi phí hoạt động kinh doanh của ngân hàng bao gồm nhiều khoản như lãi tiền gửi, tiền vay, chi phí kinh doanh ngoại hối, dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, góp vốn, chênh lệch tỷ giá, thuê tài sản, khấu hao tài sản cố định, tiền lương, thuê ngoài, thuế và phí cho ngân sách nhà nước, cùng với dự phòng rủi ro tín dụng Trong đó, chi phí lãi tiền gửi, tiền vay và chi phí tiền lương là hai khoản chi lớn nhất trong tổng cơ cấu chi phí của ngân hàng.
Chi phí khác bao gồm nhiều khoản như chi nhượng bán, thanh lý tài sản, giá trị còn lại của chi phí thu hồi nợ khó đòi, tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, chi xử lý tổn thất tài sản sau khi đã bù đắp bằng các nguồn khác, cũng như các khoản hạch toán vào doanh thu nhưng thực tế không thu được, cùng với các chi phí hợp lý và hợp lệ khác.
2.1.2.3 Kết quả kinh doanh của ngân hàng
Theo Nguyễn Thị Loan (2012), lợi nhuận của ngân hàng thương mại (NHTM) được xác định là chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi Lợi nhuận này bao gồm lợi nhuận từ hoạt động nghiệp vụ chính và lợi nhuận phát sinh từ các hoạt động khác.
Lợi nhuận hoạt động nghiệp vụ bao gồm thu nhập lãi thuần, thu nhập từ hoạt động dịch vụ, lợi nhuận từ kinh doanh ngoại hối, lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán và lãi từ chứng khoán đầu tư.
- Lợi nhuận từ các hoạt động khác: Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh khác, thu nhập góp vốn mua cổ phần, các khoản thu nhập khác
2.1.3 Các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận của ngân hàng thương mại
Theo Rose (1999), các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận của ngân hàng được trình bày tại bảng 2.1
Bảng 2.1 Các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận của ngân hàng
T Tên chỉ tiêu Công thức xác định
Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu
2 Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA)
3 Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
4 Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên
5 Tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên
Thu nhập cận biên trước giao dịch đặc biệt (NRST)
7 Thu nhập trên cổ phiếu (EPS)
8 Chênh lệch lãi suất bình quân
9 Tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPM)
10 Tỷ lệ hiệu quả sử dụng tài sản (AU)
Nguồn: Commercial bank management, Peter Rose (1999)
Mỗi chỉ tiêu nêu trên có một ý nghĩa khác nhau đối với nhà quản lý Ý nghĩa của các chỉ tiêu đƣợc trình bảy tại bảng 2.2
Bảng 2.2 Ý nghĩa các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận của ngân hàng
STT Tên chỉ tiêu Ý nghĩa
Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Đồng vốn đầu tư của CSH có thể tạo ra nhiều nguồn thu nhập, thể hiện hiệu quả sử dụng vốn dưới tác động của đòn bẩy tài chính.
ROE là chỉ số quan trọng mà các nhà đầu tư thường sử dụng để so sánh các cổ phiếu trong cùng ngành, giúp họ đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả Chỉ số ROE cao cho thấy khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn chủ sở hữu (VCSH) lớn hơn, điều này làm cho các chứng khoán ngân hàng có ROE cao trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, đặc biệt khi mức rủi ro được xác định.
Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA)
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển hóa tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng, giúp đo lường số lượng lợi nhuận mà một đơn vị tài sản có thể tạo ra cho ngân hàng.
ROA (Return on Assets) thể hiện hiệu quả quản lý tài sản mà không phụ thuộc vào nguồn vốn hình thành tài sản Chính vì vậy, các ngân hàng thường tiến hành so sánh chỉ số ROA qua các năm hoặc giữa các ngân hàng có quy mô tương đương để đánh giá hiệu suất hoạt động.
Tỷ lệ thu nhập lãi biên cận (NIM) phản ánh mức độ chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí lãi mà ngân hàng thu được Điều này được thực hiện thông qua việc quản lý hiệu quả tài sản sinh lời và tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí thấp nhất.
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường sự chênh lệch giữa nguồn thu từ phí dịch vụ và các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu, bao gồm chi phí tiền lương, dự phòng rủi ro tín dụng và chi phí đầu tư tài sản cố định Đáng chú ý, hầu hết các ngân hàng hiện nay đều ghi nhận tỷ lệ thu nhập ngoài lãi âm.
Các yếu tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ phần
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), lợi nhuận là mục tiêu chính bên cạnh việc đảm bảo an toàn cho hệ thống Việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng trở thành vấn đề quan trọng Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng có hai nhóm yếu tố chính tác động đến lợi nhuận của NHTM: yếu tố vĩ mô và yếu tố vi mô Các yếu tố này được tổng hợp và phân tích qua các mô hình nghiên cứu khác nhau.
Balachandher (2000), Kyriaki và ctg (2008), Nguyễn Việt Hùng (2008),
Valentina và ctg (2009), Wu và ctg (2011), Roman và ctg (2012), Atiya (2013),
Ongore và ctg (2013), Almazari (2014), Onuonga (2014), Tesfaye (2014), Pankaj và ctg (2015)
2.2.1.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) phản ánh sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội do các thành phần trong nền kinh tế tạo ra Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cho thấy nền kinh tế đã sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ cung ứng ra thị trường Mức độ tăng trưởng này có thể khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn trong chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế.
Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng và vay nợ tăng cao, dẫn đến doanh số cho vay của ngân hàng gia tăng Tuy nhiên, nếu ngân hàng kiểm soát tín dụng quá chặt chẽ, nhu cầu vay sẽ giảm, làm thu nhập của ngân hàng bị thu hẹp Điều này cũng đồng nghĩa với việc khả năng thanh toán của các doanh nghiệp giảm, kéo theo tỷ lệ nợ xấu gia tăng Nếu giá trị tài sản đảm bảo không đủ bù đắp cho nợ xấu, ngân hàng sẽ phải tăng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, từ đó làm giảm lợi nhuận.
Nghiên cứu của Kyriaki (2008), Ongore (2013), Onuonga (2014) và Pankaj (2014) cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận ngân hàng, thể hiện qua chỉ số ROE Tuy nhiên, tác động của tốc độ tăng trưởng kinh tế đến lợi nhuận ngân hàng qua ROA vẫn chưa rõ ràng Ongore (2013) và Roman (2013) chỉ ra rằng có mối quan hệ nghịch chiều giữa ROA và tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong khi Pankaj (2014) lại phát hiện mối quan hệ thuận chiều giữa hai yếu tố này.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận ngân hàng, thể hiện qua chỉ số ROE Tuy nhiên, mối quan hệ này không rõ ràng khi lợi nhuận được đánh giá bằng chỉ số ROA.
Theo hiệu ứng Fisher, lãi suất danh nghĩa trên thị trường được xác định bởi tổng lãi suất thực và tỷ lệ lạm phát Sự thay đổi tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế sẽ dẫn đến sự biến động của lãi suất giao dịch Hơn nữa, sự thay đổi này cũng ảnh hưởng đến chi phí và thu nhập của ngân hàng Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của ngân hàng khi lãi suất thay đổi sẽ phụ thuộc vào khả năng dự đoán tỷ lệ lạm phát và năng lực quản lý tài sản – nguồn vốn của ngân hàng (Rose 1999).
Ngân hàng có thể duy trì lợi nhuận thông qua việc quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất Khi ngân hàng có khe hở nhạy cảm lãi suất dương, tức là tài sản nhạy cảm lãi suất lớn hơn nợ nhạy cảm lãi suất, việc tăng lãi suất thị trường sẽ làm thu nhập từ tài sản tăng nhanh hơn chi phí lãi, dẫn đến lợi nhuận gia tăng Ngược lại, nếu lãi suất giảm, thu nhập sẽ giảm nhiều hơn chi phí, làm giảm lợi nhuận Trong trường hợp khe hở nhạy cảm lãi suất âm, khi lãi suất thị trường tăng, thu nhập từ tài sản tăng ít hơn chi phí nợ, dẫn đến giảm lợi nhuận Tuy nhiên, khi lãi suất giảm, thu nhập giảm ít hơn chi phí, giúp lợi nhuận ngân hàng tăng lên.
Ngân hàng cần điều chỉnh cơ cấu tài sản và nguồn vốn để ứng phó với dự đoán lạm phát Nếu lạm phát gia tăng, lãi suất cũng sẽ tăng, buộc ngân hàng phải duy trì khe hở nhạy cảm lãi suất dương để đạt lợi nhuận mong muốn Ngược lại, khi lạm phát có xu hướng giảm, lãi suất cũng giảm theo, yêu cầu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm Tuy nhiên, sự điều chỉnh này phụ thuộc vào mức lạm phát thực tế, có thể là dự đoán hoặc không dự đoán.
Trong khoa học thực nghiệm, chiều hướng tác động của lạm phát đến lợi nhuận là chƣa chắc chắn Các nghiên cứu của Ongore (2013), Sinha (2014), Wu
(2011) chỉ ra mối quan hệ ngƣợc chiều (-) giữa lợi nhuận và lạm phát Ngƣợc lại, các nghiên cứu của Roman (2013), Kyriaki (2008), Valentina (2009), Atiya
(2013), Tesfaye (2014) kết luận lạm phát có ảnh hưởng tích cực (+) đến lợi nhuận
Lạm phát có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến lợi nhuận, tùy thuộc vào khả năng quản lý và dự đoán lạm phát của nhà quản lý ngân hàng.
2.2.1.3 Một số yếu tố vĩ mô khác
- Chính sách tiền tệ: Được đo lường bằng cung tiền M2 hoặc M3
Chính sách tiền tệ mở rộng hoặc thu hẹp có tác động đáng kể đến tổng sản phẩm quốc nội và lạm phát Xu hướng ảnh hưởng của chính sách tiền tệ vẫn chưa rõ ràng, như đã phân tích trong các mục 2.2.1.1 và 2.2.1.2.
Chính sách tài khóa được đánh giá thông qua thâm hụt ngân sách Nhà nước so với GDP (Kyriaki 2008) Khi chính sách tài khóa mở rộng, điều này có thể dẫn đến sự gia tăng trong các hoạt động kinh tế.
Mức tăng chi tiêu của Chính phủ có thể dẫn đến việc gia tăng lãi suất trên thị trường, từ đó tạo ra hiệu ứng lấn át đối với đầu tư từ các khu vực khác.
Chính sách tài khóa có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng, nhưng tác động này vẫn chưa rõ ràng Điều này có thể dẫn đến sự suy giảm tổng sản phẩm quốc nội.
Quy mô ngân hàng được xác định qua tổng tiền gửi hoặc tổng tài sản, và theo Rose (1999), quy mô hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng Mối quan hệ này được thể hiện dưới dạng hình chữ U.
Hình 2.1: Mối quan hệ giữa quy mô và chi phí của ngân hang
Nguồn: Commercial bank management, Peter Rose (1999)
Theo hình 2.1, có ba giai đoạn ảnh hưởng của quy mô tài sản đến chi phí hoạt động trên mỗi đơn vị sản phẩm của ngân hàng Giai đoạn đầu tiên (từ A đến B) cho thấy khi ngân hàng gia tăng quy mô, chi phí giảm dần và tỷ suất lợi nhuận có xu hướng gia tăng, đây được gọi là giai đoạn lợi thế từ quy mô Giai đoạn thứ hai (từ B đến C) thể hiện sự ổn định của chi phí hoạt động trên mỗi đơn vị sản phẩm, đạt hiệu quả cao nhất nhưng không cải thiện tỷ suất lợi nhuận, được gọi là giai đoạn hiệu suất không đổi theo quy mô Giai đoạn thứ ba (từ C đến D) cho thấy chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm gia tăng do các vấn đề về chi phí quản lý và nhân viên, dẫn đến giảm tỷ suất lợi nhuận, được xem là giai đoạn bất lợi thế từ quy mô.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dữ liệu bảng và phương pháp ước lượng dữ liệu bảng
3.1.1 Các mô hình phân tích dữ liệu bảng
Theo Park (2011), đối với dữ liệu bảng, có 03 mô hình ƣớc lƣợng theo dạng hồi quy tuyến tính nhƣ sau:
Mô hình hệ số không thay đổi (Pooled OLS) là một phương pháp hồi quy trong đó các hệ số không thay đổi và được áp dụng khi không có hiệu ứng đặc thù theo không gian hay thời gian Trong trường hợp này, dữ liệu chéo và chuỗi thời gian có thể được gộp lại để thực hiện hồi quy bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) Mô hình này cho phép phân tích dữ liệu một cách tổng quát và có dạng như sau:
Y it = β 1 + β 2 X 2it + β 3 X 3it +…+ β k X kit + u it (3.2)
Việc đồng nhất hiệu ứng đặc thù theo không gian và thời gian là điều không thể, vì mỗi không gian có những đặc điểm riêng và có thể thay đổi theo thời gian Do đó, mô hình Pooled OLS dễ vi phạm các giả định của mô hình hồi quy cổ điển, như tự tương quan, phương sai thay đổi và đa cộng tuyến.
Mô hình hiệu ứng cố định (FEM) là một phương pháp phân tích trong đó tung độ gốc biến đổi theo không gian và không thay đổi theo thời gian Để nắm bắt những đặc điểm không gian của các quan sát, người ta thường sử dụng biến giả thay thế cho các biến bị bỏ qua, do đó FEM còn được gọi là mô hình biến giả bình phương nhỏ nhất (LSDV) Mô hình này có cấu trúc cụ thể, giúp phân tích dữ liệu hiệu quả hơn.
Y it = β i + β 2 X 2it + β 3 X 3it +…+ β k X kit + u it (3.3)
Tung độ gốc β i đại diện cho giá trị trung bình của tất cả các tung độ gốc trong không gian, trong khi u it là hạng sai số kết hợp giữa không gian và chuỗi thời gian.
Mô hình FEM sử dụng nhiều biến giả để giảm số bậc tự do, nhưng điều này có thể dẫn đến hiện tượng đa cộng tuyến Hơn nữa, mô hình này không thể đo lường các yếu tố không thay đổi theo thời gian như giới tính và màu da.
Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) sử dụng tung độ gốc ngẫu nhiên, trong đó kết quả ngẫu nhiên được xác định bởi tổng của một giá trị trung bình β1 và sai số ngẫu nhiên εi đặc trưng cho từng đơn vị không gian Cấu trúc của mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) được thể hiện qua công thức cụ thể.
Y it = β 1 + ε i + β 2 X 2it + β 3 X 3it +…+ β k X kit + u it (với w it = ε i + u it là sai số kết hợp) (3.4) Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) đƣợc viết lại nhƣ sau:
Y it = β 1 + β 2 X 2it + β 3 X 3it +…+ β k X kit + w it (3.5)
Với 2 mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và hiệu ứng ngẫu nhiên (REM), cần lựa chọn mô hình tốt hơn phù hopự với dữ liệu nghiên cứu Theo Park
(2011), việc lựa chọn mô hình REM hay FEM có thể dựa trên T (số thời đoạn của dữ liệu thời gian) và N (số đơn vị theo không gian) nhƣ sau:
(i) Nếu sai số ngẫu nhiên ε i và một hay nhiều biến X tương quan nhau thì mô hình FEM phù hợp
Khi T lớn và N nhỏ, các giá trị ước lượng từ hai mô hình có thể tương đồng, do đó, việc lựa chọn mô hình phụ thuộc vào sự thuận tiện trong tính toán Ngược lại, khi N lớn và T nhỏ, các giá trị ước lượng sẽ có sự khác biệt đáng kể, và trong trường hợp này, phương pháp FEM là lựa chọn phù hợp.
(iv) Nếu N nhỏ và T nhỏ, và các điều kiện trong REM thoả thì ƣớc lƣợng REM sẽ hiệu quả hơn FEM
Ngoài việc sử dụng các tiên nghiệm nêu trên, kiểm định Hausman có thể lựa chọn giữa hai mô hình FEM và REM
3.1.2 Các bước lựa chọn mô hình dữ liệu bảng
Theo Park (2011), các thủ tục tiến hành cần thiết để lựa chọn mô hình đối với dữ liệu bảng đƣợc thực hiện nhƣ sau:
Bước 1: Gộp toàn bộ dữ liệu và chạy hồi quy mô hình Pooled OLS, sau đó kiểm định các giả định của mô hình hồi quy cổ điển
Bước 2: Chạy hồi quy mô hình FEM và REM sau đó thực hiện kiểm định
Trong quá trình lựa chọn giữa mô hình FEM và REM, kiểm định Hausman được sử dụng để xác định mô hình phù hợp Nếu kết quả kiểm định bác bỏ giả thuyết H0, điều này cho thấy mô hình FEM là lựa chọn đúng và chúng ta sẽ tiến hành bước 3 Ngược lại, nếu không bác bỏ giả thuyết H0, chúng ta sẽ chuyển sang bước 4.
Bước 3: Thực hiện kiểm định F để lựa chọn giữa mô hình FEM và Pooled
Nếu kết quả kiểm định F bác bỏ giả thuyết H0, điều này cho thấy mô hình FEM phù hợp Sau đó, cần tiến hành kiểm định các vấn đề như phương sai thay đổi, tự tương quan và đa cộng tuyến cho mô hình Nếu không, hãy chuyển sang bước 5.
Bước 4: Thực hiện kiểm định LM để lựa chọn giữa mô hình REM và
Pooled OLS Nếu kiểm định LM bác bỏ giả thuyết H0, điều này cho thấy mô hình REM là phù hợp Tiếp theo, cần thực hiện các kiểm định về phương sai thay đổi, tự tương quan và đa cộng tuyến cho mô hình Nếu không, chuyển sang bước 5.
Bước 5 trong nghiên cứu là thực hiện kiểm định Chow để xác định tính phù hợp của mô hình Nếu kiểm định Chow chấp nhận giả thuyết H0, mô hình Pooled OLS sẽ được coi là phù hợp; ngược lại, mô hình hệ số ngẫu nhiên sẽ được sử dụng Nghiên cứu sẽ trình bày các bước và kiểm định cần thiết để tìm ra mô hình phù hợp, bao gồm ba mô hình: Pooled OLS, FEM và REM Các kiểm định như Hausman, F, LM và Chow sẽ được tóm tắt để lựa chọn mô hình thích hợp cho nghiên cứu.
- Kiểm định Hausman: là kiểm định nhằm lựa chọn mô hình FEM hay
REM thích hợp cho việc hồi quy dữ liệu bảng, dựa trên giả thuyết H0 rằng không có mối quan hệ giữa biến giải thích và sai số ngẫu nhiên εi Sự tương quan này là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa FEM và REM.
H 0 : Không có tương giữa biến giải thích và các sai số ngẫu nhiên (chọn mô hình REM)
H 1 : Có tương quan giữa biến giải thích và các sai số ngẫu nhiên (chọn mô hình FEM)
Nếu P-value < 0.05, thì bác bỏ giả thiết H 0 hay chọn mô hình FEM và ngƣợc lại thì chọn mô hình REM
Kiểm định LM của Breusch – Pagan là một phương pháp dùng để xác định mô hình phù hợp giữa REM (Random Effects Model) và Pooled OLS (Ordinary Least Squares), dựa trên giả định rằng phương sai của các sai số ngẫu nhiên ε i bằng 0.
H 0 : Phương sai các sai số ngẫu nhiên ε i bằng 0 (chọn mô hình Pooled OLS)
Khi phương sai các sai số ngẫu nhiên εi khác 0, chúng ta nên chọn mô hình REM Nếu P-value nhỏ hơn 0.05, giả thiết H0 bị bác bỏ, dẫn đến việc lựa chọn mô hình REM Ngược lại, nếu P-value lớn hơn hoặc bằng 0.05, mô hình Pooled OLS sẽ được sử dụng.
- Kiểm định F: là một kiểm định nhằm lựa chọn mô hình FEM hay Pooled
Xây dựng mô hình nghiên cứu
3.2.1 Điều kiện của dữ liệu thu thập và biến lựa chọn trong mô hình nghiên cứu
Việc lựa chọn các biến và dữ liệu sử dụng trong mô hình phải đáp ứng đƣợc các yêu cầu sau:
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu được lấy từ báo cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm toán hoặc báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Ngoài ra, các thông tin liên quan đến nền kinh tế cần được công bố trong các báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm của Chính phủ.
Thứ hai, các biến trong mô hình phải có đầy đủ dữ liệu trong giai đoạn
2005-2014, ngoài ra dữ liệu của các biến không có tương quan chặt với nhau (hệ số tương quan r > 0.6)
Mô hình hồi quy và các biến được lựa chọn cần phải bao gồm những biến đã được nghiên cứu và công bố bởi các nhà kinh tế trong các báo cáo trước đây.
3.2.2 Lựa chọn biến phụ thuộc
Trong nghiên cứu, các biến phụ thuộc được sử dụng bao gồm NIM, ROA và ROE Trong đó, NIM chỉ phản ánh lợi nhuận từ hoạt động cấp tín dụng, còn ROE thể hiện lợi nhuận so với vốn chủ sở hữu và bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ đòn bẩy tài chính Với mục tiêu đánh giá lợi nhuận tổng quát trong hoạt động ngân hàng, tác giả lựa chọn ROA làm biến phụ thuộc chính.
3.2.3 Lựa chọn biến độc lập
Trong nghiên cứu này, tác giả xem xét các biến vĩ mô ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại, bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát hàng năm Dữ liệu liên quan đến chính sách tiền tệ (tốc độ tăng trưởng cung tiền M2) và chính sách tài khóa (tốc độ tăng trưởng chi ngân sách Nhà nước) cũng được phân tích Kết quả cho thấy chính sách tài khóa có mối tương quan mạnh với tỷ lệ lạm phát (r = 0,77) và chính sách tiền tệ có mối tương quan chặt chẽ với tốc độ tăng trưởng kinh tế (r = 0,665) Do đó, các biến dữ liệu liên quan đến chính sách tiền tệ và tài khóa không được đưa vào mô hình phân tích.
Qua phân tích trên cho thấy, việc chỉ đƣa hai biến thể hiện tỷ lệ lạm phát (INF) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) là phù hợp
Trong việc lựa chọn các biến vi mô, cần đảm bảo rằng các biến này phản ánh đầy đủ các nhóm tính chất đã được nêu trong bảng 2.3 Các biến liên quan đến chi phí và thu nhập sẽ không được đưa vào mô hình, vì chúng tác động trực tiếp đến lợi nhuận; cụ thể, sự gia tăng chi phí sẽ làm giảm lợi nhuận và ngược lại Do đó, các biến thể hiện tính chất thu nhập hoặc chi phí sẽ không được sử dụng Bên cạnh đó, các nhóm tính chất chỉ có một biến giải thích như ảnh hưởng của đầu tư góp vốn dài hạn đến lợi nhuận và chất lượng tín dụng sẽ được đưa vào mô hình với tỷ lệ đầu tư, góp vốn dài hạn/TTS và tỷ lệ nợ xấu Phần tiếp theo sẽ giải thích lý do lựa chọn các biến còn lại trong mô hình nghiên cứu.
Theo lý thuyết về ảnh hưởng của quy mô đến hoạt động doanh nghiệp (Mankiw 1996, Rose 1999), quy mô tổng tài sản (TTS) thường được nhắc đến như một yếu tố quan trọng Vì vậy, tác giả đã chọn TTS của ngân hàng làm biến số đại diện cho quy mô ngân hàng trong mô hình nghiên cứu của mình.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng được đo lường qua hai chỉ số chính: tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản và tỷ lệ tiền gửi so với tổng tài sản (ETA) Tỷ lệ tiền gửi phản ánh khả năng huy động vốn và các khoản chiếm dụng trong tổng tài sản, trong khi ETA cho thấy mức độ tự chủ tài chính của ngân hàng thông qua tấm đệm "vốn tự có" Để thể hiện rõ ràng cơ cấu nguồn vốn và khả năng tự chủ tài chính của ngân hàng, tác giả đã lựa chọn biến số ETA để đưa vào mô hình phân tích.
Khả năng thanh khoản của ngân hàng được thể hiện qua các biến như L2 và tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản hoặc tổng vốn huy động Mặc dù L2 là chỉ số đo lường trực tiếp khả năng thanh khoản, nhưng dữ liệu về biến số này còn hạn chế Hơn nữa, tỷ lệ cho vay so với vốn huy động không phản ánh đầy đủ khả năng thanh khoản vì nhà quản lý có thể sử dụng các nguồn vốn khác để duy trì thanh khoản Do đó, tác giả quyết định lựa chọn biến tỷ lệ cho vay so với tổng tài sản để đưa vào mô hình phân tích.
Tốc độ mở rộng hoạt động tín dụng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), vì cấp tín dụng đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo ra nguồn thu nhập Chính sách tín dụng được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt chú trọng nhằm phân tích các yếu tố tác động đến lợi nhuận Để xây dựng các chính sách hiệu quả liên quan đến hoạt động cấp tín dụng, tác giả đã lựa chọn biến tốc độ tăng trưởng cho vay làm yếu tố giải thích cho tính chất mở rộng hoạt động trong mô hình nghiên cứu.
Bảng 3.1 trình bày lại các biến đƣợc sử dụng và dấu kì vọng của chúng trong mô hình nghiên cứu
Bảng 3.1 Các biến độc lập đƣợc sử dụng trong luận văn
STT Tên biến Cách xác định Ký hiệu
Kỳ vọng dấu tác động
1 Khả năng tự chủ tài chính Vốn CSH/Tổng tài sản ETA +/-
2 Tỷ lệ cho vay Cho vay/ Tổng tài sản LOANTA +
3 Tốc độ mở rộng quy mô hoạt động (Dƣ nợ t – Dƣ nợ t-1 )/ Dƣ nợ t-1 LOANGR +/-
4 Tỷ lệ nợ xấu Nợ xấu/ Tổng dƣ nợ NPL -
5 Tỷ lệ góp vốn, đầu tƣ dài hạn Giá trị góp vốn, đầu tƣ dài hạn/ Tổng tài sản INTA +/-
6 Quy mô tổng tài sản Logarit tổng tài sản LnSIZE +/-
7 Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP t –GDP t-1 )/ GDP t-1 GDP +
8 Tỷ lệ lạm phát Tỷ lệ lạm phát INF +/-
3.2.4 Dạng của mô hình hồi quy
Trong bài viết này, tác giả đã xây dựng mô hình hồi quy để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam trong giai đoạn 2005-2014 Dữ liệu được sử dụng là từ báo cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm toán của các ngân hàng, với tổng số quan sát là 250 và mức ý nghĩa được chọn là 5% Mô hình hồi quy được phát triển dựa trên các hình thức mô hình hồi quy từ những nghiên cứu trước đó, với dạng tuyến tính cụ thể.
ROA = c +β 1 (ETA) +β 2 (LOANTA) +β 3 (LOANGR) +β 4 (NPL) + β 5 (INTA)
Dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm trước đây và dữ liệu thu thập tại Việt Nam, mô hình trong đề tài này sử dụng biến phụ thuộc là ROA và 8 biến độc lập: Tỷ lệ VCSH/TTS (ETA), tỷ lệ cho vay/tổng tài sản (LOANTA), tốc độ tăng trưởng cho vay (LOANGR), tỷ lệ nợ xấu (NPL), tỷ lệ góp vốn đầu tư dài hạn/TTS (INTA), tổng tài sản (LnSIZE), tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và tỷ lệ lạm phát (INF) Mô hình hồi quy được xây dựng theo dạng tuyến tính và áp dụng phương pháp OLS.
Trong chương 4, tác giả trình bày những kết quả phân tích định tính và định lượng theo phương pháp nghiên cứu đã được trình bày trong chương 3.